← Quay lại trang sách

Cơn Bão Đã Đến Chương 3

Hôm nay bà chủ xưởng dệt Lê Thị Thảo Minh lại đi vắng. Bà lên phòng Thương mại, đến nhà Máy tơ rồi đến nhà Máy len của Đờvanhxy. Nhưng ở chỗ bày cái khung thêu mà bất thường bà lại ngồi thêu, người làm vẫn thấy như có mặt bà.

Phải, vẫn như có bà Thảo Minh ngồi đấy, người gầy đét, gò má cao, da ngăm ngăm, nhưng bà ăn mặc, kẻ lông mày, tô môi, uốn tóc và phấn sáp thế nào mà nhiều kẻ đã bảo là hao hao như Máclenđiêtơrích ngôi sao điện ảnh lừng tiếng thời bấy giờ. Bà Thảo Minh ngồi ở chỗ cái khung thêu bày làm vì ấy mà chuyện với các chị em. Toàn chuyện chính trị, chuyện thời thế. Chuyện nước Pháp thế nào cũng thắng quân Đức vì nước Pháp có cả một nền văn minh rạng rỡ đã cống hiến cho nhân loại bao nhiêu hạnh phúc, có cả một nền kỹ nghệ giàu mạnh nhưng nước Pháp không phô phang như Mỹ, và nước Pháp còn là một nước bao giờ cũng đi đầu trong các cuộc cách mạng giải phóng cho những người nô lệ. Nước Pháp lại còn rất tôn trọng tự do, nhân quyền, đề cao bình đẳng bác ái, được tất cả các nước trên thế giới mến phục, nhất là các nước nghèo yếu lạc hậu đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp. Còn thời thế thì bà chủ Thảo Minh khuyên chị em thợ nên hết sức làm việc thương yêu nhau chăm lo gia đình con cái, và tin tưởng ở tương lai.

Bà Thảo Minh ngồi thêu rua với chị em thợ nhà như thế chỉ được chừng mươi mũi kim. Bà càng nói, môi bà đã mỏng, đã cong lại càng mỏng, càng cong. Bà luôn luôn phải nhấp giọng cốc nước mà người làm biết là nước sâm Cao Ly nhưng bà bảo đó là rễ củ mài pha với đường hoa mai thôi, bà uống để thay cơm vì người bà háo.

Xưởng dệt Lê Thị Thảo Minh có hai khu: khu trước và khu sau. Khu trước gồm một dãy nhà gạch mười gian, giữa là một tòa nhà hai tầng. Mười gian nhà này có hai mươi khung cửi chuyên dệt đũi, máy mua ở tỉnh Lyông bên Pháp về lắp được hơn nửa năm nay. Tòa nhà hai tầng vừa là nhà ở và bàn giấy. Khu trước, còn có cả vườn hoa và nhà gara, nhưng nhà gara chưa có ô tô mà chỉ chứa cái xe kéo, sơn giả đồi mồi. Khu nhà sau là khu bà Thảo Minh thường ngồi làm việc với chị em thợ dựng ở bên trong, xa cách hẳn ngoài đường. Dãy nhà này cũng mười gian nhưng lợp lá. Tám gian nhỏ hai bên là nhà của vú em, kéo xe, làm vườn. Có cả nhà của người nuôi lợn, chăn bò sữa, xay thóc giã gạo, làm kho chứa đồ đạc và làm chuồng trại chăn nuôi gà, thỏ. Thợ đứng máy dệt và chị em thêu rua ra vào lối cổng chính ngoài đường. Trên cổng trưng một tấm biển xây bằng xi măng cốt sắt, sơn xanh đỏ vàng tím, đắp những hoa lá không hiểu hoa lá gì cũng sơn xanh đỏ vàng tím kết chằng chịt chung quanh một khung chữ đắp rất to:

Tissage Lê Thị Thảo Minh (1).

Bên trong cổng chính, ở giữa cái mái khum khum tròn tròn trước cửa tòa nhà hai tầng cũng có tấm biển hoa lá như kiểu bên ngoài và cũng đắp chữ Tây:

Villa Belle Rose (2)

⚝ ✽ ⚝

[1] Xưởng dệt Lê Thị Thảo Minh.

[2] Biệt thự Diễm Hồng.

Bốn chữ Lê Thị Thảo Minh chủ nhân cũng trưng rất to ở dưới những chữ Pháp kia.

Những người thêu rua ở xưởng trong có cả trẻ con. Phần đông là người đi làm khâu đầm bị thất nghiệp, những nữ học sinh lớn tuổi nhà nghèo, những em gái nhỏ cần học nghề. Trong đám này có một chị cũng là thợ trước kia một mình đứng trông hai máy lớn ở nhà Máy tơ, bị đuổi phải xin vào đây làm. Bà con chị em gọi là chị Bé và cũng có lúc gọi là chị Hiền, nhưng tên thật là chị Xim. Không phải chị Xim ngồi ở sau chỗ bà chủ Thảo Minh nên chị em để ý đến chị. Mà vì người chị bé nhỏ trông đã buồn, ít nói, lại xanh xao như người hậu sản, ăn mặc bao giờ cũng chỉ quần vải đen, áo vải đen, bức cũng chít khăn vuông vải đen, khác lạ hẳn bà Thảo Minh diêm dúa, kiểu cách, lúc nào cũng như con khướu bách thanh, hay như một cô đồng cô rí. Từ ngày Xim vào làm tới giờ, nhiều chị em cũng chỉ mới biết Xim góa chồng, được mỗi con gái và còn mẹ già. Còn chuyện vì sao Xim bị đuổi, đã là thợ đứng máy gần mười năm, và nhiều chuyện khác thì chưa người nào được biết.

Đã ba giờ. Nắng càng gắt. Xưởng làm trông thẳng hướng tây nhờ có hàng hiên và giàn thiên lý nên cũng đỡ bị nắng xói, nhưng lại bị tối vì nhà vừa thấp, nền nhà lại ẩm. Đây là dệ ao mới lấp, đất chưa kịp khô đã cất nhà. Đứng ngoài nắng nhìn vào nhà thấy rõ những hơi người và bụi bậm bốc lên với hơi đất. Về chiều, xưởng làm càng nhộn nhịp. Những tiếng kim sừn sựt xuyên qua lần vải dày và những tiếng chỉ kéo căng phừn phựt,... những tiếng gại kim vào mái tóc, tiếng tí tách cắn chỉ cùng với những tiếng người thở nghe càng rõ. Thỉnh thoảng có tiếng ném kéo, lại làm mấy người giật mình, ngửng đầu lên nhìn xem chỗ nào cứ làm mạnh tay thế, rồi lại cắm cúi làm. Có hai bà đã phải đeo kính, những lúc ngước lên như thế, nét mặt càng khó khăn hơn.

Công việc đương gấp. Cả việc thêu chữ vào áo len cũng như thêu chữ vào khăn. Xưởng dệt Lê Thị Thảo Minh vừa nhận thêm của nhà Máy len Đờvanhxy và của nhà Máy chỉ hàng nghìn khăn áo của thành phố Hải Phòng đặt làm quà về bên Pháp cho những mặt trận và nhà thương binh, đặc biệt, phải gửi kịp với chuyến quà của Hà Nội, Huế, Sài Gòn đương ganh nhau từng chữ quảng cáo trên các báo, các màn ảnh. Cũng như ở các nhà máy, các xưởng khác, bọn chủ đương ganh nhau gửi đi từ than đá, xi măng, cao su đến thuốc men, kẹo mứt, cà phê, chè và cả đồ chơi. Cũng như ở các hội từ thiện, các hội bảo trợ, bọn quan to đỡ đầu, các ngài hội trưởng và danh dự hội viên đương ganh nhau mở các cuộc xổ số, lạc quyên để quyên tiền, quyên cả len dạ, quần áo, chăn màn, tượng Đức Bà, ảnh phong cảnh và tranh thiếu nữ khỏa thân gửi đi.

Với những tên nhà máy, tên thành phố thêu rua rất cẩn thận, những khăn tắm, khăn mặt, áo len đặt làm kia không những chỉ gửi tặng quân lính Mẫu quốc mà còn dự các cuộc đấu xảo, các cuộc hội chợ ở Ba Lê. Bà chủ Lê Thị Thảo Minh và mấy bà khâu đầm có tuổi và là hạng giỏi nhất chuyên làm những hàng dự hội chợ, dự đấu xảo...

Ngay khi bà Lê Thị Thảo Minh ra cửa, bà còn đứng lại léo xéo một thôi một hồi dặn dò chị em. Tiếng cười khanh khách của bà và tiếng chuông kính coong của cái xe nhà vừa đi khỏi, thì cả gian nhà rộng với năm mươi hai con người làm việc ở dưới đất, ngồi trên những ghế con không đủ kê đít, bên những khung gỗ kia, bắt đầu có một sự im lặng đặc biệt. Rồi càng xế chiều, cái lặng lẽ của xưởng càng chìm càng nặng.

Chiều này thứ bảy và thứ bảy cuối tháng. Ác thật!

Tháng này chị em người nào cũng làm tăng. Người làm chậm, làm kém nhất cũng làm hơn tháng trước từ hai mươi đến ba mươi phần trăm đồ hàng. Một cái khăn trước kia được một xu rưỡi. Người làm giỏi làm nhanh một ngày được mười lăm cái, nay có người làm được hẳn hai mươi lăm cái, cả thêu rua. Như thế tháng này người nào cũng được trên tám đồng. Vậy mà kỳ trả tiền nửa tháng vừa rồi bà chủ lại bảo cả nhà Máy chỉ và Sở len Đờvanhxy chưa trả tiền hàng. Số tiền mới đây chị em lĩnh hai đồng là bà phải vay chằng vào một món tiền lửa để ứng cho chị em. Cả cái bé mười ba tuổi cháu họ xa của bà cùng làm với chị em cũng không tin được. Vì ai nấy đều biết rõ mỗi chuyến hàng bà đem đi trả, hai sở kia đều phải tính tiền ngay. Không những tất cả đều không tin mà còn biết thêm rằng hai ông bà vừa mua thêm tơ. Chỗ tơ này trị giá hàng ba vạn đồng. Chỉ trong vòng nửa tháng, có nhiều xưởng dệt muốn mua lại chỗ tơ phải nằn nèo trả ông bà lên bốn vạn đồng, nhưng, trước thì ông nghe bà không nghe, sau cả hai ông bà đều từ chối. Bà bảo rằng ông bà không thể đang tâm cầm món tiền lãi mà để thợ nhà thiếu việc, bớt bát.

Tuy bà Lê Thị Thảo Minh đi lâu rồi nhưng tiếng cười của bà vẫn cứ khanh khách ở dưới giàn lý, ở ngoài vườn hoa, ở trên bàn giấy, phòng khách, ở xưởng máy, ở phòng ngủ trên gác, ở sân thượng chót vót, ở cả chỗ xay thóc để nuôi lợn và nhà bếp. Đúng! Tiếng cười giòn giã của bà Lê Thị Thảo Minh vẫn lanh lảnh khắp khu xưởng dệt, xưởng thêu rua như hôm cưới bà xong, bà thết cỗ toàn thể người ăn kẻ làm trong nhà của bà rồi bà đi chơi một tháng trăng mật với chồng vậy.

Bà Lê Thị Thảo Minh năm nay hai mươi chín tuổi. Xưởng dệt này trước kia là của Lê Thị Thảo, Lê Thị Thảo là em út bà. Người em chết đã được hơn một năm. Đúng một năm, giỗ em xong thì bà lấy chồng. Bà lấy người chồng của em gái bà, của Lê Thị Thảo.

- Em ơi! Em chết đi, đất nước thiệt một tinh hoa, xã hội mất một bầu nhiệt huyết, bè bạn khuất một bóng thân yêu, gia đình tan nát cả một nguồn yêu thương hy vọng... em Thảo ơi!

Bà Lê Thị Thảo Minh đã khóc em, nước mắt ròng ròng chảy xuống hòn đất xám mà bà lót mùi soa cầm lên khi đào huyệt. Bà nức nở nhìn hòn đất rồi ném trước tiên xuống huyệt ra lệnh cho hạ áo quan. Lê Thị Thảo chết mới có hai mươi ba tuổi. Gia đình Lê Thị có ba chị em: hai gái, một trai. Bố làm thừa phái về hưu, nghiện thuốc phiện, sống bằng nghề chạy việc và cho vay lãi. Ba chị em bồ côi mẹ ở với bố cho tới lúc lớn. Rồi bố chết cũng vẫn ở với nhau. Cả ba chị em đều được ăn học, kẻ tốt nghiệp lớp nhất, kẻ thi được vào trường Thành chung. Nhưng chỉ có chị cả Lê Thị Minh là sắc sảo và em út Lê Thị Thảo là thông minh. Thảo học đến nửa năm thứ hai thì bỏ trường Thành chung về nhà mở thêm một cửa hàng tấm bán với chị cả ở chợ Sắt.

Thời kỳ Mặt trận bình dân vừa nổi, Minh và Thảo liên lạc ngay với anh họ là chủ hiệu may Cần Lao. Trong các cuộc Hải Phòng đi đón Lao công đại sứ Gôđa, chợ Sắt bãi thị ủng hộ chợ Đồng Xuân trên Hà Nội đấu tranh, thì Cần Lao vào ban đại biểu của ngành thợ may, Minh và Thảo vào ban đại biểu của chị em tiểu thương chợ Sắt đi mét tinh, quyên tiền và lấy chữ ký. Ngày Một tháng Năm năm một nghìn chín trăm ba mươi tám trên Hà Nội biểu tình, giới tiểu thương có ý kiến cử chị em Minh, Thảo vào Ban đại biểu lên Hà Nội tham dự, nhưng cả hai đều không nhận, nói xin nhường vinh dự ấy cho những đại biểu có tinh thần, xứng đáng hơn chị em y. Vừa đến khi phong trào lại bị khủng bố, cả Minh, Thảo và ông anh họ chủ hiệu may Cần Lao liền đề nghị ngay với mấy anh chị em đại biểu và hoạt động tích cực thường đến nhà bọn y nên giữ gìn cho bọn y. Rồi trong khi Cần Lao anh nhất định xin rút ra khỏi ban thư ký Ái hữu thợ may và thôi không thổi cơm tháng cho Chấn và một chính trị phạm nữa đại diện cho tờ báo của Mặt trận dân chủ ở trên Hà Nội về ăn, thì Minh chị và Thảo em cũng nhất định cắt đứt liên lạc, không dây dính gì với ai nữa, dọn hàng về chợ Kiến An đã sẵn có nhà và cửa hàng tấm. Hôm hai chị em Minh, Thảo chào bà con chợ Sắt về tỉnh nhà Kiến An, Minh chị đã trề cái mồm, nhăn cái mặt, lắc lắc cái đầu:

- Các ông chính trị phạm hoạt động công khai là chúa hay mắc cái bệnh tếu của tiểu tư sản. Các ông chủ trương hay làm việc gì cũng lộ lực lượng để rồi bị khủng bố. May mà mình chỉ có một lần lên cái nhà báo, chuyện tào lao mấy câu để thử trình độ văn hóa, chính trị của các ông ấy, rồi mua ủng hộ cho mấy cuốn sách chứ không thì... thật là trẻ con hết!

Minh chị và Thảo em chỉ dọn cửa hàng tấm về phố chợ Kiến An ít lâu, người ta thấy Lê Thị Thảo thôi không bán hàng mà tậu đất, làm nhà, mở xưởng ở con đường Cầu Niệm. Rồi máy móc ở bên Pháp chở sang, rồi khánh thành Tissage Lê Thị Thảo. Rồi Lê Thị Thảo đẻ. Đẻ một con gái như... Tây. Vì nó thật là con Tây. Nhưng Lê Thị Thảo lại không khai tên bố cho con mà chỉ cười phớt khi có người hỏi. Người ta bảo đấy là con lão chánh sứ già Kiến An, hồi còn mồ ma thừa Minh, và lão chánh sứ còn làm ở Quảng Yên, thừa Minh vẫn dắt khách kiếm lễ cho lão sứ ấy. Tất cả dinh cơ và xưởng dệt là tiền của lão sứ và các món bổng mà Minh cùng Thảo kiếm được. Lão sứ về Pháp được ít lâu thì chết. Trước khi chết, lão đã nhờ người mua số máy dệt gửi sang cho vợ cho con. Cáo phó của lão đăng trên một tờ báo ở Pháp và trên tờ báo Thời sự Hải Phòng của Đờvanhxy tuần trước, thì tuần sau Lê Thị Thảo cưới chồng.

Thấy nói chồng của Lê Thị Thảo vừa là một nhà trí thức, một kỹ nghệ gia và một cựu chính trị phạm. Y đỗ bằng Đíplôm, bị bắt ở Kiến An vì dính líu vào một vụ phát truyền đơn, năm một nghìn chín trăm hai mươi chín kết án mười năm cấm cố đày đi Côn Đảo. Năm một nghìn chín trăm ba mươi sáu y được tha về chuyến đầu tiên. Trong tù, y chỉ toàn ốm, kêu đau tim nặng, cuộc đấu tranh nào anh em chung quanh cũng phải đẩy y như đẩy xe bò đá lên dốc và phải xốc y như một cái xác tải. Về nhà được vài tháng, nào tiêm thuốc tây, uống thuốc bắc, nào đi nằm bệnh viện riêng của đốc tờ Tây trên Hà Nội, đoạn y đi làm ngay. Y chung với một người làm đại lý cho nhà Máy tơ Hải Phòng rồi gọi cổ phần mở xưởng dệt. Chủ hiệu may Cần Lao anh làm mối Đào Xuân Hồng nhà trí thức, kỹ nghệ và cựu chính trị phạm, bạn hiểu biết y nhất kia cho Lê Thị Thảo, cô em vừa có văn hóa, có tâm hồn, có tư tưởng nọ.

Lê Thị Thảo lấy Đào Xuân Hồng được ba tháng thì chết. Lê Thị Thảo ho lao. Cưới chồng xong Lê Thị Thảo càng đẹp. Dạo phố Hải Phòng, ngồi trên xe nhà - vẫn cái xe nhà gọng mạ kền, sơn giả đồi mồi mà bà chủ Lê Thị Minh thường ngồi đi phố hiện nay - Lê Thị Thảo tựa lưng vào cái đệm bọc cẩm châu hoa đào, mặc bộ quần áo lụa Quảng Nam, tóc búi buông lơi, cổ đeo chuỗi hột ngọc, dạo phố Hải Phòng, đã làm nhiều tay nhà buôn, tay làm ở Đốc lý, ở tòa án, kẻ có vợ, kẻ góa vợ hay chưa có vợ, đều tiếc rẻ mình chậm chân quá và không chịu khó tìm mối lái tốt!

Lê Thị Minh cưới Đào Xuân Hồng cũng không ở Hải Phòng mà lại lên Hà Nội. Đám cưới đi, đàn ông hai họ lại đóng khung toàn thể lễ phục sì mốc kinh, còn đàn bà hai họ toàn đồ hàng cẩm châu, nhung, len, dạ, xa tanh, gấm. Ăn ở ôten Con gà vàng. Trong bữa tiệc có đến sáu người đọc chúc từ, và khi đôi lứa uyên ương đứng lên đáp từ, ban khánh tiết cũng lại thả một đôi bồ câu trắng cho bay ra ngoài trời bảo rằng "cẩm" như nghi lễ văn minh phương Tây... Cả đứa con gái Tây của Lê Thị Thảo cũng bế đi dự tiệc cưới. Người cha hai lần "ghẻ" của đứa bé đón nó từ trong tay người vợ mới, bồng cao nó lên, hôn đi hôn lại.

*

Nếu như chị em bà chủ xưởng dệt Lê Thị Thảo Minh đã vui mừng vì năm xưa chỉ có một lần đến cái nhà báo công khai kia, chuyện tào lao mấy câu để thử trình độ văn hóa chính trị của mấy cựu chính trị phạm hoạt động "chúa là mắc cái bệnh tếu của tiểu tư sản", và chỉ đã mua giúp cho mấy cuốn sách loàng nhoàng, thì cái nhà chị Xim góa chồng, người bé nhỏ, gầy yếu, buồn rầu mà chị em xưởng thêu rua gọi là chị Bé hay chị Hiền ấy, cũng rất mừng vì cũng có một lần chị gặp hai bà nhưng cả hai bà đều không nhớ ra chị. Quý nhất là bà chủ Lê Thị Minh, cho đến nay cũng chỉ biết chị là con cu li nhà Máy tơ bị đuổi vì nhà máy giãn thợ, chị ốm yếu, chậm chạp, con thơ con mọn, bà thương tình cảnh nên cho vào làm ở xưởng bà. Còn một lẽ nữa là bà muốn tỏ ra vợ chồng bà đều là những đầu óc "xã hội", được nhà cầm quyền vì nể, khác hẳn với những loại chủ tẹp nhẹp xoàng xĩnh.

... Giữa cái không khí của xưởng làm việc tuy cửa mở đằng trước, cửa mở đằng sau và có một hàng hiên rộng bắc giàn hoa lý nhưng vẫn ẩm ướt mờ tối, và lúc nào cũng như có những tiếng nói liên liến nếu không lại là những tiếng cười khanh khách của bà chủ Lê Thị Thảo Minh, Xim càng thấy trong đầu buốt nhức. Không phải chỉ vì hôm nay là chiều thứ bảy và là chiều thứ bảy cuối tháng mà không một chị em nào không đương như có lửa đốt trong ruột trong gan vì hết tiền, hết gạo và công nợ. Cũng không phải chỉ vì cái im lặng của một cảnh làm việc đến mụ cả người, rời rã hết gân cốt, mà còn vì nhiều sự nung nấu khác nên cái chị Xim bé nhỏ, xanh xao và ít nói kia đã thấy tâm trí như thế.

Chỉ còn ba ngày nữa là Một tháng Năm. Một tháng Năm năm ngoái, Hải Phòng không có mét tinh biểu tình công khai rung chuyển như ngày Một tháng Năm năm 1938 ở Hà Nội. Nhưng chỉ một tháng sau thì các nhà máy lại nổ đấu tranh. Trước tiên, nhà Máy tơ của Xim lại đình công. Rồi đến bến tàu to Sáu Kho. Rồi đến Sở dệt thảm Hàng Kênh của Đờvanhxy, nay là xưởng dệt đồ len mà Xim cùng chị em đương nhận thêu rua các áo để gửi gấp sang Tây. Không những công nhân chỉ đình công mà còn mét tinh ngay trước tòa Đốc lý. Không những chỉ có công nhân Máy tơ là đông nhất và lại đình công nhiều ngày nhất, mà cả công nhân bến tàu Sáu Kho và ba sở kia cũng mét tinh. Sau cuộc mét tinh cả công nhân năm sở kéo nhau đi tuần hành thị oai, hô khẩu hiệu cùng đường. Hàng phố, người đi làm về, học trò, anh em kéo xe cũng giơ nắm tay hô theo, đón cuộc tuần hành diễu qua. Đến khi cuộc tuần hành bị đội xếp, mật thám đem cả cam nhông và thúc cả lính lê dương đàn áp, đánh người mình, định bắt người mình, thì tất cả công nhân và quần chúng đường phố lại còn xông vào chống khủng bố giữ lấy người, càng vững hàng ngũ, tràn đến Sở thanh tra lao động đòi phải can thiệp với bọn chủ nhà máy, chủ hãng phải tăng lương và thi hành nghiêm chỉnh các luật lệ lao động.

Tháng sáu và tháng bảy 1939.

Phải! Mới ngày tháng sáu và tháng bảy năm ngoái thôi. Ở những sở đình công, không công nhân sở nào không trải qua nhiều thử thách. Lúc thì bị đe dọa, lúc thì nghe phỉnh phờ, lúc thì bị gọi hẳn lên Sở mật thám tra hỏi giam giữ. Có cuộc phải sang ngày thứ hai thứ ba. Nhà Máy tơ của Xim phải sang đến ngày thứ sáu mới thắng lợi. Sau cuộc đình công của năm sở và cuộc tuần hành thị oai cuốn theo cả quần chúng đường phố, nhiều nhà máy, xưởng thợ khác cũng rục rịch đình công, bãi công. Báo Đời nay ra tiếp ngay báo Tin tức của Mặt trận dân chủ vừa bị cấm, và các sách mác xít trên Hà Nội tới tấp chuyển xuống. Các báo Dân chúng, báo Mới trong Sài Gòn gửi ra, cứ tăng mỗi kỳ hàng trăm mà bán không kịp.

Chính ngày mười bốn tháng bảy năm ngoái và giữa cao trào đấu tranh Xim đã được kết nạp vào Đảng. Rồi đến tháng chín phát xít Đức gây chiến tranh. Lại khủng bố và khủng bố càng gay gắt.

Tin tức ở Sở mật thám và trong đề lao đưa ra cho biết nhiều anh chị em lại bị tra tấn rất dã man. Toàn những tên thanh tra mật thám chuyển lên làm phó cẩm chính trị, và phó cẩm thành chánh cẩm, đã phá hoại và khủng bố cách mạng từ năm 1929-1930-1931, hỏi cung và đánh.

Mặt Xim lại sa sầm. Mũi kim thêu vừa đâm xuống vải, đâm luôn vào ngón trỏ bàn tay trái của Xim đón kim dưới mặt khăn. Chị em ngồi cạnh thấy Xim vậy cũng không lạ lắm. Chính họ cũng thường bị xây xẩm mặt mày như thế những lúc cả ngày đã phải làm quá sức mà vẫn phải cố ngồi mãi về chiều. Còn Xim gục mặt xuống đầu gối khi ngẩng lên vẫn thấy choáng váng, bao nhiêu hình ảnh cứ quay cuồng trước mặt.

Xim thấy mặn mặn cả miệng. Chỗ đầu ngón tay trỏ để đón mũi kim ở dưới mặt khăn vốn đã bị đâm nát và luôn luôn rớm máu giờ lại thêm một mũi ngập sâu quá nên máu tứa hẳn ra. Xim nuốt, thấy rõ từng giọt. Vừa phần không tiện ra ngoài nhổ, vừa phần nghĩ đến mình đã còm cõi, ăn uống lại không có gì, Xim càng tiếc, nên cố nún nún chỗ máu chảy cho thật kiệt.

... Một tháng Năm! Chỉ còn có ba ngày nữa! Chủ trương không có những cuộc mít tinh to và công khai trong lúc này là đúng. Nhưng để kỷ niệm ngày quốc tế vô sản đấu tranh ấy, Hải Phòng của Xim sẽ phải làm gì và Xim sẽ được phân công làm gì đây? Hay tổ chức định lùi ngày để làm một cuộc kỷ niệm đặc biệt nên đến hôm nay ta vẫn chưa được phổ biến gì cả?!

Tưởng đến ngày kỷ niệm sắp tới với các cuộc đấu tranh sẽ nổ ra và những việc mình sẽ được cắt cử, cùng các anh chị em, đồng chí chiến đấu, Xim lại càng thấm thía vì đời sống hiện nay của Xim. Từ một cái bé theo mẹ đi làm đứng phụ máy với mẹ ba bốn năm, Xim thành một thợ lành nghề, rồi khi mẹ nghỉ nhà, Xim đã đứng trông hai máy của mẹ hơn tám năm. Vậy mà Xim bị đuổi, bị thất nghiệp, phải xin vào làm ở cái xưởng thêu rua, sống những cảnh làm ăn khốn khổ khốn nạn, bóc lột tàn tệ thế này đây! Và rồi đây cứ phải bám lấy cái xưởng này thì đời Xim sẽ ra sao?

Tiếng chuông điện cho thợ nghỉ tầm ran ran trên xưởng máy. Dưới xưởng thêu rua, người làm còn phải ở lại thêm mười lăm phút để thu xếp đồ lề và giao hàng cho người chị họ bà chủ làm cai xưởng rồi mới được ra về.

Trời về chiều ráng càng đỏ. Đường nhựa loáng lên như có lửa. Xim đi cùng đường với chị bạn khâu đầm đứng tuổi và cô học sinh người đen, béo đẫy mà Xim đương chú ý. Trong đám chị em về đông, cô thợ thêu ít tuổi nhất ấy lại kể những tin tức trên báo về tình hình chiến tranh, về những thông báo của chính phủ bên Pháp, ở Đông Dương, vừa nhắc lại những câu nói của bà chủ xưởng, và gợi đến cảnh cuối tháng cùng quẫn của thợ với một giọng mai mỉa rất ý nhị, thấm thía. Thấy Xim đăm đăm nghe mình nói, và có nhiều người ồn ồn lộ sự bực giận xót xa, cả người con gái ấy và người khâu đầm đứng tuổi càng long lanh đôi mắt nhìn Xim, nhìn mấy bà mấy cô đi bên như để hỏi:

- Chúng ta bị lừa dối, bóc lột như thế đành chịu mãi sao?

- Phải! Chúng ta phải bảo nhau làm gì để không những chúng ta không phải chịu những cái đó mà còn làm cho đời sống chúng ta đổi khác đi chứ?

Tâm trí Xim lại nao nức hẳn lên. Xim cũng long lanh mắt nhìn mọi người để hỏi thầm thêm câu trên đây. Đến đầu đường Xim sẽ sàng chào mọi người, hẹn ngày kia lại rủ nhau đi tầm, rồi Xim rẽ về xóm nhà. Xim còn đương khấp khởi suy nghĩ và tính đến việc công tác gấp hai người bạn nọ mà Xim càng thấy có thể phát triển gây thêm cơ sở cho phong trào, thì đến gốc găng vào xóm Xim chợt thấy bà mẹ lọm khọm cắp cái rổ đi lại phía mình. Xim bước nhanh lên gọi:

- U ơi! U đi giả lạc đấy à?

Nhưng thấy mẹ mang rổ không, Xim ngạc nhiên:

- Ở nhà u thổi cơm rồi?

Bà cụ Xim gật đầu:

- Thổi cơm nấu nước cả rồi! Nhưng hôm nay trong xóm chả có ai rao gọi mua mớ tôm mớ tép hay giỏ cua gì cả! U đón mãi, đến mớ mùng tơi rau đay để nấu bát canh suông cũng không thấy nốt! Giờ u ra chợ Cột Đèn xem có gì không. Thịt cá đắt không được ăn, thì cũng phải mua lấy mớ tép hay cá duội khô về rim với nước mắm mà ăn chứ chả nhẽ ăn nhạt?

Hai mẹ con đi chậm chậm. Chợt Xim thấy một cái xe đạp xộc xệch và một người vẻ mặt rất gian nhưng cố ý làm ra vẻ ngớ ngẩn của một kẻ đi chơi loăng quăng cứ lượn đi lượn lại ở đầu xóm trong. Xim vẫn nhìn thẳng, khẽ gọi mẹ:

- U này!...

"U này! Mấy hôm nay u có thấy trong xóm ngoài ngõ có ai dò hỏi gì không? Những thằng bé xú doóc, những thằng chỉ điểm người trong xóm có vẻ gì khác không? Con khi đi khi về có bị ai theo dõi không? Cả u nữa, khi đi khi về hay khi ở nhà, u có để ý đến những người lạ mặt và cả mấy người hàng xóm không tốt ở chung quanh, xem họ có những cử chỉ hay những cái gì đáng nghi ngại không?"

Xim định hỏi mẹ những câu này, nhưng nghĩ lại nếu có những việc như thế, không cần phải đợi Xim hỏi, bà mẹ cũng báo tin cho Xim ngay, và còn căn dặn nhắc nhủ thêm Xim phải giữ gìn hơn nữa.

Đến cái chợ họp ở ngã tư gọi là chợ Cột Đèn, hai mẹ con thấy một đám đông to tiếng như mổ bò, quây vòng trong vòng ngoài một hàng không hiểu là hàng gì. Xim phải lách mãi mới nhìn vào được. Thì ra một bà trong làng có mớ hơn chục con cá diếc to còn ngáp và lưng rổ tôm càng cứ giãy tanh tách. Còn người mua không những chỉ đàn bà mà có cả đàn ông và những con gái toàn là những tiểu thư, công tử, những bà chủ ông chủ đâu như ở Thượng Hải, Hồng Kông mới sang ấy. Hàng chục bàn tay, cánh tay cứ sấn sổ đè lên nhau để giữ lấy cạp rổ. Bà hàng giọng nói đã thất thanh, nhiều lúc lại kêu u ú như bị bóp cổ, vì không biết bao nhiêu người vít cả đầu, bẻ cả tay mà dúi tiền cướp lấy mớ tôm cá. Xim lắc đầu, bảo mẹ đành vào tít trong kia xem sao. Các hàng trong đây cũng không còn một miếng thịt hay con cá nào nữa. Gà, vịt thì đắt như vàng. Hai mẹ con lại mua bốn mớ rau muống, một xu vừa quả vừa lá me để về luộc đánh dấm ăn cơm.

Đến cái cột đèn sơn hắc ín ở đầu đường, Xim đưa rổ

cho mẹ:

- U về cứ ăn cơm trước. Con lên trên phố có người chị em người ta cho giật lửa một đồng bạc để mai đi chợ.

Thoạt nghe bà cụ Xim đờ người ra. Bà vừa ngạc nhiên vừa giận: "Đi đâu mà vội thế? Hẵng về ăn cơm nào! Đã đi làm cả ngày, giờ mới được miếng cơm chín". Xim biết ý mẹ, tươi cười:

- Người ta hẹn con bảy giờ phải lên mà lấy tiền. Chồng người ta máu mê cờ bạc, người ta không dám giữ tiền lại cho mình!

Hiểu rằng đây lại là một công việc gấp, hệ trọng, nên Xim phải nói dối cả mẹ, bà cụ Xim lại phải bảo con:

- Thì cô đi... Cô giật được tiền nhớ mua cho tôi một lọ thuốc đau mắt ở hiệu Phúc Sinh đường, nếu đấy không có thì thôi, đừng mua thứ khác đấy!

Xim biết mẹ lại dặn ý mình phải xem xét cẩn thận khi lên trên ấy, kẻo ở đây tuy có nhiều người quen nhưng lại có nhiều mật thám, nhất là dạo này chúng nó đương khám nhà, vây bắt người luôn luôn. Xim đi được một quãng, quay lại ra vẻ trông mẹ mua hàng nhưng thực ra để xem có gì đáng nghi ngại rồi mới rảo bước. Xim đến một nhà chị em cơ sở trong nhà Máy tơ. Xim lấy tin tức tình hình cuộc vận động những anh chị em kém tinh thần, tình hình bọn người nhà cai, xếp và bọn chỉ điểm để báo cáo lên thành ủy. Sau đấy Xim đến cơ quan liên lạc để nhận những chỉ thị mới, những tài liệu mới. Xim đã đói, cứ phải uống mãi nước chè tươi nên càng cồn cào, váng vất. Nhưng khi Xim đến một nhà quen, vờ hỏi thuốc đau mắt cho mẹ để điều tra thêm về hai người bạn gái ở xưởng thêu của Xim kia, Xim vẫn cứ phải uống thêm hai chén nước nữa mà là nước vối ủ với cây nhân trần đắng như thuốc lá hậu sản.

Khi Xim trở về đã chín giờ. Đường phố vẫn tấp nập. Rạp Lạc Mông Đài lại diễn vở cải lương Hận tình trong lửa đạn. Vẫn những quảng cáo trước. Ba cỗ súng đại bác đan bằng nứa phất giấy dầu đen, dựng trên ba cái xe bò có ba ổ chiến lũy cũng đan bằng nứa phất giấy dầu nham nhở, nhưng dây thép gai là dây thép thật. Ở giữa ba ổ chiến lũy thép ấy, trương một tấm biển lớn vẽ cảnh một cô đầm đeo dấu hiệu hồng thập tự, mặc một thứ quần áo như thời La Mã, ôm trong lòng một người lính ta đội mũ chào mào lệch, đeo súng lục trễ bên hông, một dòng máu rỉ từ trán xuống đẫm ngực, miệng he hé có một dòng chữ tia ra: "Em ơi! Giữa chốn sa trường hy sanh cho nhân loại, tình hận đôi ta bất diệt ngàn thu...".

Tuy cửa rạp cũng lắp đèn phòng thủ nhưng chỉ mờ mờ tối ở những xó hè, những gốc cây gần đấy, còn trong rạp vẫn sáng trưng. Cả những hàng phở, hàng cháo, hàng giải khát, cắt tóc, thợ may, thuốc lậu, chụp ảnh ở hai bên rạp cũng để đèn như thế. Hàng nào không có biển to thì cũng có những tranh vẽ, tranh in những cảnh "sa trường ly hận và cao quý" như kiểu quảng cáo của rạp hát. Cạnh một gốc bàng to, xế rạp hát, mùi nước dùng hồ tiêu và hành hoa của hàng phở xe lừng lên, người ăn còn đông hơn trong các hàng cao lâu.

Xim ngồi xuống hàng cháo cua của một bà cũng chuyên bán cho các khách ăn ít tiền, đặc biệt là khách đàn bà. Xim gọi múc một bát hai xu. Cháo nóng ngon mà rẻ, Xim ăn thấy tỉnh hẳn người. Xim tưởng còn hơn cả bát chè có tám vị thuốc bắc gọi là chè bát bảo hay chè hạt sen long nhãn lòng đỏ trứng gà những hai hào một bát trên cao lâu Đào Viên, hàng giải khát Dê phia (3), hay hơn cả bát vằn thắn thập cẩm nào gan, tim, xá xíu, thịt gà, nước dùng nấu với tôm he, nấm hương, chỉ bán buổi trưa và tối khuya của cao lâu Cộng Hòa cũng nổi tiếng trên phố Hàng Cháo. Thấy Xim đội nón lá mỏng che nghiêng mặt và thấy Xim tuy mặc quần láng thâm, áo cánh vải đen, áo dài vải nâu đồng lầm nhưng người gọn ghẽ, thon thả, thằng bồi săm ở cái săm ngay đầu phố trông sang trại lính khố xanh và tên xe ma cô đương đợi khách chơi ra, liền sấn ngay đến hất hất nón của Xim, cười hỏi:

- "Bò lạc" ở đâu về thế này?

- Gớm! Không chịu đi xem hát rồi vào hàng vào hiệu mà ăn uống!...

Xim không đáp. Thằng bồi săm thúc cả mũi dép vào đít Xim:

- Có đi khách không? Ăn xong rồi đi nhé? Khách đội Tây mới ở Đông Triều về đấy.

Xim đã giơ bát cho bà hàng định mua ăn bát nữa mà phải vội giả tiền, đứng dậy, lách các người đương chìa bát xuống cho bà hàng múc, để đi ra. Mồ hôi Xim lấm tấm cả trán. Có giọt thấm xuống cằm rồi xuống mỏ ác. Xim lại rảo bước. Kim ở cái đồng hồ to bằng cái mâm của hiệu chữa đồng hồ ở ngã tư đã trỏ chín giờ rưỡi.

- Có đi khách không?

- Khách lái gỗ ở Ba Chẽ, có đi không?

- Khách cai bao thầu ngoài mỏ Vàng Danh sộp lắm!

- Lính mộ sang Tây vừa mới lĩnh tiền công ta (4)ngủ cả đêm đấy!

⚝ ✽ ⚝

[3] Gió xuân.

[4] Hợp đồng.

- Này này có đi khách không?

Suốt dọc đường Trại Cau, đường Chợ Con, các hàng ăn uống, cắt tóc, thợ may, thuốc lậu, chụp ảnh, chữa đồng hồ cũng giăng giăng ra. Mấy hàng, dưới nhà bán mì vằn thắn, trên chứa bạc của mấy chủ hiệu khách chạy loạn ở Hồng Kông sang vừa mới mở, lại càng sáng đèn, càng ồn ĩ hơn. Xim đi ở mé đường, chốc chốc lại bị một cái xe chạy lại. Hắn xồ hẳn càng xe vào mặt Xim mà gọi, mà hỏi. Xim càng không đáp, càng đi miết, chúng càng bám sát, càng thúc, càng hỏi.

"Hay đây là những thằng sú doóc, thằng chỉ điểm". Xim tự nhủ, càng phải để ý, càng cố nhận ra những tên kéo xe lưu manh nọ. Thấy chúng nó khi không theo Xim nữa thì chạy đến một cổng nhà săm hay đến một gốc cây đương có người chờ, Xim mới yên tâm. Xim lại về lối chợ Cột Đèn. Chợt Xim bỏ nón, sửng sốt nhìn.

Có một đám còn đông hơn cả đám ban nãy tranh cướp nhau mua mớ tôm cá của bà trong làng nhưng không ồn ĩ quá. Xim ngó xem, thì ra người ta đương xem bói và xem số. Bói là một cô thầy mù, trạc chỉ độ hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Khách của cô toàn những trai gái, có hai người lính chào mào bói về đường công danh tài lợi và lương duyên. Còn thầy xem số xem tướng vẫn là cái lão bố thằng Ba lé cùng ở xóm Cấm với Xim trước kia. Lão ta ban ngày ngồi ở gần cầu Carông, râu như râu chuột nhấp nha nhấp nháy, môi mép lúc nào cũng bám những sợi rau, sợi nộm, vụn bánh rán kẹo lạc và sặc hơi rượu. Thằng Ba lé dạo này bỏ hẳn lão, đưa con vợ lẽ lên thuê nhà trên phố. Sau mấy món chỉ điểm được thưởng hàng trăm bạc, và đưa hàng lậu cho vợ làm ngoài Sáu Kho nghe đâu cũng kiếm được bạc trăm. Trong khi thằng con kiếm chác được thì thằng bố cũng đông khách. Khách của lão râu chuột và sâu rượu này vẫn là những người con gái nhà quê bỏ nhà đi ở con sen con nhài, những người con trai phụ bếp, kéo xe nhà, gánh nước, họ xin được những quẻ thẻ ở điện đức Thượng Ngàn Vườn hoa Chéo về gia sự và lương duyên.

Xim vừa qua khỏi đám đông tụ họp với các thứ hàng quán la liệt dưới cái cột đèn bằng sắt kia, bao nhiêu kỷ niệm bao nhiêu ý nghĩ về phong trào năm trước lại gợi ra.

Cái ngã tư gọi là ngã tư chợ Cột Đèn này có bốn con đường đổ đến. Ở con đường từ sông Lấp qua đường Cát Cụt, sáng chiều đi về có thợ của nhà máy Carông, nhà máy Comben, và phu phen của các lán củi, lán gạch, ngói, vôi, gỗ, lán than của các thuyền bè, sà lan. Ở con đường từ An Dương ngược lên, tuy thợ thuyền phu phen đi về không đông bằng, nhưng lại nhiều người buôn bán gồng gánh, nhiều xe ngựa, xe kéo, tải rau quả, gà vịt tôm cá, gạo đỗ bên tỉnh Kiến An sang. Con đường từ các xóm các làng Dư Hàng, Quán Nải quặt ra đây thì không lúc nào không ầm ĩ túi bụi vì xe bò, xe ba gác, xe đạp và cả người họp chợ. Còn con đường từ trại lính khố xanh lao xuống, cả ngày ầm ầm bụi mù vì những cam nhông, ô tô ca, vì các chuyến xe lửa, ô tô ray chạy thâu đêm, vì các xưởng sửa chữa ô tô, xưởng cưa, thợ mộc, làm khuy áo, đúc rèn cũng làm cả đêm cả ngày.

Những ngày kỷ niệm quốc tế và những cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ hay chống thuế, ở ngã tư chợ Cột Đèn này thường nổ ra những cuộc mét tinh mà bọn mật thám cảnh sát muốn canh gác, muốn ngăn ngừa, muốn phá thế nào cũng không được. Chúng đón chặn buổi tối thì tổ chức đấu tranh trước buổi chiều. Tổ chức đấu tranh buổi chiều thì rục rịch ra vẻ buổi trưa thấy động phải hoãn lại. Định buổi trưa thì làm nhoáng cái tầm thợ về đã xong. Các ngã tư suốt ngày người đi lại từ các ngõ xóm các làng đổ ra, từ các phố các nhà máy đổ về, hết tầm sở này đến sở khác, xe cộ rầm rập, hàng quán đông nghịt, không thể nào nắm được giờ giấc và không thể nào theo dõi được hết ấy, - cái địa điểm ấy lại còn được bố trí canh gác với bao nhiêu anh chị em có kinh nghiệm cùng với các thanh niên tích cực nhất huy động đi đấu tranh, nên nó luôn luôn được chọn và được nhắc đến trong nhiều câu chuyện say sưa thích thú nhất. Anh em thường ví các cuộc mét tinh ở ngã tư chợ Cột Đèn diễn ra như những trận đánh mà đế quốc là một cái lưng bị thịt, tránh được chỗ này thì chỗ kia bị thụi bị đấm, đón phía chính thì các phía khác bị đấm bị thụi... Còn người đánh thì biến hóa trăm mắt, trăm chân, trăm tay, vừa trẻ vừa khỏe, gan dạ, quyết liệt.

Ngày Mặt trận bình dân Tây Ban Nha bị bọn đế quốc hùa nhau lại vây đánh, Đảng Cộng sản Tây Ban Nha lên tiếng kêu gọi nhân dân toàn thế giới ủng hộ, Xim và một anh công nhân bên Xi măng đã được chọn lên diễn thuyết ủng hộ cách mạng Tây Ban Nha, còn địa điểm mét tinh thì chọn ở ngã tư chợ Cột Đèn. Bài diễn văn do tổ chức soạn đưa cho Xim, Xim đã nhẩm, học thuộc. Buổi trưa, buổi chiều Xim ra mãi cánh đồng giả vờ hái rau má để tập nói. Đùng cái có quyết định một chị khác thay Xim và đến cả việc đi dự cuộc đấu tranh Xim cũng không được đi. Hàng tháng, hàng hai tháng sau đó, Xim vẫn tưởng như không còn thể lấy lại tinh thần được nữa. Rồi đến lúc Xim có công việc cần phải lên nhà báo, Xim cũng không được lên, mà chỉ được hẹn lần này ở chỗ này, lần khác ở chỗ khác.

- "Vì thế ta mới được rút vào bí mật và còn được ở lại

Hải Phòng!"

Xim quay lại trông cái cột đèn lịch sử và ngã tư nhộn nhịp mù bụi, Xim tự nhủ và càng thấy tâm trí rưng rưng. Không những Xim chỉ trông lại khu chợ Cột Đèn mà còn phải trông ra cả mấy con đường, mấy dãy phố ở phía ấy nữa. Đây kia, ở đầu đường Cát Cụt, gian nhà hai tầng mé tay trái đằng sông Lấp đi vào là nhà báo Tin tức chi nhánh phát hành ở Hải Phòng. Tấm biển sơn nền đỏ chữ xanh vẫn như còn roi rói lấp lánh trước lan can của tầng gác. Lại một tấm biển khác sơn nền đỏ chữ xanh cũng vẫn còn roi rói lấp lánh trước lan can của tầng gác ở phố đường Cát Dài đây kia: biển chi nhánh nhà báo Đời nay. Đời nay ra tiếp ngay Tin tức cũng như Tin tức ra tiếp ngay Thời thế sau khi bị cấm, bị rút giấy phép. Đời nay, tờ báo công khai cuối cùng của phong trào. Cả đồng chí thường trực chi nhánh và hai đồng chí ở tòa báo trên Hà Nội có dạo đã xuống nhà Xim mà Xim được mẹ cho nghe chuyện hai anh hoạt động từ hồi kỳ Ba mươi - Ba mươi mốt, đều bị Sở mật thám bắt và tòa án xử tù cả rồi!

Còn ở bên kia đường trước chợ Cột Đèn, trong cái ngõ cạnh đường xe lửa có một lán xẻ, bãi gỗ chung quanh trồng chuối, cuối lán dựng tạm hai gian nhà mái lá gồi. Chính ở đây Xim cùng hai anh thợ xẻ và một anh thợ máy bạn Xim đã dự những buổi huấn luyện nghe Chấn và Lương nói về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phát xít và phân tích tình hình thế giới lúc Mađờrít bị bè lũ phản động thế giới vây đánh. Cũng ở đây, Lương đưa cho Xim bài diễn văn. Lương vẫn ở Hải Phòng nhưng hai tháng nay Xim chưa được gặp, và cũng không dám hỏi Lương đi đâu, làm gì! Còn Chấn... Kìa Xim lại nghĩ đến Chấn rồi! Kìa sao Xim lại phải nghĩ đến Chấn một cách xao xuyến, hồi hộp đến thế?!

Lương và Chấn cùng giác ngộ cho Xim, Lương lại là người chuyên huấn luyện cho Xim từ lý luận đến công tác công vận, công tác bí mật. Còn Chấn giới thiệu Xim với tổ chức. Nhưng thay mặt Đảng kết nạp Xim và đương phụ trách Xim lại là một đồng chí khác: đồng chí Tô với cái bí danh xoàng xĩnh là thằng Ba gày kia. Như vậy sao khi Xim nghĩ đến Chấn, người hiện nay gần như không còn liên lạc công tác với Xim, Xim cứ thấy có một cái gì đặc biệt, rưng rưng trong lòng? Và tuy Xim nhớ rất sâu nhiều điểm về lý luận cách mạng mà Chấn giảng giải, nhưng sao Xim lại cứ nhớ rất kỹ cả từ cái dáng ngồi, cái mắt nhìn, cái miệng cười, cái giọng nói của Chấn? Có tiếng nói thầm và như mắng Xim:

- Như thế là nhà cô đã yêu, đã thương người ta chứ còn gì nữa! Nhà cô đã yêu đã thương người ta nhưng cứ đợi, cứ đòi, cứ bắt người ta phải đến trước với nhà cô. Và nhà cô đã yêu, đã thương người ta, chăm lo gửi gắm cho người ta nào thuốc men, nào đồ dùng nhưng nhà cô cứ định dối mình, làm ra như không có tình ý gì cả! Thậm chí mấy tháng nay nhiều đêm nhà cô không ngủ được vì không được thư, không được tin của người ta, nhưng nhà cô vẫn cố làm ra vẻ không có cảm tình riêng với một đồng chí nào. Nhà cô không chịu hỏi han liên lạc, nhất là lại không chịu hỏi cả "anh Ba gày" tin tức người ta. Nhà cô tưởng như thế là tinh thần cao, là khôn ngoan à? "Anh Ba gày" đã nhìn thấy tận ruột của nhà cô, biết tỏng các ý tình của nhà cô và cả anh Chấn toét nhà cô rồi, ngay khi anh Ba về phụ trách cô, cô Xim ạ!

Xim suýt nữa hét lên và bưng lấy mặt.

Suốt hai dãy phố trên con đường về nhà Xim cũng có nhiều cửa hàng sáng đèn như mấy dãy phố trên. Nhưng khu đây có những nhà thắp đèn măng sông và ồn ĩ hơn: những nhà hát cô đầu. Suốt hai dãy liền liền hơn sáu chục nhà đều là nhà hát, đương rồ lên tiếng đàn, tiếng phách, tiếng trống, tiếng hát và tiếng cấu véo, cười đùa nhả nhớt. Tuy toàn nhà lá, nhưng cũng đủ cả xa lông tàu, xa lông tây và giường lò xo. Mới mười giờ mà ở nhiều giường nhà ngoài màn đã buông, trong khi ấy đàn phách đã dẹp hết. Ở giữa nhà, chung quanh những khay đèn thuốc phiện, các quan viên nằm vừa hút vừa kề đùi, kề vú cô đầu mà nghe kể chuyện, nghe lẩy Kiều.

Đèn nhà Xim vẫn vặn to, Xim vào nhà thấy mâm cơm đậy lồng bàn để ở giữa bàn, ngoài mâm lại có cái rổ úp nữa. Cái bé của Xim đã ngủ say với cái gái Lê. Mẹ Xim đương cầm đèn đến giường soi soi, lấy quạt phẩy phẩy cho cả hai đứa. Xim mở lồng bàn, gọi mẹ:

- Khổ quá! U lại chờ cơm con.

Bà cụ bưng nồi canh dưa chua nấu với lạc hơi nóng thơm sực, và lấy ở trong chăn ra liễn cơm ủ rất chặt. Cái bát to úp rổ là bát rau muống chẻ. Bày thức ăn, so bát đũa xong, bà cụ mới nói:

- Hôm nay nắng quá, bây giờ mới thấy đói. Mẹ mày uống chén nước kia rồi ăn cơm với u.

Bà cụ đơm cơm cho Xim, giọng thấp hẳn xuống:

- Ăn cơm đi rồi u nói chuyện.

Không để Xim hỏi, bà cụ nói tiếp, giọng nghẹn nghẹn rất khẽ:

- Bên nhà anh Lương vừa gửi cái hộp có hai chiếc rau bà đẻ mới ngâm cho anh Chấn đấy. Bên ấy gửi rau và cho biết tin anh Lương đã bị mật thám bắt rồi. Anh bị bắt tối hôm kia. Chúng nó cũng giam anh riêng một xà lim và tra ngay. Người nhà anh không được gửi quà bánh quần áo gì cả... Nhưng thôi, mẹ mày cứ ăn cơm đi!

Bà cụ gắp đậu om vào bát Xim, lom khom ra cửa mở rộng thêm cánh liếp, rồi vào lật chiếc chiếu ở giường mình lấy cái quạt mới, quạt cho con:

- Chan nhiều canh mà ăn với rau chẻ... Mai chủ nhật mẹ mày có phải đi làm không?

Ở giường trong, cái gái Lê lại nghiến răng ken két, đạp chân thình thình vào vách, vào thành giường. Từ hôm nghe người ta nói trên đề lao Hà Giang u nó làm sao ấy, và thằng La anh nó đã để cháy nhà Đờvanhxy lại còn làm đổ vỡ bao nhiêu đồ quý, phải đem con em bé trốn đi, thì cái gái Lê càng như nhớ mẹ, nhớ anh và em bé hơn, đêm ngủ lại hay giãy đạp nói mê như thế. Xim buông bát đũa đến quạt quạt vỗ vỗ và kéo chân kéo tay lại cho cái Lê nằm ngủ yên xong mới gọi mẹ:

- U này! Mai u có lên chợ Sắt, u lại tìm ở các hàng thuốc nam mua lấy hai xu quả lạc tiên về sắc cho cái Lê nó uống u ạ. Mai xưởng con lại phải làm cả ngày để kịp chuyến tàu Năm sao sang Tây tuần lễ này.

Quay về chỗ, Xim và nốt miếng cơm, rồi múc canh dưa ăn với rau chẻ, Xim càng cố giữ bình tĩnh:

- Cái hộp rau bà đẻ ấy u để đâu vậy? Còn bên nhà anh Lương đưa tin là ai thế? Ai thế?

Vừa dứt câu, Xim nghẹn hẳn giọng, ho sặc lên, thấy không thể ăn thêm được nữa.