Thời Kì Đen Tối Chương 2
Bên kia đường cái, đối diện ấp An Sinh là làng An Sơn. Cổng làng, đình làng, chùa làng, chợ làng đều trông ra phía biển Đông. Một con đê, ôtô chạy được, bao lấy đồng làng. Đứng trên đê trông ra xa trời mây bát ngát, còn trông vào trong làng thì thấy nổi lên những dãy nhà ngói san sát, đường gạch đường đá nối nhau như bàn cờ, vườn cây lưu niên um tùm, ao hồ cứ như đong ra bạc ra tiền. Mặc dầu ruộng đất làng An Sơn quý hiếm như thế, trại Lê Thị Thảo Minh vẫn cứ chiếm hơn hai mẫu thổ cư. Đây là đất nhà thờ của chi họ Đào Xuân.
Ngôi nhà đồn rằng rất đẹp rất lạ mới xây kia, Đào Xuân Hồng vừa lấy kiểu bên Nhật về cùng với kiểu của ông kiến trúc sư kiêm cai thầu nổi tiếng ở Hà Nội, về cái Thủy tạ của ông cũng mới xây bên bờ hồ Hoàn Kiếm, hai người thêm bớt vẽ vời cho hợp với thôn quê. Bởi vậy tuy không tòa ngang dãy dọc và kiên cố cẩn mật như khu nhà của cụ cố bên ấp An Sinh, nhưng ngôi nhà của vợ chồng Đào Xuân Hồng và Lê Thị Thảo Minh lại được nhiều người trầm trồ bàn tán, đặc biệt là những ông nọ bà kia khách trên tỉnh về chơi.
- Cho con mụ Đức Sinh và vợ chồng thằng Thy San chúng nó mở mắt ra. Ở như chúng nó là ở trong đồn lính khố xanh hay trại lính khố đỏ, còn nhà, là nhà tu kín! Con cái mình chúng nó có học Cao đẳng ra lấy vợ lấy chồng ở riêng, thì thế nào cũng làm cho chúng nó kiểu nhà như thế mà lấy chỗ đi về và tiếp đón bạn bè các ngày nghỉ hè, ngày lễ.
Người ta đã nghĩ đến những tấm ảnh, những bức tranh sẽ lấy cảnh hàng hiên, bao lan khung cửa, bực thềm của ngôi nhà mái cong, cửa tò vò, lợp ngói ống và lối đi trồng toàn đào của Lê Thị Thảo Minh làm phông chính để chụp ảnh tô màu, vẽ tranh lụa bày ở sa lông hay phòng ngủ của mình.
Cũng vào buổi sáng đầu xuân, nắng to, gió lộng, rét khô ấy, nhà vợ chồng Đào Xuân Hồng và Lê Thị Thảo Minh cũng như mở hội. Ăn lót dạ xong, cả nhà y kéo nhau đi chơi chợ cùng mấy gia đình trên Hải Phòng chạy loạn về mấy làng xung quanh. Toàn những trai thanh gái lịch. Người lớn trẻ con quần áo cứ như tiên, đi lại như đèn cù, như diễn kịch, với các điệu và các giọng cười nói chuyện trò qua các hàng quán. Nhiều người thấy bọn họ như nói tiếng nước nào với nhau ấy; trẻ con làng xô đẩy nhau theo xem rất lấy làm lạ.
Đúng, bọn trai gái ấy nói tiếng Tây. Cả Tây Pháp và Tây Ănglê. Không chỉ người mặc tây mới nói tây, mà cả những người mặc áo gấm, quần trắng là, khăn Bảo Đại, giày vân hài. Phần đông là những sinh viên cao đẳng trường thuốc, những tú tài, cử nhân trường luật, những tham tá tòa án, những tri huyện tư pháp v.v... Tuy là những cao đẳng trường thuốc, tú tài cử nhân trường luật, nhưng chẳng thấy chuyện gì về văn chương chữ nghĩa, chính trị thời thế và thuốc men bệnh tật cả! Còn các kiều các mítxơ, các nàng tha thướt đi đàng trước đi đàng sau và bên cạnh họ, cũng chỉ ríu ra ríu rít toàn những chuyện kem phấn nước hoa, nhung lụa vàng ngọc, nhà cửa hồi môn và cỗ bàn cheo cưới. Hơn thế, trong bọn trai còn rôm rả thêm vì các chuyện, các việc rất bí mật tiết lộ cho nhau nghe. Như mùi hôi nách của bà chị vợ; cách kỳ lưng của cô em vợ; xuân sắc bà nhạc một thằng bạn vắng mặt, hay sự ngây thơ có tính toán của mấy cô gái muộn chồng trong họ nội, họ ngoại mình...
Họ đi, trên đầu và trước mặt, trời mây lồng lộng. Nhưng những cặp mắt mòng mọng hùm hụp vì ăn quá nhiều và ngủ cũng quá nhiều nọ không để ý đến. Là vì cái họ duy nhất để ý và để ý trên tất cả, không thể nào khác ngoài những đôi vú, bộ mông, bắp đùi và những hương phấn ngào ngạt của những vưu vật bên mình.
Tuy hôm nay mười rằm phiên chính, chợ vẫn vắng. Mấy cô hàng xén hàng vải xinh xắn càng sượng sùng trước những cái nhìn tinh quái của các công tử, cũng như trước những câu cười nói của các tiểu thư cặp kè nhau đi qua, hỏi chơi chuyện chơi hàng. Đông nhất vẫn là quán các thầy tướng, thầy bói, cô đồng. Mấy bọn khách tỉnh cũng xúm lại ở đây, chung quanh một cô bói trẻ đẹp, áo dài sa tanh hoa đào, quần lĩnh, chít khăn len, đeo kính râm. Cậu trường thuốc mặc sìmốckinh (1)là khách chính, hỏi về đường nhân duyên. Ngồi tì tay lên vai cậu này là cậu trường luật mặc áo gấm, khăn Bảo Đại, hỏi về đường công danh. Hai cậu cũng nói đủ tên tuổi ngày sinh tháng đẻ, làng phố, huyện, tỉnh của mình cho cô thầy khấn. Quẻ đặt những hai đồng và hứa sẽ thưởng thêm. Những cô chị cô em và cô bạn của hai công tử cứ luôn luôn cười rúc lên. Còn hai cậu cũng cười nhưng bậm môi lại để giữ khỏi sặc.
-----
[1] Quần áo lễ phục màu đen.
Cùng lúc ấy ở nhà Lê Thị Thảo Minh đã ồn ĩ đủ hai bàn vui xuân. Bàn tổ tôm họp trên sập sơn son thếp vàng giữa gian chính thờ tổ, là của các cụ, các bà. Đây có ông chú ruột Đào Xuân Hồng vừa khao Hường lô và làm tiên chỉ làng An Sơn, và bà vợ một quan thương tá, Lê Thị Thảo Minh gọi bằng dì. Còn bàn bài sừng thì có các ông bà chủ hiệu hàng vàng, thuốc tây, tham biện tòa án, lục lộ. Những thanh niên thượng lưu và trí thức đi chợ về liền đưa nhau lên gác chia ngay ra làm hai đám. Một chơi xúc xắc cá ngựa; một đàn hát với chiếc pianô Lê Thị Thảo Minh dành riêng cho gái bé Shirley (Xiếclây) Thùy Dương của mình tập hàng tuần có thầy về tận đây nắn tay cho.
Ông ký Thái cũng không phải là tay không biết chơi tổ tôm và bài sừng, nhưng dù Lê Thị Thảo Minh sang nhà chèo kéo hai ba lần, ông vẫn từ chối.
- Bác ký ơi! Bác sang tiếp cụ Hường với cụ Thương chứ. Kìa, sao bác lại không sang?
- Hay bác ngồi bàn bác Đốc, bác Tham?
- Bác mệt à, thì bác ngồi chơi vài hội cho vui, đỡ nghĩ, đỡ mệt. Em góp tiền cho bác mà.
Ông ký Thái chùn cả người, cố gỡ tay Thảo Minh ra. Đưa chân Thảo Minh ra ngoài vườn, chờ Thảo Minh đi khỏi, ông liền đóng cổng, cài then, giật giật thử mấy lần rồi vào nhà nằm. Đêm qua, ông lại đọc Đông chu liệt quốc. Sáng nay, chương trình của ông là làm tiếp vườn rau. Ông vừa làm vừa nghỉ cho đến bữa cơm trưa để người khỏi bị trệ, sau một tuần lễ ngồi lỳ ở bàn giấy, dù ông chỉ phải lo mấy công việc chính về sổ sách tiền nong của nhà Đờvanhxy thôi! Kim đồng hồ báo thức để trên bàn học của Sơn vừa trỏ tám giờ, tức là ông ký Thái đã nghỉ đúng mười lăm phút, ông liền đứng dậy, xắn lại quần, uống thêm chén nước chè hột hãm với gừng rồi đi ra.
Vườn rau ở trước cửa sổ phòng Sơn.
Nếu như Thảo Minh nài ép ông ký Thái đánh bài thế nào, thì mấy cậu mấy cô bên ấy cũng khẩn khoản Sơn đi chợ và chơi cá ngựa, chơi đàn với họ như thế. Nhưng Sơn không như cha nhăn nhó, viện cớ nhức đầu đau óc và không ngủ được nay phải cất nhắc chân tay làm lụng một tí. Sơn chỉ cười, cười ngượng nghịu bẽn lẽn. Sơn bảo Sơn đang phải học thi. Chỉ còn có hơn ba tháng nữa sẽ phải lên Hà Nội. Sơn càng phải nghiền kỹ toán vì kỳ thi năm nay các bài toán sẽ ra rất hắc. Cả Đông Dương này chỉ lấy đỗ có năm phần trăm số thí sinh thôi.
Ông ký Thái đương làm, vội vàng chống cuốc, nheo nheo mắt, lắng nghe thêm một phút rồi đến chỗ mọi người tíu tít chèo kéo Sơn. Ông lại nhăn nhó, lật bật, rung rung hai tay nói:
- Cháu nó vẫn yếu toán lắm! Mang tiếng giỏi đứng thứ nhất thứ nhì ở Hải Phòng, nhưng lên đọ bút với thí sinh toàn Trung, Nam, Bắc thì chỉ là... un beau zéro, le dernier des derniers. (2)
-----
[2] Một con số không đẹp đẽ, kẻ cuối cùng trong đám sau rốt.
Cái miệng đã hơi móm mém của ông cười khà lên, ông thêm bằng tiếng Pháp:
- Thật như thế! Người ta phải có can đảm nhìn vào sự thật chứ? Vậy các anh các chị em vui lòng tha lỗi cho thằng bé Sơn của tôi để nó ôn bài nhé...
Sơn đỏ rừ không những cả mặt mà cả người. Bọn nọ bá vai bá cổ nhau sang vườn bên nhà Thảo Minh rồi mà Sơn vẫn thấy rõ tiếng cười rúc rích, ngặt nghẹo:
- Thằng Sơn rồi sẽ thành trạng toán, không thèm đỗ thạc sĩ của Pháp mà của Đức cơ! Đứa nào có em gái thì phải mau mau rước sớm trạng về nhà đi.
Ông ký Thái rất bằng lòng về thái độ dứt khoát và hợp lý của mình, cũng như về tinh thần và ý chí của Sơn trong hoàn cảnh và tình thế như ngày nay. Ông vừa đi vừa xòe tay nói với mình:
- Phải như thế! Chỉ nên như thế!
Đã nhiều đêm, Sơn đang tì trán trên bàn tay, dưới mắt càng vằng vặc một cách lạ lùng những hình kỷ hà và những con số, bỗng thấy cha ho sặc lên. Ông ký Thái lồm cồm bỏ cái chăn đắp bụng ra, ngồi dậy giơ giơ bàn tay, nghiêng nghiêng đôi mắt kính và cái trán nhăn mốc mà nói với Sơn:
- Phải học. Chỉ có học! Học và học con ạ! Học để mở mang tâm trí, để nâng cao tinh thần, để soi sáng đạo đức, để làm điều thiện, tránh điều ác, để thành người ích quốc lợi dân. Muốn làm việc lớn, muốn lập sự nghiệp, phàm làm người có đầu óc và chín chắn, trước tiên phải là kẻ có học, kẻ chịu khó học. Học đến nát xương lòi da như các cụ thường nói. Và con ơi! Như cảnh nhà ta đây thì con phải học thay cho thầy. Vì thầy mà con học thật giỏi, thật cao. Trước đây, thầy nhà đã nghèo, đông anh em, lại gặp lúc giao thời nhiễu nhương khó khăn, thầy phải đâm đầu đi cạo giấy kiếm gạo ngay từ năm mười tám, mười chín tuổi, mặc dầu suốt bao nhiêu năm học là bấy nhiêu năm thầy được bạn quý thầy yêu, đều hy vọng ở thầy. Vì thế ngày nay thầy càng hồi tưởng lại chuyện xưa, càng suy tính đến ngày mai, thầy càng cố lo các con ăn học... Vậy các con, nhất là con, phải nghĩ đến thầy mà học, mà học...
"Phải học! Phải học" Không phải chỉ đêm hôm khuya khoắt, ông ký Thái mới nói với Sơn một cách thống thiết như thế. Sau ngày Sơn bị Sở mật thám bắt giam mấy hôm rồi ông ký Thái nhận được trát đòi, ông phải xin phép chủ Đờvanhxy nghỉ cả buổi sáng để lên trả lời viên phó cẩm chính trị về sự bạn bè, giao dịch và hoạt động của Sơn, thì Sơn còn nghe cha lay gọi mình khuyên nhủ cả những buổi trưa hay bất kỳ lúc nào vắng lặng. Nay trong nhà nhìn ra, Sơn thấy như theo từng nhát cha Sơn cuốc lại kèm mấy tiếng đó: Phải học! Phải học! Và cả lúc cha Sơn chống cuốc nghỉ tay thì những tiếng lầm thầm ở cái miệng đã móm lắp nhắp ấy, cũng vẫn là bảo Sơn: "Phải học! Phải học!".
Cuốc xong, đánh thêm luống mới, rồi tưới lại mấy luống mới trồng, trông ông ký Thái vất vả quá đi mổ bò hay đánh vật. Ông mặc cái quần tây cũ vá đũng, đáp hai miếng vừa to vừa dày cộp ở hai đầu gối, xắn lên quá bọng chân. Gió đùng đùng. Đuôi áo sơ mi của ông thòi ra ngoài cứ phần phật như chiếc cánh gà tã của một xe kéo. Ông mặc thêm một áo dệt cổ lọ. Đầu tóc xờ xạc, cái trán ngắn nhăn mốc lại càng tiều tụy. Ông vẫn đeo kính trắng lão, lộp cộp đi đôi giày ống bằng da dầu như của lính kỵ mã. Thùng tưới là thùng tôn gánh nước. Ông xách từng nửa thùng từ ngoài hồ sen vào, lấy một ống lê hộp đục đít lỗ chỗ múc thay ổ dòa (3)
-----
[3] Arrosoir: thùng tưới.
Cả nhà, từ khách tỉnh đến những người ăn người làm đều bưng miệng cười. Nhất là khi thấy vú em và mấy bà họ với ông ký Thái, phải gọi ông ký Thái bằng ông trẻ hay bằng bác họ, thấy ông ký Thái gổng nồi nước đái. Cái nồi sành nay đã rạn, ông lão vườn ở nhờ đất đằng sau trại Thảo Minh phải đai bốn vòng dây thép và trát xi măng, cứ trĩu xuống bên quang, làm ông ký Thái rúm cả người, hết sức đu hai cánh tay cho khỏi bật bổng bên thùng nước nhẹ lên.
Ông ký Thái loạng choạng, liêu xiêu với cái nồi đu đưa lắc lư, vừa đi vừa cười tủm như tán thưởng sự gắng gỏi của mình.
Phần đã quen tính cha, phần Sơn cũng thích thú cha như thế. Thích thú trước hết vì cha dứt khoát làm theo ý mình, theo cách nghĩ, lối sống của mình. Hai là cha Sơn cũng như Sơn đều không gần không hợp được với các sinh hoạt của bọn bà con anh em chạy loạn về quê kia. Hay nếu cần thì phải nói thẳng là nó trái nghịch hẳn với sự sinh hoạt của Sơn cũng như của cha Sơn.
Nhưng buổi nay, cái trán cao và hơi thót của Sơn nhăn nhăn, đôi mày rậm mắt xếch của Sơn nhíu lại, và Sơn bậm bậm miệng, nhấm nhấm đầu bút chì mà trông ra ngoài vườn kia, không hoàn toàn vì Sơn đang nghĩ về những đáp số của bài toán tập. Sơn cũng đang ngắm khoảnh vườn và từng nhát cuốc, từng bước đi của cha Sơn. Hơn ba tháng trước, nơi đây còn là một bãi ụn lên những gạch ngói gỗ sắt bỏ đi và rác rưởi mà cả vợ chồng Xuân Hồng - Thảo Minh cũng chưa tính đến việc thu dọn.
Chiều chiều thứ bảy, ông ký Thái đáp chuyến ôtô hàng quen về làng sớm. Chỉ cởi giày, uống xong cốc chè xanh hãm đặc pha với mấy miếng đường, là ông ký Thái vác xẻng cuốc đi làm. Sau đúng bốn tuần lễ thì bãi thành khoảnh, thành luống, rào rấp đâu đấy, lấm tấm xanh xanh nào rau cải thìa, cải bẹ, su hào, hành, xà lách, rau thơm. Chính vại con dưa hành bà ký Thái muối riêng ăn Tết năm nay là... (Ông ký Thái đã xòe bàn tay, dang rộng cánh ra, hất đôi mắt kính cười:
-... Của tôi trồng đấy!
Mấy hôm trước nữa rồi hôm qua hôm nay nắng to lại có sương và gió rét, nên vườn rau càng xanh tốt. Nhất là mấy luống xà lách, su hào. Cây xà lách nào cũng ăm ắp, chỉ tỉa một cây thôi cũng đầy rổ. Còn su hào nhiều củ bằng cái bình tích, phấn trắng rồm rộm, lá xòa ra gần hết lối đi. Những củ su hào này Sơn đã ví với những lồng ngực của những bé trai bụ bẫm đang ăn bú. Xà lách là một thứ lẵng hoa nạm những hạt sương kim cương của phim màu hoạt họa.
Từ khoảng im lặng của năm gian nhà gỗ cũ kỹ bỗng nẩy lên rất nhẹ một ngân vang man mác...
Dưới khung kèo cột vừa gỗ lim vừa gỗ xoan của mái ngói mũi hài mốc rêu, những đợt gió qua các cửa chấn song tiện và những tấm cửa đại phần nhiều đã long đã gãy thổi vào chỗ Sơn ngồi, thấy rõ từng dải bụi nắng reo reo như có phấn hoa vàng. Hai bức tranh thủy mặc và bộ tứ bình tố nữ Đông Hồ đu đưa phập phồng làm thành như những tiếng trống cơm. Điểm vào đó, tiếng leng keng của những tua đèn lồng treo trước gian thờ rực sáng hẳn lên dưới bức y môn lấp lánh những miếng gương phản quang nắng mới.
Vùng trời xanh lại soi thẳng xuống trán Sơn.
Trời xanh trên biển khơi xa kia đang bồng bềnh từng núi mây trắng. Những quả núi chói rọi lại một thứ ánh sáng không gì tươi mát rực rỡ bằng. Và sóng vang âm. Sơn không trông thấy sóng nhưng rõ ràng có sóng đang cồn cồn giội vào hẳn chỗ Sơn ngồi với những chói rọi cũng của một thứ ánh sáng không gì tươi mát rực rỡ bằng, phải nghe mới thấy.
- Thằng Sơn lại thổi sáo! Ừ, học mãi rồi cũng phải nghỉ chứ. Nghĩ ngợi mệt mà thổi sáo thì thật là tốt!
Ông ký Thái đặt thùng xuống, giơ cánh tay gạt mồ hôi trán. Ông ngước hẳn cặp mắt kính, nhíu trán lại. Một ai kia từng để ý đến ông lúc tính toán sổ sách quan trọng nhất cũng không thể tưởng được ông nghe con thổi sáo mà cũng đăm chiêu đến thế!
- Ừ ừ ừ... tính tính tang... tang tính tình... hay nhỉ... hay nhỉ... lại nhân tình rằng, nhân tình ơi... thì thú thật. Ố là là rằng có nhớ nhớ hay không... Phải! Đến tuổi rồi... nó đến tuổi rồi... Ta phải trọng sự tự do của nó, của con ta. Sơn ạ! Thầy cũng là người có đầu óc, thì thầy phải hiểu biết, mà trước hết phải hiểu biết các con. Được! Các con cứ tha hồ mà yêu, mà tự do yêu. Cốt sao yêu đương cho quang minh chính đại, yêu đương đừng phương hại đến chí tiến thủ, đến sự nghiệp...
Ông ký Thái nói hẳn lên bằng tiếng Pháp, chao lên chao xuống cánh tay theo điệu sáo, rồi nhắc lại câu thường nói với Sơn:
- Nhưng trước hết vẫn là phải học... học để mở mang tâm trí, để nâng cao tinh thần, để soi sáng đạo đức, để làm điều thiện tránh điều ác, để thành người ích quốc lợi dân...
Tiếng sáo chợt vút lên như cánh chim bằng kim cương hay ánh sáng. Bầu trời ngân lên. Mây nước rung rung.
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối rằng cha dối mẹ, này ồi a ối a qua cầu... tình tình gió bay...
Ông ký Thái cười, lim dim mắt thêm:
- Được! Nói dối thế thì cũng tolérable (4)... Nói dối mà người nghe thấy mình không bị lừa, thấy mình phải biết thương kẻ lừa mình. Phải không Sơn, như thế cha của con không tầm thường như ai, phải không? Cha của con thật xứng đáng là cha cái thằng Sơn nổi tiếng học giỏi nhất Hải Phòng. Và cái thằng Sơn có một người cha độ lượng nhân từ như thế, thì càng phải học sao cho xứng đáng, càng phải hành động sao cho xứng đáng...
-----
[4] Tha thứ được.
Để đánh một dấu chấm thật tuyệt cho những cảm nghĩ của mình, ông ký Thái nhịp nhịp cánh tay, thì thầm tiếp theo:
- Về nhà dối rằng cha dối mẹ, này ồi a ối a qua cầu... tình tình đánh rơi...
Tâm trí ông ký Thái bừng bột hẳn lên. Ông càng bằng lòng vì sự suy tính của ông. Ông đã nhất định không cho Sơn lên Hà Nội trọ học, cũng như không cho Sơn về Nam Định là quê bà ký, gửi Sơn ở nhà người em ruột bà dạy trường Thành chung của tỉnh. Ông cứ để Sơn ở với ông, về quê ông đây, vẫn gần cận ông và được ông kèm cặp. Tuy sức học của ông chỉ bằng học trò Sơn, nhưng với sự từng trải và sáng suốt của ông, ông không những giữ gìn Sơn chu đáo trong tình thế chiến tranh này, mà còn làm Sơn thấy rằng dù Sơn có thông minh giỏi giang đến đâu thì vẫn là con ông, sự nghiệp, tương lai, lý tưởng của Sơn không thể nào không có sự chăm lo quyết định của ông.
Đến chín giờ rưỡi, ông ký Thái gổng trả nồi nước đái và thùng tưới rồi đi rửa cuốc và chân tay. Sơn lại ra ngoài đồng lúc nào không biết.
⚝ ✽ ⚝
Sau vườn ông ký Thái cũng có một ngôi nhà năm gian. Trước năm gian cũ kỹ này cũng là một tòa nhà mái cong tuy không to không mới lạ như tòa nhà Đào Xuân Hồng và Lê Thị Thảo Minh, nhưng lại có cách cầu kỳ riêng. Đó là mái hiên cửa giữa trông như một kiểu đài, tạ nào bên hồ của tranh phố Hàng Bồ hay phòng tuồng Quảng Lạc. Bước lên khỏi những bực thềm cao, trông vào nhà thì rực lên toàn vàng son: gian thờ. Gian thờ đúng như của những họ quyền quý thời Lê, Trịnh đủ các thứ hoành phi, câu đối, lọ, chóe, đôn, chậu, lư, đỉnh từ mấy trăm năm nay.
Nhà của Hoài Giang, làm báo, vợ mở hàng vàng ở phố chợ, họ cùng chi Đào Xuân. Bên đây cũng dập dìu khách khứa, nhưng không phải chỉ là họ hàng con cháu mà còn có những bạn rất thân của Hoài Giang nữa.
Khách tổ tôm, cụ thân sinh Hoài Giang tiếp. Khách bài sừng, vợ Hoài Giang tiếp. Tất cả ở nhà trên. Loại thứ ba và là loại đặc biệt, khách của Hoài Giang thì lại ở nhà dưới. Tuy gọi nhà dưới, nhà cũ, nhưng bày toàn những thứ nếu người ta cầm đến hay rờ mó vào đều thấy chờn chợn tay, sợ đánh rơi hay làm sứt, làm rạn. Nghe nói những đồ này giữ lại được từ năm loạn nhà Mạc chạy về đóng quân ở Đồ Sơn, hay năm tàu Tây kéo vào trấn Hải Phòng, rồi đến năm kia Nhật ném bom Hải Phòng đổ bộ lên đò Khuể Kiến An, Hoài Giang lại mua sắm được thêm chuyến nữa.
Bọn Hoài Giang họp ở cái gian xuềnh xoàng giáp với vườn ông ký Thái. Họ ngồi đất, trên một tấm thảm cói to, trải chiếu đậu kê mỗi chỗ một miếng nệm cỏ bọc vải gai thô nhuộm chàm. Bàn bằng tre; từ bình rượu, ấm chén uống chè, lọ hoa, ống bút đều bằng sành. Tường, cột, cửa không có câu đối, y môn, rèm, màn gì cả. Một bức tranh to bồi giấy dó rủ từ quá giang xuống chân tường, vẽ bằng cả mực tàu, son và kim nhũ, sơn màu và phẩm, loằng ngoằng các thứ hình kỷ hà, trăng, sao, đầu lâu, ác quỷ, đàn bà khỏa thân, móc câu nốt nhạc đồ rê mi, hoa sen, nậm rượu, đàn sáo, cung kiếm, máy bay, cánh bom v.v... đảo lộn, xuyên xọc, chồng chất lên nhau. Hai bên khung cửa tường đầu hồi treo hai bức cũng bồi giấy dó, nền chu sa, vân rồng phượng, mây lượn, trăng sao lưa thưa, mờ mờ. Một bức có hai câu thơ:
Ngoài ba mươi tuổi tình đâu tá
Một ván cờ thua xế bóng đời
Chữ tròn tròn méo méo dắt dây như tơ hồng, chính tay tác giả viết. Tên tác giả và ngày tháng đề thì nguếch từ phía dưới lên, vằn vèo giống chữ Hán, nhưng lối viết... không thể ví là lối gì.
Một bức đề trọn cả bài:
Khuya nay có một chàng thi sĩ
Quăng trái tim sầu trả thế gian
Rũ áo gió sương ngàn vạn kỷ
Trở về yên tĩnh xứ vô vi.
Lâng lâng gót hạc ngoài nhân lụy
Lặng mắt xanh nhìn lệ chúng sinh
Trăng nước hồ ly tình chín kiếp
- Ta hỡi mình ta giữa bụi trần!
Ngày tháng đề như lối chữ Pháp, tác giả không ký tên mà đóng triện. Không hiểu ấn của các hoàng đế các vua chúa Đông, Tây có to như thế không, đây triện của thi sĩ đúng bằng mặt cái bát quái mà trong thì khắc chữ Latinh: Thái Trang kỷ nguyên.
Tuy gian nhà đã tối và ẩm, đầu hồi che kín một cây bàng, gốc cành sù sì các thứ mấu, suốt hàng hiên lòa xòa nhiều lẵng phong lan treo khắp các rui, mè, kèo, cột... không khí lại còn triền miên mùi hương, mùi trầm. Một vòng hương cao gần thước ta đốt bên bình trầm ri rỉ khói, bày trên một kỷ gụ ở giữa chiếu. Trước mặt là bức trướng thơ trên bia của Thái Trang.
Bốn người đang nằm ngồi ngả nghiêng, ủ rũ, đăm chiêu, mơ màng chung quanh những trầm hương men khói ấy. Tất cả là nghệ sĩ.
Hoài Giang tuy sống bám vào vợ mở hiệu vàng nhưng dân làng vẫn gọi là ông tham nhà báo (Trước Hoài Giang làm thư ký ở tòa án mấy năm, sau thôi, chuyên viết báo, viết truyện ngắn là chính và làm thư ký tòa soạn cho một tuần báo văn chương được hẳn năm năm, sau bị một ông bạn cũng là nhà văn hất cẳng, vào làm thay).
Huyền Linh kiêm làm nghề chạy hàng xách và đưa khách thầy kiện, viết thuê đơn từ, thì hay làm thơ trào phúng. Từ mười năm nay đăng báo được ba bốn bài.
Thái Trang chuyên cả vẽ báo, viết kịch ngắn và làm thơ.
Trần Văn trẻ nhất trong bọn, đúng hai mươi hai tuổi. Trần Văn vừa làm thơ, vừa vẽ, vừa soạn nhạc. Bức tranh gọi là siêu hình, lập thể, môđécnít, v.v... treo trên bàn rượu là của Trần Văn.
Khi các khách của Đào Xuân Hồng và Lê Thị Thảo Minh đi chợ về, bốn nghệ sĩ nọ mới lồm cồm dậy khạc nhổ súc miệng, hút thuốc lào và đùn nhau nhóm hỏa lò than tàu để đun nước pha trà. Bữa chiều và đêm qua họ đã uống rượu. Đáng lẽ đăng cai cuộc này là Huyền Linh, nhưng thấy bày trò ở cái nhà chật hẹp treo biển đề Biện sự phòng trong một ngõ tên là Mồhamét Xaích, thì mười phần bị mất đến năm phần hứng thơ hứng rượu, nên họ lại kéo nhau... đi. Một lẽ nữa là vợ Huyền Linh rất ghen tuy rất hiếu khách, lỡ ra quá chén mềm môi, cứ ư ử những thơ những phú, tình tình duyên duyên, mộng mộng tiên tiên, với nào Dung, nào Lan, nào Nguyệt, nào Bích Châu, nào Bạch Tuyết vân vân, để bà chị nổi tam bành lên, thì đừng hòng vay tiền về tàu Hà Nội, hay mua thuốc lá cà phê những lúc đón các thiên tài và thần bút thần văn trên ấy xuống! Để tạo một không khí giang hồ lạc phách, bốn người đùng đùng nhảy lên hai xe tay Ômích và hét:
- Xuống thằng Thái Trang. Lại phải xuống nhà thằng Thái Trang.
- Lại xuống Thủy bạc! Xuống Thủy bạc!
- Ừ phải xuống Thủy bạc của tao! Phải xuống Thủy trang của tao!
Nhà Thái Trang ở giữa một đầm rộng, chỉ có hai mái lá gồi dựng trên những cọc tre. Liếp nứa, cửa bằng giấy bao xi măng. Sàn gỗ ván của các thứ sà lan, cầu, kè, giàn, giáo thải. Muốn vào đây phải đi thuyền. Thuyền là cái mủng đủ một người chèo với một người khách. Các người quen sơ Thái Trang cũng gọi đây là Thủy bạc hay Thủy trang.
Để quang minh chính đại lòng hiếu khách, sự tín ước của mình, và cũng để hành lại người vợ chịu trách nhiệm chính về tài năng cằn cỗi cùng sự nghiệp văn chương thui lụi của mình, thi sĩ Huyền Linh ta đã thủ cả con gà giò lẫn đấu gạo nếp của một bà hàng gà tạ cái ơn Huyền Linh làm đơn cho bà kiện lấy lại được chỗ ngồi ở chợ Sắt. Với món bổng này, đáng lẽ vợ thi sĩ sẽ làm lễ cúng rằm, chỉ phải mua thêm ít măng miến khoai tây, nải chuối, gói hoa là cả nhà con cái, vú em sẽ ăn uống vui vẻ. Mà vẫn tiếp khách không kém phần lịch sự!
... Bữa rượu với con gà của Huyền Linh khề khà từ chín giờ sáng đến bốn giờ chiều. Rượu lại của Thái Trang.
Cũng vẫn để thêm bất ngờ và kỳ thú, họ lại đùng đùng kéo nhau đi lúc tà tà, khi uống xong mấy ấm trà. Họ đáp xe ngựa chở gạo mắm rau quả của những bà chạy chợ vùng Đồ Sơn. Lúc họ ra xe, vẫn còn người nôn thốc nôn tháo, người thì bước đi ngã cứ dúi dụi.
... Sau mấy bữa rượu la đà, sáng nay chả rửa mặt mũi gì cả và chưa uống xong tuần nước, từ Huyền Linh đến Thái Trang lại cứ thét cứ gào như phát rồ, đòi... uống rượu.
Hoài Giang đứng hẳn lên, mặt nhăn nhó, như bị mất cắp, giơ hai cánh tay áo pijama xua xua:
- Giời ơi là giời! Các huynh cứ tham khảo ý kiến này. Ừ, lại phải rượu, phải rượu. Chúng ta cứ cái trò hôm qua, nhưng không ăn cháo mà là cơm dưa mắm với đệ!
- Thôi đếch vào, đếch vào, đêm qua mày đã tọng cho anh em toàn lạc rang sau lại một nồi cháo đỗ xanh, hãy còn binh bích cả bụng đây này!
Huyền Linh chồm lên, nói tiếp:
- Mang tiếng ra biển thì phải được thưởng thức hải vị, thật là hải vị cơ, chứ đừng có làm bêu mấy con cua bể óp hay mấy con cá mòi ươn!..
Thái Trang cười khẩy:
- Tại vợ thằng Hoài Giang nó làm cỗ bát thết cả nhà, nhưng các mặc khách tao nhân lại chỉ thích thanh đạm đấy mà!
Huyền Linh hắt xì một cái:
- Vàng lại từ hai trăm hai lên hai trăm rưởi một lạng. Nhà nó ăn toàn thịt sư tử(5)thì còn cần thịt cá gì khác?!
-----
[5] Vàng nhãn hiệu sư tử.
Thái Trang vội huých nhẹ vào lưng Huyền Linh:
- Thôi được! Thôi được! Cứ để thằng Hoài Giang nó... nó nói nào... Ừ dưa mắm, dưa mắm ra sao?
- Nhà đệ vừa làm được hũ mắm tép. Đệ đã xem, vừa ngấu, thơm, rất thơm, đỏ tươi như...
Huyền Linh nhệch miệng ra:
- Như môi Dương quý phi ấy!
Hoài Giang cũng cười, cười xòa:
- Đệ sẽ bảo vú em ra chợ mua thêm đậu phụ, khế và rau thơm. Chúng ta sẽ diễn một trận mới cho đổi vị.
Biết thế nào Huyền Linh cũng lại đổng giả, Hoài Giang vội rung hai bàn tay:
- Cố nhiên là phải có thịt! Thịt ba chỉ luộc cũng có. Vị nào muốn ăn rau ghém cho mát... tùy! Nhà đang đi lấy thịt về kia.
- Được! Được! Ra lệnh phải cấp tốc trù biện. Nhưng trận này phải là chất quê chính cống chứ không được An Sơn lai với thằng Phôngten như đêm qua. Tao chỉ làm có hơn hai chén thôi mà đến giờ vẫn nhức đầu đây. Nghe thơ và chuyện Chiến quốc chứ không phải là tù xử tử lên máy chém hay ra đình tranh cỗ, bổ thuế mà nốc cái thứ cồn ấy!
- Được! Được! Cái thằng già Huyền Linh cứ trung ngôn nghịch nhĩ cho anh em. Bữa nay phải hai, phải ba cây nữa... Uống chứ! Uống chứ! Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Từ trước đến nay cả thánh lẫn hiền đều bị quên lãng. Duy những tay rượu là để lại tên tuổi của mình. - Thái Trang tủm tỉm.
Huyền Linh liền nhoai người ra:
- Ối giời ơi là giời! Ngày xưa mới ẩm giả lưu kỳ danh, chứ ngày nay thì đểu giả lưu kỳ danh!...
Rồi Huyền Linh lừ lừ đứng dậy, khuỳnh khuỳnh cánh tay đi lại góc nhà, nhấc chai rượu dốc ngược lên rót. Tay cầm chai, tay cầm cái chén sóng sánh, Huyền Linh lừ lừ đến trước mặt Thái Trang cúi đầu kính cẩn đoạn hất mạnh, tợp một cái, cạn chén. Choang... Huyền Linh ném chai vào chấn song cửa sắt. Nhìn Huyền Linh đến gục mặt xuống những mảnh vỡ, Thái Trang lầm thầm gật gù: "Cho tan nữa, phải cho nát nữa những cái gì loại Phôngten hãnh tiến, để giữ nguyên vẹn những cái gì của phương Đông hiền triết, cổ kính, mộng thơ và của nước Việt nông tang hiền hòa rất đau khổ này!"
Không đợi mua thức ăn về và cũng như không thèm để ý đến trên nhà kia và các khách chung quanh, bọn Huyền Linh liền tự đi nhổ rau hành lấy bát đũa và trải giấy báo ra để vào trận.
Còn Hoài Giang xin phép vắng mặt một lúc để chạy rượu. Thực ra Hoài Giang lên nhà trên gọi người mõ ở nhờ đất sau vườn, bảo y cho vay hai chai rượu của y vừa cất, định đêm nay đưa vợ đem ra đình bán cho các cụ đánh tổ tôm.
Hoài Giang còn sang vườn ông ký Thái xin thêm nắm rau húng, răm, rồi cặp chai rượu bưng cả hũ mắm tép xuống.
- Các huynh ngửi xem này, ngửi xem có dùng tạm được không này?
Mở phựt cái nút bằng lá chuối, Hoài Giang gí gí miệng hũ vào mũi từng người, đoạn nghiêng nghiêng khều ra đúng một đĩa con.
Hoài Giang thân rót rượu mời. Thái Trang móc túi lấy thêm một thanh trầm đốt. Huyền Linh ra ngoài nhà đem cả quả phật thủ và quả bòng trên nóc tủ chè vào đặt giữa mâm. Vẫn bát đĩa sành và đũa tre. Rau ai ăn người ấy ngắt. Rượu uống có người tợp cả chén. Chai rượu đã vợi già nửa. Trần Văn, người bạn vong niên của đám nghệ sĩ có tên và cả tuổi nữa kia, đến giờ vẫn im lặng. Cũng như mọi trận, anh vẫn là tay uống nhiều nhất. Cứ cạn từng chén, không khà, không nhắm. Thỉnh thoảng mới nhón một nhân lạc hay ngắt một ngọn rau thơm chấm nhẹ vào đĩa mắm. Không phải Trần Văn không biết hay không muốn ăn mắm. Mắm là món tuyệt thú đối với Trần Văn, hơn cả những giò nem ninh mọc vây bóng. Nhưng bữa nay Trần Văn không chịu nhúc nhắc đũa, vì từ đêm qua anh lại thấy trong người mệt mỏi, buồn nản lạ. Hình như tâm trí anh có một tảng băng đen nhờn và ngai ngái chỉ rình rình lở ra. Càng uống, càng thấy ngọt, thấy thơm cái thứ rượu trong xanh xòe diêm đưa qua có thể bùng cháy này, Trần Văn lại càng thấy nản, thấy mệt.
Nếu như Trần Văn ít tuổi nhất trong bọn thì trong bọn không thể không thấy và không nghĩ đến nhiều tài của Trần Văn. Tuy giỏi cả mài tranh, và những tranh Trần Văn mài đều là của những họa sĩ bực thầy nổi tiếng đương thời họ rất trọng đãi anh, nhưng anh nhất định không sống bằng nghề này. Nhiều phen hàng tháng không một đồng xu trong người, Trần Văn toàn ăn nhờ nhà các bạn. Vậy mà có bạn đưa những khay, đĩa gỗ của mấy chủ hiệu mỹ nghệ giàu sụ, nhờ anh mài và vẽ cho chỉ mấy nét như Tháp Rùa, cô gái Nhật múa lụa, cô gái Mèo che ô xuống núi hay con ngựa, bông hoa, đàn bà trần truồng, tùy hứng thú của Trần Văn với cái giá không người thợ giỏi nhất nào được trả, nhưng Trần Văn chỉ làm thinh hay lắc đầu cười.
Tiếp theo bản nhạc trước, bản nhạc mới đây của Trần Văn lại làm náo nức cả giới nhạc sĩ có tên tuổi. Bọn trai trẻ Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh to truyền tay nhau chép và tập hát càng say hơn. Mấy buổi hòa nhạc ở những phòng trà Nixơvô, Takara và Xănggaiba chuyên đàn hát cho các quan binh Nhật, cũng lấy nhạc của Trần Văn biểu diễn với các gái bồi rượu, thanh sắc nhất, chọn toàn làm tiết mục đặc sắc.
Chú Trần Văn là một nhạc công chuyên về đàn bò trước làm dưới tàu to sau lên bờ, nuôi cháu bồ côi từ ẵm ngửa, đã nói với Trần Văn hãy nghe mình cùng đi đàn cho một hai tiệm trà và chỉ thỉnh thoảng trình bày tác phẩm của mình thôi. Trần Văn còn làm thơ. Trần Văn bảo còn thích thơ hơn cả nhạc, vì thấy lời thơ phải là những lời chau chuốt nhất, đẹp đẽ nhất, để nhạc nhập hồn và chắp cánh. Vì thế, hơn hai năm nay Trần Văn chỉ làm hai bài thơ bên cạnh bốn bản nhạc.
Chính từ lúc Huyền Linh ném chai rượu Phôngten vào cửa sắt, Trần Văn càng thấy tâm hồn mình gai lạnh. Càng đắm vào những ý nghĩ, Trần Văn càng thấy pha thêm với niềm kiêu hãnh, là nỗi chán chường về tài năng của mình. Ngay lúc Thái Trang nhìn Huyền Linh gục mặt xuống mảnh chai, lầm thầm nói mấy câu sao mà buồn thảm rồi tự rót đầy chén rượu uống, Trần Văn đã toan ôm lấy bàn tay Thái Trang mà hôn mà liếm rồi đỡ lấy chén của Thái Trang dốc dốc vào miệng mình cho thật kiệt những giọt rượu còn đọng lại. Nhưng cho rằng làm như thế lại là thô tục, phạm đến giây phút thiêng liêng của một tâm hồn xót xa, Trần Văn phải dằn người ngồi im, nghiêng nghiêng lừ đừ nhìn Thái Trang.
- Thái Trang ơi! Tuy nhiên tài thơ và nhất là tài họa của anh không phục được tôi đâu! Nhưng anh vẫn là bực đàn anh tôi vì cái điệu sống của anh. Chao ôi! Chính anh là ẩm giả lưu kỳ danh đấy! Còn những minh họa vẽ vội và những kịch ngắn khô kiệt của anh trên tờ tuần báo văn chương cỏ giả kia, càng làm chúng tôi thấy quý anh, thương anh, và cũng xấu hổ với anh. Vì không phải chỉ có chúng tôi, mà còn nhiều thằng bạn khác, cả những thằng chẳng thân với anh, chẳng có một tí đạo chất nào, chúng nó dung tục tầm thường hết mực, cũng bám vào ngòi bút của anh mà hành lạc. Chao ôi! Thời buổi này làm nghệ thuật, và có sự nghiệp vào cái thời buổi khó quá, thảm quá, mệt quá, mệt vô cùng này, thì hãy làm bạn, có bạn sống với tình bạn đã. Anh chủ trương như thế nên cả cái thằng Hoài Giang vợ con đầy người vàng ngọc, nhà cửa như một hiệu vạn bảo, một kho đồ tầm tầm kia, cũng ăn, cũng uống, cũng hút trên lưng anh. Một người bé nhỏ, còm nhom, gầy xác như anh, tôi lại thấy thật sang, thấy đẹp. Cái lỳ lỳ của anh, cắn răng mà chịu đựng mọi nghịch cảnh, lại là kiểu mẫu về lý tưởng và về một sức thôi thúc chúng tôi phải sống sao cho thật là nghệ sĩ.
Trần Văn lại ân hận chưa chịu về nhà lấy bộ quần áo rét đưa cho em Thái Trang đi cầm, và trưa hôm qua lại để Thái Trang lấy tiền của em mua rượu.
Thái Trang cũng như Trần Văn không còn cha mẹ. Thái Trang cũng tự học nhưng chịu khó vẽ nhiều và không cầu kỳ lắm. Vì thế có mấy tờ tuần báo ít vốn khi mới ra đều nhờ Thái Trang trình bày và minh họa, và chỉ trả Thái Trang số thì bằng một chầu hát còm, số thì hai đồng nhiều lắm là ba đồng, có số là năm mươi bản để Thái Trang đi bán lấy tiền. Tất cả những món nhuận bút thơ, truyện, kịch ngắn và tiểu thuyết của Thái Trang không những lĩnh kiểu trên đây mà còn bằng cơm tháng ở ngay nhà xuất bản. Không phải chỉ mình Thái Trang hay thêm một người nữa, mà đúng là một lô bạn; nhiều bữa vú em và thằng nhỏ nhà chủ chỉ dọn cho độc nồi cơm với bát nước mắm và họ cùng nhau phải chờ từ chín đến đúng mười hai giờ trưa... Vì nhà xuất bản hết tiền, phải đi xoay gạo mà những người đầy tớ nọ cũng chỉ ăn như thế!
Thái Trang chỉ có một người ruột thịt duy nhất trông nom cho mình là thằng em câm. Em Thái Trang nuôi mình và nuôi anh bằng mấy bè rau muống. Thỉnh thoảng em Thái Trang đi tát cá thuê dưới các làng hay kéo xe bò chở sắt gỗ ngoài bến Sáu Kho. Anh em Thái Trang ở nhờ hồ của cụ cố bà Tây cậu và người thầu cá là đội Nhị. Tuy vậy nhiều đêm em Thái Trang cũng cất vó trộm. Bữa qua Thái Trang thết món cá quả luộc, con cá ngót hai cân của em Thái Trang giấu dưới một gốc si bên hồ để đến chiều đi bán, và em Thái Trang đã móc móc một tờ giấy bạc một đồng cất dưới mái lá mua thêm rượu cho các bạn anh. Trần Văn hình như được em Thái Trang mến nhất. Y hay chuyện với Trần Văn, nhờ Trần Văn dạy chữ, dạy cả vẽ nữa... Lần nào cũng vậy, Trần Văn đến chơi, dù không có Thái Trang y cũng đi mua rượu dọn bữa mời. Trần Văn không ăn cơm thì cũng phải uống rượu. Chỉ mình Trần Văn uống để "nói" các thứ "chuyện" các kiểu "chuyện" và dạy y học.
Em Thái Trang kém Trần Văn hai tuổi.
- Cậu! Thưa cậu...
U già cứ thập thò ngoài song cửa, bưng một mâm đồng con. Hoài Giang quay ra, thấy lại tiếp thêm thức ăn, liền cau mặt, nghển lên nói khẽ:
- Vẫn còn nhiều lắm, thêm nữa chỉ làm ụn cả mâm.
U già vừa nói vừa thở:
- Thưa cậu, đậu rán mợ con vừa lấy ở chảo ra, các cậu xơi ngay kẻo nguội, trên nhà đã có đậu nhồi thịt rồi!
Hoài Giang nhăn nhó:
- Thôi thì đem đậu vào đây vậy! Có tương không? Kìa phải lấy bát tương chứ. À, dưa nén nữa! Còn thịt, có bảo hãy đem lên đây!
Hương trầm và hương nhang tỏa khắp mấy gian nhà ra cuối hàng hiên. Những lẵng phong lan đu đưa lạt sạt, mấy bức tranh bập bồng. Không khí bỗng lặng đi vì không ai động bát đũa và đều lừ đừ thờ thẫn.
Chợt Trần Văn đặt chén xuống chiếu ngước nhìn. Thái Trang lại tự rót một chén đầy rượu, đứng lên đi ra cửa sổ. Cánh tay khẳng khiu của anh đưa ra khuỳnh khuỳnh, rung rung. Cái giọng trầm trầm thê thiết ấy lại cất lên:
Đưa người ta không đưa qua sông
Mà sao tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong...
Ực... cả chén đầy uống cạn. Thái Trang như nghẹn, như nấc. Cái chén nghiêng nghiêng, nắng rọi vào lấp lánh. Gió lùa thổi chập chờn làm bốc cao thêm và tản mờ ra những vởn khói hương và trầm. Cả bức tranh và bài thơ trên tường đều rung rung sột soạt:
... Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình một dửng dưng
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thời không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong...(6)
-----
[6] Tống biệt hành, thơ Thâm Tâm.
Có tiếng thét. Huyền Linh thét lên, hất chén uống như kiểu tuồng:
- Gió lên rồi! Gió đã lên rồi!
Hoài Giang ngồi chống gối tì trán, càng thiểu não:
- Cô đơn! Ôi ta cô đơn!
Huyền Linh đưa mắt như lườm Hoài Giang lại tự rót rượu. Thái Trang quay hẳn ra ngoài trời, mặt buồn vô hạn:
... Người đi... người nhỉ người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say...
- Phải bốc đi... bốc đi nữa! Xong tiệc này lại phải bốc ngay đi thôi!
Hoài Giang lắc lắc đầu, run run người nói, khi Trần Văn cũng đứng lên với chén đầy rượu. Huyền Linh khà khà hất hàm:
- Nhưng ai làm buồm cho anh em đây?
Hoài Giang nhệch cái miệng:
- Lại Thái huynh, Thái huynh đã khởi gió thì phải lèo lái luôn thể.
Thái Trang chỉ gật gật. Hoài Giang biến hết cả vẻ mặt thiểu não:
- Vậy đệ lại xin tìm một cây Nước trong để đi theo hầu chư huynh. Tối nay thì đổi hẳn sang xóm Cánh gà làm một chầu cháo chứ.
Lúc mọi người nâng cốc tung hô vạn tuế trước mặt Thái Trang, thì Trần Văn cố ghi lấy các nét các dáng của Thái Trang vào trí não mà Trần Văn chợt có ý nghĩ nếu bất hạnh Thái Trang bị chết, Trần Văn không được trông mặt lần cuối cùng, thì Trần Văn sẽ vẽ hồi ức chân dung Thái Trang trước khung cửa sáng nay. Trong cái phút tất cả cảm xúc của Trần Văn lắng đọng ấy, một làn thanh âm bỗng vút qua, làm Trần Văn sững cả người.
Tiếng sáo! Tiếng sáo với một điệu rất xưa, thuở ấu thơ Trần Văn thường được nghe những ngày đầu xuân theo các anh các chị họ đi hát đám các làng xa.
Khung cửa trước bàn học Sơn nổi hẳn lên ở bức tường quét vôi trắng. Ngoài khung cửa, dưới gốc cau nắng lấp loáng xuống như mưa, Sơn đứng nghiêng người, phong phanh chiếc sơ mi trắng cổ bẻ mặc trong áo len màu nước biển, gương mặt trái xoan đăm đăm, đôi mắt hơi xếch như nhìn xuống những làn điệu làm thành sóng trên cây sáo, và cũng như nghe chính tâm hồn mình từ lòng sáo cất lên.
Bụi nắng bay vờn chung quanh Sơn, người Sơn cùng khung cửa viền một đường sáng nổi rực. Những ngón tay Sơn thì như những cánh chim vỗ bay, và cây sáo trúc vàng mật ấy thành một ống hào quang phơi phới chiếu ra những hình tượng, những cảnh vật tươi đẹp, tuyệt vời...
- Chao ôi! Như thế kia thì ta là nghệ sĩ hay chính "nó" mới thật là nghệ sĩ, mới phải là nghệ sĩ, mới đáng là nghệ sĩ?! Như thế kia thì ta có tâm hồn hay chính "nó" mới thật có tâm hồn?! Như thế kia thì ta sống bằng lý tưởng hay chính "nó" mới thật sống có lý tưởng?!
Bọn Hoài Giang thấy Trần Văn trong giây phút bỗng nhắm mắt, bàn tay căng ra nặn nặn hai bên thái dương, đều tưởng Trần Văn đã say, phải lấy sức để giữ khỏi choáng.
Đúng Trần Văn đang lấy sức để giữ khỏi choáng nhưng không phải vì những chén rượu uống dồn, vô hạn độ.
Cách đây hơn hai năm, Trần Văn bắt đầu viết bản nhạc thứ nhất. Một bữa rượu ngày ở một tiệm nhảy ra, Trần Văn đang bước những bước phừng phừng cùng với những làn điệu vang dội trong tâm trí, chợt phải chững lại vì tiếng ôtô rú ga và những tiếng gằn, tiếng chửi. Chắn cả đường đi đúng là cái cam nhông xám của Sở mật thám chuyên đi bắt người... Còn một trong những kẻ đang bị xích tay ngồi dúi dưới chân những hung thần và đầu trâu mặt ngựa kia, đúng là cái thằng oắt họ xa với Trần Văn, khét tiếng giỏi tính và giỏi sáo của trường sông Lấp và Hải Phòng. Không hiểu nó đã bị đánh mấy trận, mà Trần Văn thấy mặt nó vều lên, mắt tứa máu, mũi cũng ộc máu, đỏ lòm cả cái sơ mi trắng đen thủi rách hơn giẻ lau.
- Cả thằng Sơn cũng bị bắt! Thằng Sơn con chú ký Thái cũng theo chính trị, theo cách mạng? Nghĩa là làm cộng sản!
Trần Văn lắc đầu:
- Nhất định ta chỉ làm nghệ thuật, tuyệt đối không dính dáng gì với chính trị hết. Lý tưởng, lẽ sống và đường đi của đời ta chỉ là nghệ thuật. Chính trị đúng đấy, cách mạng cao quý đấy, chủ nghĩa cộng sản đẹp đấy... nhưng là công việc của một số người!...
Những ý nghĩ trước kia lại rành rọt nhắc lại từng mạch, từng điều. Nhưng giờ đây, theo liền với những ý nghĩ ấy là những cảm xúc khác hẳn. Cái mũi kim có điện ít lâu nay thường nghiến trong lòng Trần Văn, giờ lại siết mạnh hơn. Tâm trí Trần Văn còn như bị một tấm cửa hầm sập xuống. Phút giây, Trần Văn thấy trước mặt càng lạnh và cứ xa thăm thẳm. Vẫn cái lạnh và sự xa thẳm của một nỗi buồn nản làm sao Trần Văn vượt được lên trong cái xã hội này, đời sống này, tình hình và thời thế này?!
Trần Văn lại cạn chén nữa, chén nữa, chén nữa... cứ sững bên cái cột mà trông ra ngoài trời, những đám mây trắng đang chở bay ánh nắng làm lấp loáng thêm ngọn cau không còn bóng Sơn bên gốc nữa...
⚝ ✽ ⚝
Đúng hai giờ trưa, ông ký Thái ra xe. Ông lại ăn một bữa rất ngon với Sơn hồi mười một giờ do tay ông chất bếp thổi nấu, còn Sơn thì chẻ củi, vo gạo, rửa rau. Một giờ ông dậy, đun nước tắm. Một giờ hai mươi ông thu dọn giường phản bố con nằm và bàn học của Sơn. Hai giờ kém hai mươi ông dặn dò lại Sơn mấy việc, hỏi lại Sơn những việc của Sơn mà ông nhận làm.
- Bác ký ơi! Bác ký ơi! Cho em gửi cái này nào...
Khi còi ôtô hàng giục khách, ông ký Thái đến chực sau gốc đa giữa phố, Lê Thị Thảo Minh và người vú em rối rít chạy theo. Ông ký Thái nheo nheo mắt nhìn và nhăn nhăn trán đón đợi. Lê Thị Thảo Minh cười sơn sớt:
- Bác làm ơn cho em gửi... chục cua thôi. Cua dẽ người ngoài bến mới đi xăm về biếu em, em gửi cho ông bếp đằng sở bác.
- Bà Đờvanhxy nhờ cô chú mua à?
- Không! Chả là hôm qua em đi chợ Sắt, em gặp ông bếp nhà vợ chồng nó, thấy ông ta chạy mua khắp chợ rồi ra đón cả ngoài sông để lấy cua mai làm cơm mà cũng không được. May quá, tiện chuyến bác lên thì em gửi cho vợ chồng nhà nó, để vợ chồng nhà nó biết cái vị cua của vùng ta.
- Ố là là, tưởng việc gì. Được!... Được!...
- Có hai chục cua em đã bảo cặp vào mấy lượt bẹ chuối, buộc rất khéo, bác chỉ việc quẳng lại cho ông bếp nhà vợ chồng nó hộ em thôi. (Vợ chồng con cái khách khứa nhà mày bữa tối nay mà được ăn món phá xí cua này thì quên chết đấy! Cha con đẻ mẹ cái thằng gấu này, chẳng biết chuyến tới nó có đưa cả món hàng cho mình thêu không, hay lại thấm thúi cho mấy con cai xếp xưởng nhà nó. Tiếc thật, nếu còn cái Thảo nhà mình, thì những chuyến, những việc như thế này nó giao thiệp với thằng gấu Đờvanhxy thì chóng vánh bao nhiêu).
Ông ký Thái lên xe ngồi ngay ghế đệm hàng đầu, bên cạnh ghế của một ả buôn chuyến vừa lẳng lơ vừa trẻ đẹp, trò chuyện cứ như xoắn lấy xốp phơ. Người lái xe đã mở máy, ông ký Thái còn vẫy vẫy tay:
- Cô nhớ nhé, nhớ dặn hộ tôi cháu Sơn phải nấu nước mà tắm, và sáng ra dù nắng ấm cứ phải mặc áo len mà tập thể dục. Còn cái sáo của cháu, tôi đã bện cho sợi dây bằng len để treo ở cửa bàn học, cháu thổi xong đừng bỏ vạ vật quên đi hay ngồi lên giập đấy! Cứ hỏng lại đi tìm, đi chọn nứa trúc, nướng dùi, khoan lỗ, chuốt ống... (ông nói tiếp bằng tiếng Pháp). Mất nhiều thì giờ quá! Mất nhiều thì giờ quá!...
Ôtô chạy, ông ký Thái cúi cúi nhìn ngước qua mặt kính, bụi nắng tung đằng sau, thở phào một tiếng:
- Ôi, Thượng đế của tôi! Ở trên phố người ta làm sao được tỉnh táo, sảng khoái như thế này?!
... Cũng hôm ấy, gần trưa, Hải Phòng dần tấp nập nhộn nhịp hẳn lên. Vẫn chỉ đường Bônbe và khu Cầu Đất. Ngay từ 12 giờ, ở ngõ Cố Đạo đâm ra đường Cầu Đất, đã ồn ồn người đi và xe cộ. Đây lại có trận bóng. Không phải hội hè đón tiếp ai, nhưng ở cả cổng và chung quanh bãi đều trồng cột treo cờ tam tài, cờ Bảo Đại và từng chặng, từng chặng có ảnh và lời Thống chế Pêtanh nói về tình hình phục hưng của nước Pháp và các xứ thuộc địa.
Những câu bàn cãi tán tụng hai đội bóng hôm nay với những chân đá trứ danh cũng như xoàng xĩnh của nó và cả những đội khác, làm ầm ầm suốt dọc đường, tưởng như trên thế giới không gì quan trọng bằng, hay có ý nghĩa và làm hứng thú hơn. Chưa phải trận vào chung kết của giải hàng năm vô địch Bắc Kỳ, hay lấy vào đội tuyển miền Bắc, nhưng đội Bông Bắc Kỳ mới trẻ của Nhà máy sợi Nam Định đang lên chân, làm nghiêng ngả bao nhiêu cửa thành ghê gớm, và đội Ôlempích già dặn, sừng sẹo con cưng của thành phố Cảng Hải Phòng, đều được các báo hàng ngày cả Tây lẫn ta nhắc nhở bàn tán từ mấy tháng nay, với những hàng chữ tít và những đoạn văn hết sức kích động, khêu gợi.
Vé hạng bét mọi khi có ba hào nay tăng năm hào, và chỗ ngồi có ghế giá một đồng, nhiều người phải mua hai đồng, và cạy cục mới được. Trên những nóc nhà những tầng gác trông ra bãi lại đầy người trèo lên xem, họ cũng khẩn khoản và xin trả tiền như được ngồi ở tờribuyn vậy.
Còn phố Bônbe ông ký Thái đi về hàng ngày thì chiều nay cũng đông vui đặc biệt vì rạp Đình Cấm lại có đấu quyền Anh.
Tuy không phải trận phục thù của Lân Hải Phòng với Huỳnh Nam Định trong giải vô địch Đông Dương. Huỳnh đã hạ Lân đo ván chỉ có hơn hai hiệp, làm không những chỉ các giới hâm mộ thể dục thể thao, mà cả nhiều giới khác đều sửng sốt; trận này cũng là trận được nhiều người bàn tán như trận bóng tròn hôm nay. Võ sĩ Đính của Hải Phòng vừa thôi học, tuy có năm mươi sáu cân, nhưng đánh rất khoa học, sẽ đấu với võ sĩ Ninh của Hòn Gai, nhân viên sở mật thám, nặng sáu mươi hai cân được gọi là Ninh đồ tể, Ninh trâu điên, ít võ sĩ miền Bắc dám nhận tỉ thí với y.
Cái đinh thứ hai của phố Bônbe chiều nay là phim Bốn lần gươm báu trao tay của Nhật chiếu lần đầu tiên ở Hải Phòng mà bài Hà nhật quân tái lai trong phim đó được một nhạc sĩ chuyên làm bài hát Tây điệu ta, chuyển sang hát bằng tiếng Việt đang lan tràn khắp hang cùng ngõ hẻm các thành phố:
Đi chớ để hình bóng
Nỗi nhớ thương em ở bên lòng
Xin nhắn nhủ thời gian...
Tuy trong tình hình chiến tranh, các phim Mỹ bị cấm hết, phim mới của Nhật bắt đầu tuốn sang, nhưng các rạp Côli bờri và Êđen vẫn kín chỗ với các phim Pháp mốc meo, trước đây có tối đem chiếu chỉ được mười người xem, phải xin lỗi trả lại tiền vé. Khách vẫn là Tây, đầm, các cô các cậu của các quan, các chủ. Còn ở mấy ôten, không còn được ôm nhau nhảy nhưng vẫn thấy xập xình kèn sáo trống mõ, hầu nhạc các khách ngồi uống rượu suông...
Từ một rưỡi đến hai giờ, khi bãi đá bóng mở cửa, các rạp chiếu bóng, rạp hát nổi chuông, các ôten và phòng trà nhận khách, thì đường phố lặng hẳn. Riêng quãng đường giữa hai khu phố Bônbe và Cầu Đất, chạy ra bến tàu Sáu Kho lại càng vắng lặng. Đây không có một tàu to đến ăn hàng, dỡ hàng. Cái tàu Vigilăng gọi là pháo thuyền độc nhất trấn giữ hải cảng cũng không thấy. Trơ trỏng có hai xà lúp thì một cái đang kỳ cạch sửa chữa, trông như một nhà mồ, một cái đỗ lút vào đám thuyền chở than lèo tèo mấy đàn bà trẻ con, đội từng thúng than đi lên đi xuống trước những cầu kho cũng sắp bỏ hoang.
Con sông Cửa Cấm sóng nước càng rực rỡ lại càng trơ trụi, hoang tàn, dù chưa bị bắn phá bom đạn gì cả.
Ông ký Thái nhà ta đến quãng đường này, vào lúc một đám bụi mù lên với những tiếng hí tiếng hét. Đoàn ngựa chiến của trại lính Nhật đang chăn qua đấy xuống các làng dưới cửa sông. Tất cả những xe cộ, hàng họ, gồng gánh và người đi đường đều giạt về bên.
Toàn ngựa cao lớn, màu lửa, màu tía, màu ô dồn đi rầm rập như sắp làm bật tung mặt đường hay dẵm nát hết bất kỳ người hay đồ vật nào vướng víu. Trên lưng mấy con ngựa lừng lững đi đầu và đi sau cùng, có những viên quan đeo kiếm dài, mắt một mí hum húp, gương mặt vô cùng lạnh lùng, như không thèm nhìn thèm biết đến mọi vật mọi người ở hai bên đường và dưới ngựa mình. Hàng chục lính đội mũ vải chum chủm, áo cộc tay, quần đáp cả đầu gối và đũng, khăn mặt bông cũng màu cứt ngựa quàng cổ, lạch bạch chạy bám lấy chân ngựa của quan ngồi và hò hét những con đi theo. Vẫn có những trẻ con chạy theo, vừa chào gọi bằng mấy tiếng Nhật quen dùng ở các bến bãi, vừa huých đẩy, cười đùa với nhau.
Ông ký Thái đứng nép vào một gốc cây xa bờ đường nhất, nheo nheo mắt nhìn quang cảnh huyên náo, chờ đám ngựa và mấy cái xe đạp, xe bò đi khỏi rồi mới qua đường. Mấy nhà hàng phố và hàng quán quen thuộc đều ngạc nhiên vì ông ký Thái. Buổi nay ông mặc áo chùng dạ Mông tự, quần trắng là, bước đi vẫn lật đật nhưng cánh tay ông không khệ nệ cái cặp da to phình, mà xách một gói trong cặp bẹ chuối ngoài bọc lá chuối để hở hai đầu. Một ai kia không cần tinh ý cũng biết đấy có cua bể.
- Chết! Chết! Chiều chủ nhật ông ký Thái không chịu ở nhà mà lại đi chơi?! Ông ký Thái đã đi chơi lại mang cả quà cáp thế kia?!
Người ta ngạc nhiên và không thể không vui vui thích thích, vì thấy có lẽ bữa tuần rằm này ở nhà bà ký Thái đã chuốc ông chén rượu ngâm tắc kè, cao hổ cốt, hay ông ký Thái quá nể khách uống vài ly rượu canh ky na Con mèo, nên sắc mặt ông mới phừng phừng, gò má hơi đỏ thế kia, và ông cứ vừa đi như vừa lẩm bẩm một chuyện gì rất thú vị riêng với ông vậy.
Vâng, người nào đoán thế cũng gần đúng đấy!
Từ lúc ông ký Thái xuống bến ôtô, về nhà uống mấy chén nước chè hột chế thêm gừng và thay quần áo ra phố, thì không những ông thấy càng sảng khoái vì cả một buổi sáng đẹp trời ông đã hoạt động rồi ăn uống với thằng con yêu quý nhất nhà kia, mà vì ông ký Thái đọc xong tờ nhật trình thì lại càng thấy được thêm nhiều bằng chứng chính xác cho sự nhận định chín chắn của ông về thời thế, cũng như thái độ và cách xử sự của ông trong tình thế biến chuyển vừa qua.
Phải! Người Pháp thất trận vẫn là người Pháp thất trận. Người Pháp thua là thua ở bên Tây, thua với người Đức. Còn bên Đông Dương này, người Pháp phải nhượng bộ là nhượng bộ với người Nhật, hai bên không đánh nhau gì cả. Không được ở bên Tây mà nhìn tận mắt