Nguyên Hồng Toàn Tập 4

Nguyên Hồng Toàn Tập 4

Tổng số chương: 51

Đúng lúc chuông nhà thờ họ An Sinh vang lên thì người ta nghe thấy tiếng lợn kêu. Hãy còn tối đất. Sương muối càng mù mịt. Hôm nay không phải chủ nhật lễ trọng, cũng không phải ngày lễ thánh quan thầy, nhưng nhà thờ cũng kéo chuông lâu. Thoạt tiên, nhiều người xóm trong xóm ngoài không khỏi thảng thốt. Nhưng sau nghĩ ra, vừa phần nghe thêm người nhà khoe khoang bàn tán, rồi nhận ra ngay lại là lợn kêu ở bên trại cụ Cố, thì ai nấy nhỏm cả dậy, gọi con gọi cháu cùng trỗi.

Tiếng ho, tiếng ngáp, tiếng gọi, tiếng ngắt, tiếng rủa sả. Tiếng Giêsuma rền rĩ... Tiếng lào thào đọc kinh. Tiếng giũ chăn, cuốn chiếu, đấm đạp nhau chí chóe, cười nói ríu rít ồn ĩ. Khác mọi sáng, gia đình nào cũng ra nhà thờ gần hết. Mẹ giục con, bà giục cháu, trẻ con người lớn đều mải mốt mặc quần chùng áo dài. Tuy biết rằng không có lễ năm giờ, và nếu như cha xứ Bề trên có về bằng ôtô chăng nữa cũng phải bảy giờ, như thế phải đến bảy giờ rưỡi làm lễ, thì họ cũng phải đi từ sớm mà đọc kinh chầu chực để được ăn mày ơn phúc cho trọn.

Lập cập cuống quít hơn cả vẫn là những ăn mày ở cầu chợ Xóm lẻ và ở khu nhà đòn Vườn thánh. Mù, cà thọt, chân tượng, hen xuyễn và có kẻ đang sốt run không được... cũng ôm chiếu khoác tải lê lết, đìu díu nhau để xí chỗ trước cổng nhà thờ. Dù các kẻ này đã nhanh song cũng không lại với những đám ngoài phố có ông cháu một thằng bé hai tay nó cứ quay quay vắt vắt như rãi khoai, và ba mẹ con nhà mù nằm ôm lấy bên cổng từ chiều hôm qua.

Đêm đầu mùa xuân nhưng trời đất cứ như mực. Sương mù quấn lấy cả mặt người ta. Gió lạnh cắt. Gió ngoài biển thổi vào. Vì thế ngoài trời khi bặt tiếng chuông và tiếng lợn thì lặng sâu lặng ngắt. Cũng như ngoài vùng lửa đuốc phần phật ngùn ngụt và ánh đèn măng sông sáng chói, chỉ còn bóng tối và sương đen thẳm.

Trước sân nhà dưới của cụ Cố bỗng có những bước chân cồng cộc và đàn chó chồm nhảy kêu rít. Bõ Quý gác cổng khu nhà trên đã xuống, khập khiễng chiếc chân gỗ bịt sắt, tay lật bật cái roi mây đầu bịt đồng, đi giữa những con chó to như những con báo, lông cũng vằn như lông báo! Dù một bên mắt chột thây lẩy đã chết rồi, bõ Quý vẫn thấy ánh đèn ánh lửa bất thường nọ lại làm đầu óc hắn nhức nhối. Bởi vậy hắn luôn luôn phải chớp bên mắt còn sáng và càng lia nhanh cái chân gỗ đi qua chỗ mổ lợn và đun nấu.

Hắn thở cũng hồng hộc rin rít.

Không phải hắn rét. Cũng không phải vì đau, vì mệt. Hắn đã mặc một áo bông cộc lại còn khoác một áo bành tô dạ lính nặng hàng bảy tám cân. Đầu thì vừa quấn khăn bông vừa đội mũ len đan bịt tai. Hắn thở như thế do thói quen. Cái thói quen mỗi khi đang nằm phải trỗi dậy, phải đi nhanh để làm những công việc dọa nạt, xua đuổi, bắt bớ. Phải rồi, hắn lại xuống nhà củi, đến cái xó ấy đây. Vẫn ở cái xó ấy, lại có tiếng kêu u ú dưới những tiếng vun vút của ngọn roi mây bịt đồng quật xuống: "Khòa! Khòa!...".

Hình thù lồm cồm tung cái đùm bao tải chiếu rách ấy là một thân thể cao lớn, cởi trần, đầu trọc mum múp, mặc quần đùi. Khòa còn bị quất thêm bảy, tám roi nữa lên cả vai cả gáy cả đầu, nhưng khi ngửa mặt hấp háy nhìn ra bõ Quý, thì cái mặt nhăn nhúm xệ xệ của y lại như cười. Cái cười ở cả hai con mắt hùm hụp không có lông mày, ở cái trán ngắn, ở cái mũi hếch thù lù, ở cái miệng bệu, hàm lẹm. Ở tất cả bộ mặt bủng bớt, ngây ngố, khó mà đoán được là đàn ông hay đàn bà và bao nhiêu tuổi.

- Ụ úy! Ụ úy! (Cụ Quý! Cụ Quý).

Cái miệng bệu lập bập ngọng díu ngọng dịu. Ngọn roi còn vụt hai cái nữa lên người Khòa.

- Ụ cái mả cha mày! Sao quỷ Luxiphe không lôi mày xuống địa ngục cho khuất mắt tao. Có thu dọn cái đống mả của mày rồi đi tỉnh không?

Lần này không phải Khòa cười mà reo hẳn lên:

- Ên ỉnh, ụ o on ên ỉnh? Ồ ích oá, ích óa (Lên tỉnh, cụ cho con lên tỉnh? Ồ thích quá! thích quá!).

Bõ Quý liền cười sặc:

- Ừ tao cho đi tỉnh. Mày lại kéo xe của mợ Tú lên nhà thờ chính đón cụ chánh trương và thầy giáo để theo hầu cha xứ, mày phải chạy sao đúng tám giờ thì đã về rồi.

Khòa gật đầu, líu ríu vâng ạ vâng ạ.

- Thằng quỷ! Thằng quỷ! Hẵng nghe tao dặn nào. Đây này, tao cho mày mặc bộ quần áo trắng của thằng xe mợ Tú. Mày đội cả nón của nó nữa và đem theo cái áo dài the, lúc đến nhà thờ thì mặc. Nhớ, chỉ được mặc áo the lúc đến nhà thờ thôi đấy!

Khòa càng líu cả lưỡi mà vâng dạ. Bõ Quý lại rền rĩ:

- Giêsuma lạy Chúa tôi! Tôi còn là khổ với cái thằng này! Đã bảo cứ phải nghe tao nói nào. Đây này, cả bộ quần áo trắng, áo dài the và nón đây.

Khòa như hoa mắt khi bõ Quý giơ ra trước mặt Khòa một gói giấy dầu và cái nón lợp vải trắng, chóp đồng. Bõ Quý ra hiệu cho Khòa cúi đầu, giơ hai tay lên để y đeo cái gói vào cổ rồi luồn dây quai qua vai:

- Từ nhà lên tỉnh, mày cứ chạy nguyên như thế này thôi. Gần đến phố chính mới được cởi gói lấy quần áo mặc và đội nón. Rồi khi đón cụ chánh trương và thầy giáo ra xe kéo khỏi nhà thờ thì phải cởi ngay áo the gấp gói lại vào tờ giấy dầu này bỏ vào thùng xe... Khòa! (Bõ Quý hét lên) Mày bảo nhớ, thế tao dặn những gì mày nhắc lại tao nghe thử nào. À! Quần áo trắng của nó vừa mới giặt là, mày mặc chạy sao mà về bẩn lấm thì chết đòn. Cấm không được ngồi lâu bất cứ đâu, tao sẽ khám lại cả từ đũng quần. Thôi... lấy xe đi ngay. Đây, nửa cái bánh tây năm xu cậu Tú phần tao, tao để dành cho mày cả đấy.

Cầm lấy nón và nửa bánh mỳ đã khô khốc, Khòa cúi cúi cái đầu trọc múp, chớp đôi con mắt hùm hụp, Khòa lặng người đi rồi nguây nguẩy đầu cười. Khòa cười thật, nhưng trông vẫn cứ như muốn khóc. Gà lại gáy ran.

Khi các con chiên lếch thếch qua cửa ngách vào nhà thờ, trong đây vẫn tối đen tối thẳm. Không ai va vấp vào cột vào bệ nào cả; chỗ người nào cũng cứ đúng chỗ người ấy. Tất cả đều ngồi đất, nền trát xi măng ẩm lạnh như ở hang đá sâu. Một ngọn đèn dầu lạc leo lét sáng, treo trước tòa Mình Thánh ở chính giữa. Ông bõ già đã đi ra cầm một cây sào quỳ lạy tòa Mình Thánh đoạn giơ sào châm mồi bấc lấy lửa ở ngọn đèn lưu ly nọ. Lửa bắt cháy, ông kính cẩn đến châm vào cây nến phía bên phải tòa Mình Thánh. Ánh nến dần ngời lên, tia ria nhấp nhánh. Ông lại giơ sào đi vòng rộng ra, lại quỳ xuống, một cánh tay ấp lấy ngực, cúi đầu xin phép đi qua. Ông đem mồi lửa châm vào cây nến phía bên trái. Với hai ngọn nến cháy to, cả ban thờ rực lên lung linh ánh vàng son, hoa lá và tượng Chúa, tượng Thánh.

Nổi nhất vẫn là tượng chịu nạn.

Chúa Kirixitô dang hai cánh tay bị đóng đinh trên cây câu rút, đầu quấn mão gai, máu rỏ ròng ròng, mắt nhắm nhưng vẫn như nhìn xuống chân mình, xuống mặt đất với cả và những gì đang sống đang sấp mình trên đó.

... Chúng tôi lạy ơn đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng láng vô vùng. Chúng tôi xin đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng tôi là kẻ tin cậy Đức Chúa Lời và đốt lửa kính mến Đức Chúa Lời trong lòng chúng tôi.

Tiếng chuông lại rung vang. Ông bõ già quỳ lạy lần cuối tòa Mình Thánh đoạn trở vào phòng áo cất cây sào rồi ra kéo thêm hồi chuông. Lần này hồi chuông rất ngắn. Mọi người đều quỳ thẳng người trên đất, làm dấu thánh giá, rền rền cất giọng. Khu bàn thờ và cha làm lễ có ba bực thềm và một hàng chấn song gỗ ngăn ra. Cách đó một quãng, kê hai hàng ghế đủ cả chỗ dựa lưng và gục trán lên cầu nguyện. Trừ hai khoảng này, còn tất cả khu dưới mọi người đang quỳ vẫn mờ tối.

Khòa vừa kéo xe ra khỏi con đường lát đá tảng, trồng phi lao và dừa hai bên từ ấp cụ Cố đến cổng nhà thờ, thì nghe thấy chuông báo nguyện kinh đầu tiên và những tiếng cầu xin âm lên từ vòm nhà thờ như một hang động chấn giữ trong sương mù cuồn cuộn trước mặt Khòa. Khòa giật thót người, suýt buông rơi càng xe. Khòa liền tay phải làm dấu, tay trái cặp ghì lấy càng xe bị gió đẩy cứ chực hất bồng lên. Khòa nghĩ hay Khòa đỗ lại để đọc hết những bản kinh chính về buổi sáng của thường lệ. Giêsuma! Có thể nào một ban sáng Khòa bỏ đọc kinh không phải vì ốm, vì ngủ quên mà vì sợ lỡ công lỡ việc? Nhất là Khòa vẫn được Chúa ban ơn cho sức khỏe. Tuổi Khòa năm nay kẻ bảo đã bốn mươi nhăm, kẻ bảo năm mươi, kẻ bảo đúng bốn mươi bảy bằng tuổi anh mình, chú mình đẻ cùng cái năm lụt hay năm bão gì ấy! Bốn mươi bảy, năm mươi tuổi rồi, Khòa vẫn không phải nằm một ngày nào hay uống một viên thuốc cảm, xoa một đầu tăm dầu bạc hà, rồi bất cứ việc gì nặng nhọc hay bùn đất gì trong ấp, hễ ai không chịu làm, không thể làm, thì đều lại phần Khòa.

Khòa đặt càng xe xuống bên đường đá. Khòa co ro cúi rúi đi vào cái góc ẩm tối khuất dưới chân cột sau tòa giải tội, chỗ nhất định của Khòa. Tâm trí Khòa nhẹ thênh, bay bổng hẳn lên. Khòa quỳ xuống, đầu gối không còn thấy gì trên nền xi măng buốt lạnh. Khòa hít hít thơm thơm cái đầu ngón tay cái lên đinh bị cụt vừa làm dấu thánh giá. Cái giọng ngọng díu của Khòa cùng với cả tâm trí của Khòa cất tiếng lên thầm thĩ trong những tiếng nguyện kinh của mọi người càng rền cao mãi lên.

Gió thổi như quất như xé. Mặt Khòa như có một làn nước mát dầm xuống, còn tâm trí Khòa càng như bay bổng thêm, và trong người Khòa có một cảm giác như là được những sự gì đầy đủ vô cùng, giàu có vô cùng, sung sướng vô cùng.

Đầy đủ, giàu có, sung sướng hơn cả được ăn uống thật no, thật ngon, hay trong túi có hẳn một đồng bạc hào mới đi chơi phố chơi chợ.

Lạy Chúa tôi, tôi sấp mình xuống trước mặt Chúa tôi. Tôi tin thật Chúa ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, hằng xem thấy tôi, hằng nghe lời tôi cầu nguyện. Xin Chúa rất nhân từ hãy đoái xem sự nghèo ngặt và nhận lời tôi nguyện.

Lạy Chúa tôi xin hãy mở miệng lưỡi tôi ra thì tôi sẽ cao rao những lời ngợi khen Chúa.

- Ì ôi ẽ ao ao ững ời ợi en úa... - Khòa bưng mặt gục xuống nền xi măng, lại hít hít thơm thơm ngón tay bị cụt mà làm dấu thánh giá...

⚝ ✽ ⚝

... Từ biệt thự Bờ biển xanh, xe của Thy San ra gần đầu đường mới nổi còi. Những người bán hàng không ai bảo ai đều bưng thúng, lôi chõng, kéo ghế, xếp quang giạt sang hai bên lấy lối cho xe qua. Họ nhìn theo rất lâu:

- Ôtô đi đón ai, đi việc gì mà sớm vậy?

Vẫn còn sương. Mặt trời càng đỏ rực. Qua những ngọn cây, những tầng nhà, phía cửa sông, nắng giội xuống những lớp sương dầy đặc ùn ùn. Gió thổi mạnh những mái tôn, những túp nhà; những dây buồm dây điện và những thuyền, đò, sà lan buộc neo đều rùng rùng. Từng đám rác bay tung tóe, chạy sàn sạt trên đường. Ôtô của Thy San lướt càng êm, loang loáng. Chiếc xe độc nhất trên con đường lặng tanh, lộng nắng lộng gió.

Không phải chỉ ở quãng đường này tụ tập nhiều kho, lán, xưởng thợ, nhà máy, chợ và người các nơi đổ đến nay vắng như thế. Cả phố chính ôtô đi qua và bến tàu to Sáu Kho ngoài kia cũng vậy. Sáng chủ nhật, ngày đầu tháng hẳn hoi. Các cửa hàng đều mở nhưng gần như không có khách vào xem, vào mua gì cả. Nếu không có một số hàng bán rong, xe cộ chuyên chở và người đi làm các việc linh tinh, thì khu phố Cầu Đất buôn bán thuận tiện và đẹp nhất của thành phố cảng này chỉ còn thấy những ăn mày và người thất nghiệp vơ vất trên đường. Nhưng vẫn đông nhất, tấp nập nhất là chỗ xe lửa chạy qua giữa phố. Đây là một nhà to trước là tiệm nhẩy Palace dancing (Palát đăng xinh) suốt đêm rầm rập các thủy thủ và quan binh Pháp, Ănglê dưới tàu lên chơi. Tháng 9 năm 1940, nó bị máy bay Nhật yểm trợ cho quân đổ bộ ném một quả bom 25 cân làm vỡ mất hai bức tường lối ngoài cổng đằng sau và sạt một góc nóc nhà bếp, tới nay vẫn chưa chữa lại. Các hàng gồng gánh, quà bánh, rau đậu, tôm cá ngồi giăng cả hai bên hè. Nhìn xuống quãng đường họp thành chợ vẫn còn mấy vết tích đổ nát này, có tấm biển sắt rất to, treo trên nóc tường của tiệm nhẩy Palace giờ mở hàng phở, hình Thống chế Quốc trưởng Pêtanh vẽ bằng sơn màu. Dưới hình, kẻ mấy dòng chữ cũng rất to trên nền cờ tam tài làm bất kỳ ai đi vào giữa thành phố, cả những người đi xe lửa, cũng đều đọc rõ: "Nhờ có bại trận mà khối đồng tâm của quốc gia được thắt chặt: chúng ta sở dĩ quây quần để tìm sự bảo vệ chung... Tôi muốn các người phải có đức tin, tin trong cõi lòng, tin trong lý trí. Tôi muốn các người phải khôn ngoan và nhẫn nhục".

Phóng qua đây, chiếc ôtô nổi tiếng của vợ chồng Thy San vẫn làm người ta phải chú ý, và nhờ nó mà quang cảnh đường phố bệch bạc cũng thêm được phần náo nhiệt. Người ta chú ý vì thấy chỉ có xe không với người tài xế đóng bộ đúng như ngày đại lễ hay có việc long trọng: mũ lưỡi trai lợp vải trắng vành kim tuyến, quần áo trắng mới tinh là bốp. Ở những chỗ ngồi mọi khi, không có Giáng Hương lộng lẫy và Thy San khinh khỉnh, hay Huệ Chi buồn lặng và Bích Nga hớn hở, sắc sảo. Cũng không có cả cố bà Đức Sinh hơn bảy mươi tuổi rồi nhưng ngày càng béo tốt mâng mâng.

Chiếc ôtô Lanhcôn ấy lại đến nhà thờ chính rồi từ nhà thờ chính nổi còi, phóng ra Đồ Sơn. Người ngồi chỗ thường lệ của Giáng Hương, của Huệ Chi là cha xứ. Phải, đúng cố Nhân. Cố Nhân đội mũ nhung đen vành rộng như nón tu lờ, áo dài dạ đen, đeo tràng hạt có thánh giá Chúa bằng bạch kim. Mấy nhà bổn đạo hàng phố liền hỏi nhau:

- Mẹ Đức Sinh đón cha đi làm lễ hay có việc gì vậy?

- Việc nào thì không biết, chứ nhà Đức Sinh có kẻ liệt cần cha đi làm phép xức dầu chắc không phải!

- Biết đâu đấy! Hay cố mẹ Thy San bất thình lình chuyển bệnh. Chả nhẽ xưa đã có ông Bành Tổ, nay lại thêm bà Bành Tổ?!

- Hay Hải Phòng lại sắp báo động, sắp có ném bom?

- Dào! Cha chạy báo động ném bom gì mà xốp phơ lên khung như đón toàn quyền, thống sứ hay vua Bảo Đại thế kia?!

Không ai đoán hay tán đúng cả!

Hơn tuần nay cố Nhân mỏi. Người mỏi nên tuần trước và tuần này, hai cha ta phó xứ làm lễ cả. Người bị cảm. Tháng vừa qua, cái đêm Đồng tử thập tự quân đốt lửa trại ở núi Phù Liễn Kiến An, Người đến đích thân nhóm lên đống lửa củi thông và xem đủ cả hai vở kịch Con đường thánh giá mới và Tiếng hát Thiên thần cứu chữa. Sáng hôm sau Người còn làm lễ giữa trời. Người mặc phong phanh tấm áo chùng vải trắng thô, thắt dây lưng thừng gai, đi dép cỏ, mũ thóp vải màu mận chín, hệt như Chúa Giêsu khổ hạnh ngày xưa mà cầu nguyện, dâng Mình Thánh, và cho chịu Mình Thánh. Buổi lễ trên một bãi sim mua gai góc lộng gió, giữa khoảng trời cao, mây rộng, biển xa này, có ngót nghìn thanh niên và đồng nhi giỏi giang nhất trong hai đoàn Đồng tử thập tự quân và Nghĩa binh thánh thể vùng duyên hải. Hơn hai tháng sau, khi Nhật nổ chiến tranh ở Thái Bình Dương, bắn phá tan tành Trân Châu Cảng của Hoa Kỳ, thì tin tức, sự việc và các chuyện trong đêm lửa trại và buổi lễ đã truyền đi, đã kể lại khắp nơi. Nó bao trùm thành một sự kiện lịch sử, một khắc giờ huyền diệu, thiêng liêng, một thành tích cao trọng làm nhiều người đã tưởng như Chúa Giêsu sắp tái sinh, và nếu mình được có mặt ở đây, hay rồi sẽ đến đây, thì phải hôn nấm đất nơi dựng ban thờ và cho chịu Mình Thánh, y như ngày xưa các con chiên hành hương đến Giêrudalem mà hôn nơi Chúa bị đóng đinh lên cây câu rút.

Cả ba chị em Huệ Chi, Bích Nga và Hùng đã được đi theo cha. Huệ Chi về lại ốm. Chính vì thấy Huệ Chi nóng sốt, bỏ cả ăn hai hôm liền, cố bà Đức Sinh lại càng nghĩ đến cha là người chăm sóc gia đình cố bà mà không một gia đình nào được như thế. Hay nói cách khác, thì không một gia đình nào lại được cha đặc ân săn sóc làm vậy.

Ôtô chạy, gió bị hất lại tưởng chừng kéo sập theo cả những túp lều, những hàng quán bên đường. Nắng to. Sương và mây biển cuồn cuộn rực rỡ thêm, ngun ngút mở ra. Dải đường nhựa loang loáng vút theo. Trong xe, cố Nhân ngồi lim dim mắt có vẻ trầm ngâm cầu nguyện. Núi non ngoài khơi và đàng xa như những lâu, các, đài, tạ, xe kiệu, võng lọng và tàu bể, chiến hạm nhấp nhô, rùng rùng cờ biển đón chào. Cái làn hương đặc biệt của quần áo, đầu tóc và da thịt vương vấn trong các góc đệm và lưng tựa bằng nhung càng nổi càng thấm.

- Giêsu! Lạy Chúa tôi!

- Giêsu! Giêsu! Ôtô cha đã tới kia kìa...

Cụ chánh trương và thầy giáo rên lên, cuống quýt. Nếu Khòa không khỏe cánh thì xe tùng bê mất. Khòa đang gò lưng, chồm chồm mà chạy ngược gió, thì người trên xe nhô ra. Khòa phải lấy hết gân sức hãm đà xe lại vì đang bồng bồng xuống dốc. Đôi gót giày da cuống quýt đánh lên lưng Khòa. Khòa chưa kịp hạ càng, cả cụ chánh trương và thầy giáo đã nhảy xuống, đứng giạt vào mé đường, chắp tay vái vái hướng về mũi ôtô đang lao tới. Khi xe vút qua, hai người cùng thấy cha ngồi trong hòm kính đã trông thấy mình và Người khẽ gật đầu, thì cả hai liền rạp thêm đầu, thêm lưng xuống lạy, rồi cười nói với nhau:

- Giêsu! Ôtô chạy êm thế mà cánh ta vẫn nghe thấy. Chỉ chia lòng chia trí một tí thôi là ôtô qua mất không được trông, không được lạy Người! Bá ngọ cái thằng Khòa này, người như đười ươi thế mà lại giỏi. Nó có thể kéo xe cho ta đi thi chọc nước lấy giải ngày hội Cát tó được đấy!

Còn hơn năm cây số nữa sẽ đến ấp An Sinh. Lúc cụ chánh trương và thầy giáo xuống lạy bề trên là lúc nghỉ của Khòa suốt chặng đường từ nhà thờ chính đến cây số 12 này. Mồ hôi đã vã đẫm cả cái trán thót, nhăn nheo của Khòa. Khòa kéo cánh tay áo lên, lấy bắp tay và mu bàn tay gạt gạt chùi chùi cả trán lẫn mặt. Mắt Khòa đang chớp chớp vì mặn xót, cụ chánh trương và thầy giáo lên xe, lại cười nói chuyện trò với nhau. Cụ chánh trương gầy yếu ngồi lút góc trong, ôm tráp. Trong tráp ngoài những thứ dùng của cụ, còn có một chai dầu ô liu và một hộp nấm mua bằng sổ biên bông ở hàng Sápphănggiông của cố bà Đức Sinh để dành làm cơm. Thầy giáo người béo trắng ngồi ngoài cắp một va li nhỏ bằng da tây, khóa cũng khóa tây, của cố Nhân, và ôm một bó huệ trắng, cúc trắng và hồng bạch. Hoa nhà Thy San mua để bày bàn thờ bà thánh quan thầy của Huệ Chi và bày bàn khách ăn hôm nay.

Sàn xe còn có một làn mây to đựng các thứ rau thơm của vườn dưới làng đưa nộp hàng ngày. Một bắp tay vẫn gạt gạt chùi chùi mồ hôi ở mặt, ở trán, một tay nhấc càng xe lên, Khòa nhấp nháy mắt, trông theo ôtô cố Nhân vừa gật gật cười cười với mình:

- Ôtô cũng chỉ chạy bằng tớ thôi. Tớ mà là ôtô tớ còn chạy nhanh hơn cơ!

... Cả cửa chính và cửa hai bên đều mở rộng. Bộ cờ ngũ hành lại đem cắm giăng ra trước sân nhà thờ họ Đức Sinh đúng như buổi lễ trọng, còn ấp An Sinh thì như mở hội.

Tuy là dựng tạm, chỉ bằng dãy nhà ngang cụ cố, nhưng nhà thờ vẫn bề thế trên khu đất ruộng mới đổ nền, hơn hẳn ngôi chùa nhỏ cây cối um tùm ở cuối làng trong kia. Đã thế, liền với dinh cơ cụ cố, nên vẻ hãnh diện càng được tôn lên.

Ôtô qua quãng đường đá tảng đỗ ngay trước thềm nhà khách. Cố bà Đức Sinh cũng áo dài dạ Mông tự, đeo tràng hạt thánh giá vàng, đứng đón. Tài xế mở cửa, cha Nhân tươi cười bước ra, cố bà Đức Sinh hớn hở hẳn lên, chắp tay rạp người vái chào:

- Xin phép lạy cha ạ ạ ạ…

Câu này như một khẩu hiệu, vừa dứt thì cả hàng hiên liền râm ran:

- Xin phép lạy cha ạ ạ ạ...

- Xin phép lạy cha ạ ạ ạ...

Đông đủ con trai thứ, con dâu thứ, hơn hai chục vừa cháu nội vừa cháu họ Đức Sinh, rồi đến mấy cố ông chức sắc nhất hàng xứ. Ở góc xa là mấy cố ông cố bà cũng vào hàng chức sắc, đạo đức và giàu có. Còn người mé sân là mấy quan viên họ bên cạnh và bọn thợ cỗ được phép lên chào cha rồi phải xuống nhà dưới. Sau khi cố bà Đức Sinh quỳ một chân có Huệ Chi nâng nâng hộ tà áo để cố bà cúi hôn mẫu ảnh thánh giá Chúa ở cỗ tràng hạt của cha đích thân đưa lên miệng lên mũi cố bà mà làm phép ban ơn phước, tiếp đó lần lượt đến Hùng, Huệ Chi và Bích Nga, thì vợ chồng nhà Tú cùng mọi người đứng từ xa đều nức nở cả người. Những tiếng xuýt xoa cứ như nấc như rên...

- Kính trình cha đường có xóc không ạ ạ ạ? Kính trình cha gió to như thế chắc người mệt ạ ạ ạ?... Kính trình cha, chúng con trộm phép thấy người hơi gầy đi ạ ạ ạ! Chúng con hằng cầu xin Chúa...

Chỉ cố bà Đức Sinh và ba con Thy San được đi theo sau cố Nhân. Cố Nhân vừa ngồi xuống cái ghế bành giữa nhà, đã thấy ngun ngút hơi nước nóng và mùi nước hoa ở chiếc khăn bông gấp đầy một đĩa bạc to và sâu đặt trên đôn sứ cạnh chỗ ngồi. Tuy là phòng khách ở nhà quê, nhưng một phần lộng lẫy tiện nghi tối tân của biệt thự Bờ biển xanh và của nền nếp giàu sang ở nhà Đức Sinh trên thành phố vẫn nổi rõ tại đây. Thêm vào lại còn vẻ trang nghiêm sùng kính của một gia đình đạo đức và quyền thế. Bức tranh sơn dầu mua lại bên Y Pha Nho nghe đồn bằng giá tiền một tòa nhà, treo che gần hết bức tường chính giữa sau ghế cố Nhân ngồi. Đó là cảnh chúa Giêsu ăn tiệc giữa một đồng quê năm được mùa với các tông đồ của Chúa và các con chiên dân làng. Vì thế nên nhiều lúc mọi người trông cố Nhân cứ tưởng như chính là Chúa vậy.

Vợ Tú ở phòng bên đã chuyên chè bưng sang. Chè ướp thủy tiên đựng trong chén có vung đồ sứ Giang Tây, khay bằng bạc chạm trổ, đĩa thì mạ vàng. Lại những kính trình cha, xin phép lạy cha, Giêsu! Lạy Chúa! và ơn bề trên v.v... Và những hỏi han, những nụ cười, những ánh mắt trìu mến. Mươi phút sau vợ Tú lại vén màn cửa khép nép bước vào, và chỉ dám ghé vào tai mẹ chồng mà nói. Cố bà Đức Sinh khẽ gật đầu đoạn xin phép mời cha dùng đồ nước. Lần này một người khác được vào: cụ chánh trương hàng xứ.

Một khay bạc có thể nằm gọn một trẻ lên ba khệ nệ dâng lên, mà cả cố bà Đức Sinh, cụ chánh trương hàng xứ, vợ Tú đều xúm vào đỡ như kiểu chuyển cữu từ tay người phụ bếp vậm vạp còn hơn đô vật. Khay bày hai đĩa bánh chưng đã cắt rồi nhưng có nhìn tinh mới biết. Bánh gói mỗi tấm phải một cân nhân! Chung quanh xếp hàng các đĩa giò, chả. Giò lụa, giò thủ, giò trứng; chả quế, chả băm viên nướng, chả rán. Còn thêm đĩa dưa cải sen, hành nén và hai bát con nước mắm chắt.

Cặp mắt vừa xanh vừa nâu của cố Nhân nhoi nhói sáng và không thể nào giữ được vẻ tự nhiên bình thường. Còn bộ râu ria chum chủm vừa đủ vuốt của cố cứ như muốn nhấp nháy, nhấp nháy. Như cố Nhân đang nhai ăn mà ngậm miệng vậy. Bữa nay trại mổ hai lợn, bốn lực điền thay nhau giã bốn cối thịt, hai thợ cỗ cùng bốn quan viên tin cậy đôn đốc người làm từ gà gáy thứ nhất. Bánh cũng như giò và chả bày mâm phải chọn từng chiếc từng khoanh từng miếng. Gương giò lụa hồng hồng như bầu má của con gái dậy thì. Miếng giò miếng chả nào cũng phải cắn ngập răng. Bên cạnh có những đĩa con muối tiêu cà cuống và ớt tươi.

- Kính trình cha, mời cha ăn Tết lại với chúng con. Năm nay thời tiết ngược quá! Mồng một mồng hai mồng ba cứ nóng như ngày tháng ba ấy! Thảo nào mà chả sinh lắm bệnh, chả làm cha mệt!... Thấy mấy hôm nay thuận tiết, nên con xin trộm phép cha...

Không biết cha thật mệt nhiều hay mệt ít, chứ cố bà Đức Sinh sau khi đỡ tay vào khay bánh và đứng lên ngồi xuống, giọng nói cứ hổn hà hổn hển, mặt càng đỏ bừng. Mấy lần cố bà làm bộ quay đi và cố tình lấy tay vuốt vuốt ngực.

- Giêsuma lạy Chúa con! Cái phong nó lại cứ cắn ray ráy trong ngực con, mà một dạo nó đã làm con cực khổ không ngủ được. Từ năm ngoái đến nay tình hình lại yên ổn, dân tình càng được vào khuôn vào phép nên con cũng bớt phải nghĩ ngợi. Nhưng con vẫn buồn vẫn lo không được có sức mà mãi mãi trông nom cho con cháu và gánh vác phần nào công việc của hàng xứ, để được theo chân Chúa vác thánh giá cho trọn!

Cố bà Đức Sinh đổi hẳn giọng, rền rĩ mà nói khi cố Nhân bảo cứ ngồi hầu chuyện cha, và trách sao bà cứ tham công tiếc việc. Một người đã có tuổi và lắm bệnh thì phải nghỉ ngơi mà đọc kinh mà suy ngẫm, cầu nguyện giữ phần hồn của mình ngày càng thêm sáng láng, trong lặng để chịu ơn của Đức chúa Thánh Thần và phép thông công của Cha cả.

Cụ chánh trương ngồi hầu chực ở phía sau cố bà Đức Sinh cứ gãi đầu gãi tai nhấp nhổm định xin phép nói. Cụ muốn phô thêm với cha về cái sự cố bà không chịu giữ gìn sức khỏe. Cố bà cứ lo hết món đất này lại khoản tiền kia cho Nhà Chung. Hàng nghìn mẫu ruộng, hàng chục ngôi nhà mua rẻ hàng bạc vạn. Rồi nào cao, quế, sâm, nhung; nào dầu tây, nước mắm, vải sợi, chăn màn, của từ các cha đến các thầy già, thầy giáo, đến các bà xơ, bà mụ, đến các trẻ mồ côi, bõ gác cổng nhà thờ... cố bà cũng phải để tâm chạy vạy cho. Rồi lại cả việc phần đời! Cứ hết lo việc với quan này lại đến quan kia để giúp đỡ cả dân làng bên lương. Như vậy thì làm gì mà chẳng hao tâm tổn sức?! Nghĩ kỹ ra, cố bà thế mà còn vất vả hơn cả người đi cày, đi cuốc!...

Đã tám giờ rưỡi. Cố Nhân ăn sáng lót dạ và súc miệng xỉa răng xong thì đúng chín giờ. Ngoài nhà thờ vẫn còn nhiều người ngong ngóng, hỏi khẽ nhau có lẽ cha chỉ xuống trại chơi chứ không làm lễ. Lại nghe nói Người đang mệt, chiều nay không phải ngày lễ trọng, chắc Người không ra nhà thờ, vậy con chiên không được xem Người chầu Mình Thánh đâu! Những dãy ăn mày vừa kéo nhau đến nằm ngồi la liệt hai bên đường đá trước nhà thờ, càng làm ầm ĩ hơn. Họ phần đông là những dân làng ven bãi chạy đói tháng ba đã lên tỉnh nhưng không được gì lại đổ về đây.

Trong trại cụ cố ăn cơm trưa xong sớm ra cũng phải mười một mười hai giờ. Nghe đồn cụ cố sẽ cho phát

chẩn gạo.

- Giời ơi! Đã nắng to nhưng sao lại càng rét thế này?!

- Các cô các cậu bé ơi!... Các quỷ tinh nghịch ơi!

- Chúng mày ơi!... sung sướng gì mà cứ cười cứ nô mãi, nhiều lắm vậy!...

Hai cánh tay nhèo nhẽo của thằng cháu ông cụ mù vẫn quay tít. Những người ốm yếu già lão khác đã nằm xuống, kéo bao tải kéo chiếu đắp cố ngủ để quên đói quên rét. Đồng bãi ngoài kia càng lặng ngắt. Gió thổi nắng loang loáng, ù ù như những trận mưa roi quật xuống những đám lúa non vàng vọt xờ xạc và những gò đống vẫn áy trụi chẳng có một bóng trâu bò...

... Vườn thánh của họ Đức Sinh mở trên hơn ba mẫu đất cũng mua của đám dân bỏ làng đi ra mỏ và đi làm phu cao su. Tuy ở phía sau, nhưng khu gò vừa cao lại vừa liền với chỗ đường huyện quặt vào, nên vẫn thênh thang, thế rất đẹp. Sát vườn là khoảnh ruộng hai mùa tốt nhất làng và một hồ thả sen. Đất hồ vượt lên đắp đầy những gốc cây to sửa thành lũy bao chung quanh. Hàng năm còn lấy bùn ải cho các cây ăn quả trồng trong vườn.

Cố bà Đức Sinh mời cha đi thăm Vườn thánh. Từ nhà ra đây không quá một cột lô mếch nhưng cố bà cứ mời cha cùng đi ôtô kẻo mệt. Cha đã nghỉ - cha ngủ một giấc ngon thì mới đúng - hơn một tiếng đồng hồ. Tuy chỉ ăn điểm tâm, cha cũng phải uống hai cốc rượu nếp cẩm của cố bà Đức Sinh hạ thổ được ba tháng, nay lấy lên mời cha là người đầu tiên. Vừa phần thấy cần phải đi bộ để bớt ì ạch, rồi đây còn dùng bữa trưa, vừa phần muốn ban ơn phúc và vinh dự thêm cho cả gia đình, nên cha không đi ôtô.

Cố bà Đức Sinh và cụ chánh trương theo hầu cha. Thứ đến các con Thy San và vợ chồng nhà Tú. Mọi người còn lại vẫn phải giữ tôn ti trật tự như trước. Nhưng lần này thiếu Huệ Chi. Huệ Chi lại mỏi, mỏi thật. Người cứ gây gấy muốn sốt lại.

Cố bà Đức Sinh mời cha đến thăm trước nhất núi Đức Mẹ và Hang đá Chúa Giêsu xây theo kiểu bên Balê và La Mã. Ở đây có ba bọn thợ nề, thợ mộc và thợ rèn đang làm. Tốp xây tường xây núi, tốp pha sắt đổ bê tông làm cổng, tốp chạm đục các khung, các cửa. Thêm năm người con gái gánh gạch đá vôi nữa.

Những tầng những lớp đá xanh xếp cao chót vót có một tòa để thờ Đức Mẹ. Các bậc đá và mỏm núi chung quanh đang đặt những vạn niên thanh, phong lan và hoa leo. Khi nào khánh thành sẽ rước tượng Đức Mẹ đặt lên bàn thờ trên đỉnh núi, và dưới chân núi sẽ là nơi mọi người đến cầu nguyện xin các ơn các phép lạ. Cẩm như là nhà thờ Luốcđờ bên Tây vậy. Còn hang đá không phải chỉ có một mà ba cửa. Lối vào cửa hai bên thì khúc khuỷu, trập trùng, trồng các cỏ cây, hoa lá uốn ghép cầu kỳ nhất. Trước mặt cửa giữa xây một bể nước cũng có một hòn núi. Qua hòn núi nhỏ sẽ nhìn vào hang đá của tòa núi cao. Đến ngày lễ Nôen sẽ bày cảnh chúa Giêsu hài đồng nằm trong máng cỏ, đủ cả Đức Mẹ, ông thánh Giuse, các mục đồng và bầy chiên chầu chực.

Cố bà Đức Sinh không còn hổn hển nữa. Tiếng nói càng sang sảng càng rành mạch. Các hình, các kiểu, các dáng, các vẻ, các nét cứ diễn theo cánh tay núc ních của cố như đóng kịch. Và càng nói cố bà càng sát vào người cha, có lúc tay vẫy đập cả vào vai cha. Trong khi ấy những đám người theo sau càng chen chúc nhau, nhấp nhô dồn dồn như muốn đến hẳn chung quanh cha và cố bà Đức Sinh nhưng không dám, mà cứ phải khúm dúm, lặng lẽ ở đằng xa.

Tất cả đã đến góc vườn um tùm trên lưng gò chênh chếch với núi Lộ Đức và hang đá chúa Giêsu có mô đất cao đang xây bực đá để sẽ dựng tượng Chịu nạn. Thánh giá đúc bằng đồng, to như thật; còn tượng Chúa đã gửi bên Tây đúc nếu không xẩy ra chiến tranh thì chở tàu biển về rồi. Cả thánh giá và tượng tính ra đúng một tấn đồng.

- Sáng danh Cha Cả. Nôen năm nay cha sẽ về làm lễ khánh thành công đức của con tân tạo này, và tạ ơn Chúa cho con - Cha Nhân trầm ngâm nét mặt, nhìn doi dói vào mắt cố bà Đức Sinh mà nói.

- Giêsu lạy Chúa con! Con mà lại được ăn mày thêm ơn Chúa như vậy, càng không biết phải cầu xin thế nào, phải làm những gì để tạ ơn Chúa với ơn cha!

Cả cố bà Đức Sinh, dâu con cháu chắt và mọi người đều cúi đầu làm dấu thánh giá, trong khi cha Nhân giơ cánh tay áo thụng lên tựa như Chúa Giêsu mà khoa khoa để làm phép.

Lại những tiếng xuýt xoa. Nhiều bà cụ ông cụ cứ lào thào bàn tán mãi với nhau về sự được đầy ơn đầy phúc của họ Đức Sinh. Bà cụ ông cụ nào không có bạn nghe thì nghĩ ngẫm, thẩm lẩm với mình. Sôi nổi nhất lại là mấy người họ xa cũng vào loại có tiếng nhưng không có miếng, luôn luôn phải đến nhờ vả cả cố bà và mợ Tú, cũng như mấy bà có con gái cùng tuổi Huệ Chi và Bích Nga nhưng nhan sắc thì không mà vốn liếng lại quá thảm.

... Càng chiến tranh, càng khó khăn, nhà cố bà Đức Sinh càng giàu thêm. Hải Phòng không có tàu Tây, tàu Ănglê, tàu các nước sang, hãng Thy San mất hẳn mối lợi bán xuống các thứ rau đậu trứng quả, thịt cá, thì càng lãi với số hàng còn lại và số hàng mới tích trữ được. Toàn những hàng ế từ mấy năm trước. Từng kho, từng kho ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Huế, Sài Gòn và ở ngay trong trại An Sinh đây nữa. Người ta đồn nguyên phụ tùng ôtô, đồ điện và thuốc tây của hãng Thy San nếu dỡ dần ra bán cũng đủ tậu thêm được hàng dãy nhà của phố Hàng Bồ trên Hà Nội hay tất cả ruộng bãi ngoài Đồ Sơn, kể cả ruộng bãi của cụ lớn Thiếu Hà Đông chiêu dân mở ấp!

Chưa kể vàng. Nhiều đến nỗi cả nhà Thy San chẳng ai thèm đeo vàng. Nhiều người đã phải nói nếu như đá thường, đồng bạch, thủy tinh mà được đeo vào cổ, vào tai, vào tay, vào ngực vợ con Thy San, thì cũng thành pờlatin, ngọc thạch, kim cương, và người ta phải mua giá đắt hơn. Các nhà buôn trên phố càng dốc tiền mua vàng, các nhà giàu xứ quê càng dồn tiền mua ruộng, thì nhà cố bà Đức Sinh càng như có người đổ tiền thêm vào. Nguyên cái khu gò đống ở rìa làng dạo chưa sửa sang làm Vườn thánh và hồ sen, cố bà Đức Sinh mua hơn nghìn đồng của đám nhà bỏ vào Đông Triều Uông Bí làm mỏ và làm ruộng, nay có người hàng phố về xem, xin trả ngay năm nghìn đồng chỉ riêng khoảnh đất ở cạnh Vườn thánh tận góc hồ.

Với người thì của cứ đi tìm của!...

Nghĩ như thế, chuyện với nhau như thế, nên nhiều kẻ càng nức nở khi theo cố Nhân và bầu đàn nhà Đức Sinh đi từ Vườn thánh ra xem thêm khu... sinh phần cũng đang xây dựng tấp nập.

- Cứ bảo các kẻ có phần hồn thì không tin ở đất cát! Không tin sao cố bà lại nhất định không cho cải táng cụ lang già thân sinh cố ông và cải táng cả cố ông. Mộ cụ lang già cứ ở tỉnh Nam Định, còn mộ cố ông thì chơ vơ giữa cánh đồng huyện nhà?!

Gió vẫn lạnh buốt.

Nơi này trông ra hồ sen. Ngoài kia là ruộng bãi hai huyện. Xa xa mở ra biển Đông và triền núi Yên Tử. Cha Nhân đến đứng ở bãi la liệt chồng chất đá hộc, đá cuội và đá tảng, có nhiều phiến to hơn cả chiếc chiếu. Mấy người thợ đang đục chạm trên mấy phiến vân đen như sừng những khung hình lưỡng long chầu nguyệt, thánh giá, cành lá thiên tuế, sao, trăng và các thiên thần giao cánh nhau đua bay dâng hoa và thổi kèn.

Trán cha Nhân đã nổi mồ hôi lấm tấm. Đi bộ mấy quãng đường chỉ hơn cột lô mếch, lên xuống những mỏm đá, những đống gạch, gỗ, sắt từ Vườn thánh sang đây, cha Nhân thở đã không đều và lộm dộm ở lưng. Cha thấy mệt nhưng đỡ ấm ách cái bụng. Cha liền nghĩ đến uống. Hoặc cam sành ướp lạnh tủ điện vắt pha đường, hay lại thứ rượu bằng nếp cẩm ngâm nước đá cũng được. Nhìn sắc mặt cha phừng phừng và nghe tiếng Người phì phò, cố bà Đức Sinh luống cuống:

- Kính trình cha, xin người đội mũ kẻo nắng ạ ạ ạ!

- Không việc gì! Ta bỏ mũ một lúc cho đỡ nhức đầu. Nắng này tốt lắm.

Giọng cha Nhân cũng ngọng, nhưng là giọng kiểu Tây, vẫn giòn, vẫn vang, vẫn ngọt dịu. Cố bà Đức Sinh như nức nở:

- Kính trình cha, cha khác, người khác, xin cha đừng coi thường nắng gió. Xin phép lạy cha, con chỉ mong sao cha hằng mạnh, hằng khỏe để khi giờ lâm chung của con, con được Chúa ban một ơn sau hết là cho con hôn tượng Chịu nạn trong tay cha mà chịu phép xức dầu...

- Chà... chà - Cố Nhân lắc đầu, xua tay - con có chín mươi hay một trăm tuổi, Chúa cũng chưa cho phép con về hầu Chúa đâu!

- Giêsu! Giêsu lạy Chúa con! Thế thì con còn phải lo lắng thêm nhiều điều ở chốn khách đày này. Sáng danh cha cả! Xin cha cả thương xót con, ban thêm sức cho con để con được lọn đời vác thánh giá theo chân Chúa...

⚝ ✽ ⚝

Huệ Chi giật mình, choàng mắt nhìn. Không! Không, không có ma quỷ và cũng không có ai rình mò đe dọa ở chung quanh cả! Một tia nắng xuyên chếch vào đầu giường Huệ Chi đang nhay nháy như một lưỡi gươm trong một vạt bụi bay vẩn. Gió rùng rùng cửa kính, tấm màn đăng ten càng chao chiêng. Gió ù ù văng vẳng như hú như gào ở ngoài kia.

Trước mắt Huệ Chi, trên đầu tường cửa ra vào, bàn thờ càng sáng rực. Đức Mẹ một tay ấp lấy trái tim, một tay đặt lên đầu Chúa con. Mắt Mẹ lim dim không phải chỉ trông xuống Chúa con mà trông xuống cả Huệ Chi nữa. Hương hoa huệ dậy ngát. Những bông hoa trắng muốt trong bình sứ cũng như biết lả đầu trước tượng Đức Mẹ.

Chợt Huệ Chi nhỏm hẳn lên. Một con ruồi không hiểu len lách qua kẽ nào vào đang vè vè từ bàn ăn của Huệ Chi bay lên. Huệ Chi vội cầm tờ báo Chúa cứu thế đập theo. Huệ Chi còn cúi xem lồng bàn có đậy lệch không. Không! cái lồng bàn bằng tơ nẹp tre sơn son chỉ vàng úp rất khít những thức phần Huệ Chi: một đĩa giò lụa, một đĩa chả quế, một khoanh mỏng bánh tây và một tấm bánh chưng. Tấm bánh này chỉ bằng bàn tay, cũng vuông vức, xanh rền, bóc để y nguyên. Tất cả mâm thức ăn mới bị động đến có mỗi miếng giò và một mẩu bánh tây. Đúng, tuy yếu mệt, nhưng sáng nay như thế Huệ Chi cũng là ăn được. Ở trên phố, Huệ Chi thường bỏ thừa cả một cốc sữa tươi và đĩa thịt nạc hấp, những sáng Huệ Chi không sốt, không váng vất gì hết. Từ ngày xuống trại, Huệ Chi ngủ giấc dài hơn bớt giật mình, bớt mơ hoảng...

Giêsu! Sao đã có những tiếng còi thét, lại còn những tiếng rít, tiếng xé của tàu chạy trên đường sắt nữa! Rồi tiếng sắt thép quăng quật, căm nhông rú ga, xe bò lộc cộc rền rĩ, hàng quán chợ búa ầm ĩ hỗn loạn... Và tiếng còi ủ. Lạy Chúa! Lạy Chúa phải gọi nó là tiếng chúa quỷ Sa tăng hú lên khi giơ đinh ba lùa các linh hồn tội lỗi vào hỏa ngục mới đúng. Tiếng còi rú càng giữa trưa càng khủng khiếp. Giêsu! Giêsu! Trên phố lại còn những chuyện trò bàn tán và các thứ tin tức đồn thổi của những ông bà quen biết và các khách sang khách quý đến chơi với bà.

Chuyện người Nhật mà cai trị đâu thì đấy sẽ chỉ được mỗi một con dao mắc xích treo ở đầu phố, nhà nào muốn làm thức ăn thì đem thịt cá đến đấy mà làm. Chuyện quân lính Nhật còn kéo nữa sang đóng ở Đông Dương, thì nhất định Mỹ sẽ cho máy bay đến ném bom rất nặng. Chuyện bên nước Pháp đã được phục hưng, ở bên ta cộng sản mà còn giở giói chống cự lại, sẽ bị bắn bị chém ngay giữa đường giữa chợ. Làng nào, tỉnh nào mà để cho loạn thì bị triệt hạ hết. Như Hải Phòng đây, đang được làm ăn yên ổn, nếu động dạng cộng sản nổi cách mạng, thì tất cả xóm thợ thuyền phu phen và những thôn ấp có kẻ cày thuê cấy mướn dù là bị tình nghi thôi, đều bị triệt hạ, bị bắn phá hết, cũng như trong Sài Gòn hay trên Lạng Sơn ấy... Sẽ còn kém đói khó khăn nữa!...

Nghĩ đến các cảnh khói lửa tan hoang, người chết vì bom đạn máy bay, người bị xâu tay bằng dây thép gai, bị chém, bị bắn vì tù tội, người ốm đói nằm ngồi thoi thóp, trẻ con da bọc xương bỏ mặc mưa nắng ở đầu đường cuối chợ... nhiều lần Huệ Chi lại phải kêu lên:

- Có thể sắp đến giờ phán xét rồi chăng?

Cái giờ đã được đọc trong Kinh thánh, người người kể cho nhau nghe và tưởng tượng suy gẫm thêm! Ai nấy đều thấy thật như trời đất giữa ban ngày bỗng tối rầm, mặt trời xám đen lại, núi non biển cả chuyển động, sóng gió sấm sét mù mịt. Mọi vật cố ngoi đầu lên như trong biển dầu sôi để chờ một tiếng truyền lệnh từ thăm thẳm trên cao, thì mặt đất lún sập vỡ tan tành.

Rồi giờ phán xét đến!...

Con ruồi Huệ Chi xua đập bay lên góc nhà, loạng choạng thế nào vướng ngay phải mạng nhện. Ngước trông chỉ thấy cái lưới mỏng mảnh lờ mờ kia rung rung và không còn tiếng vè vè ma quái nữa, Huệ Chi tươi hẳn nét mặt mà nằm trông ra ngoài trời. Như có những làn hoa, làn bướm, hết lớp ấy tiếp lớp khác tỏa ra trong nắng và sắp ùa vào buồng. Những vầng lá của cây vải thiều, cây ổi đào như của màn ảnh hoạt họa thần tiên, có những bàn tay, những cánh tay rất bé biết múa, biết vẫy gọi. Tiếng chim thấp thoáng. Những con vành khuyên chuyền qua những cây lựu, cây chè. Hoa chè trông sao giống hoa thủy tiên? Đôi lúc đàn chim bay lên thì những hoa thủy tiên kia cũng tung theo.

Nếu như gian buồng ta đang nằm đây mà ở trên một tàu biển, một thuyền to và ta chịu được sóng? Hay chỉ là sóng ngay cửa Đồ Sơn ngoài kia thôi! Sao lắm lúc nghe biển sóng thấy đúng như là các đồng nhi và con gái thơ kinh hát làm nhiều bè với đàn pianô ấy?

- Cậu Khòa ơi! Cậu Khòa ơi!..

Thấy Khòa vẫn cứ huỳnh huỵch, kin kít cái búa chim quá thể là dữ tợn bổ xuống cây gỗ quánh hơn sừng nọ, Huệ Chi giơ hẳn tay ra ngoài cửa mở hé:

- Cậu Khòa ơi! Hãy gượm cháu bảo này.

Khòa ngơ ngác nhìn phải, nhìn trái. Nhận ra bàn tay như bún và cánh tay áo len trắng vẫy vẫy ngoài cửa kính, Khòa sững người ra. Khòa lại cười. Vẫn cái cười làm nhăn nheo cả cái trán thót, đôi mắt hùm hụp không có lông mày và cánh mũi huếch của Khòa:

- Ị I ọi ôi! (Chị Chi gọi tôi).

Phập búa xuống súc sủi, cánh tay mốc đóng vẩy gạt gạt mồ hôi, dụi dụi mắt, Khòa khòm người chui qua quãng dây thép phơi bộ quần áo trắng còn nguyên nếp là, lách bụi ruối đi đến cửa sổ, định ghé đầu vào. Chi xua xua tay về phía bên trái. Khòa lại đứng sững không hiểu ra sao. Trong cửa, Huệ Chi lại vẫy tay ra hiệu thêm. Khòa chớp chớp mắt rồi ngẩn cả người, Huệ Chi phải nói to lên:

- Cậu vặn quả đấm mở cửa ngách mà vào. Cửa chỉ khép thôi!

Khòa nghiêng nghiêng tai, mặt mày càng khó khăn mà lại như ngạc nhiên mừng rỡ. Hiểu ra ý định của Huệ Chi, Khòa cười hẳn lên thành tiếng như sặc, như nấc, bảo Huệ Chi rằng cụ cố Đức Sinh sẽ mắng chết, mợ Tú sẽ đánh chết, Khòa không dám nghe Huệ Chi. Huệ Chi cũng phải cười, nhưng rồi cau mày:

- Cậu vào cho cháu hỏi chuyện, cậu Khòa!

Khòa gập người, lùi lùi, vẫn cười sằng sặc.

Huệ Chi chít lại khăn vuông rồi chạy ra mé cửa, mở ra hẳn một cánh. Khòa khúm rúm đi lại. Huệ Chi nắm lấy cổ tay Khòa, giọng buồn buồn:

- Áo đâu cậu không mặc. Sao cậu cứ cởi trần thế này?!

- Áo ể ành, ặc ức ắm! (Áo để dành, mặc bức lắm).

Huệ Chi trỏ bộ quần áo trắng đang bay quấn lên dây phơi:

- Cậu mới may bộ quần áo đấy à? Ừ, quần áo mới thì cậu để dành, nhưng còn áo cũ, áo rét của cậu...

Khòa lắc đầu:

- Uần áo ới ủa ụ Úy o ượn ên ỉnh. Òn áo ũ, áo ét ũng ải ể ành ứ! Ể ành o ỏi ách. Ó ể ành ì ới ó ãi à ặc (Quần áo mới của cụ Quý cho mượn lên tỉnh. Còn áo cũ áo rét cũng phải để dành. Để dành cho khỏi rách. Có để dành thì mới có mãi mà mặc).

Khòa miết đi miết lại bàn chân vào nệm cói ở bực cửa, cố rụt tay lại. Huệ Chi dắt Khòa vào, kéo cái ghế nệm da ở góc tường ra, đẩy đẩy Khòa ngồi xuống. Bây giờ cả bộ mặt Khòa là một nụ cười thật, trong khi tâm trí Khòa ấm áp, vui tươi, và càng ngạc nhiên vô cùng:

- "Chỉ có chị Chi ở một mình buồng này. Buồng đẹp quá, lại thơm thơm!".

Huệ Chi đã mở lồng bàn, cầm bát đũa đặt vào tay Khòa:

- Cậu Khòa ăn bánh với cháu.

Mặt Khòa nhăn lại, miệng Khòa xoạc ra như mếu. Và Khòa mếu thật:

- Ần ủa ị I, ôi ông ăn ần ủa ị I âu (phần của chị Chi, tôi không ăn phần của chị Chi đâu!).

- Ừ là phần của cháu. Là của cháu, cháu mới mời cậu ăn với cháu. Cậu lại không ăn thì cháu giận đấy. Lần sau cháu về cháu không mua thuốc lá cho cậu nữa.

- Ị I ận, ị I ông o ôi uốc á, ôi ẫn ứ in. (Chị Chi giận, chị Chi không cho tôi thuốc lá, tôi vẫn cứ xin).

- Thế là cậu Khòa thách cháu đấy! Cháu đã giận cậu, không những cháu không mua thuốc lá cho cậu mà cháu còn không kể chuyện vua Đavít đánh ngã thằng Gồliát, chuyện bẩy bông lúa lép, chuyện Ba vua đi đón Chúa con... Rồi cháu không nhận cậu cháu với cậu nữa!

Khòa ngẩn mặt ra như một người ngay lành bỗng bị bắt giải trước tòa và nghe tuyên án mình phải trọng tội. Mắt Khòa chớp chớp, bàn tay và gân mặt như lên cơn động kinh. Huệ Chi đã lấy đũa xắn đôi tấm bánh, bỏ vào bát với một miếng giò, một miếng chả rồi ấn đũa vào tay Khòa. Khòa chùn người, quắp quắp bàn tay lại và ấp cánh tay vào bên mặt như để che lấy người trong một thế chống đỡ. Khòa kêu hẳn lên tên đức Chúa Giêsu và bảo Huệ Chi rằng Khòa không ăn như thế đâu!

Đây không phải lần đầu Huệ Chi gọi Khòa, cho Khòa ăn uống. Bao giờ cũng vậy cứ thấy thức gì đựng bằng bát, đĩa, cốc, chén sang quý, Khòa lại chối từ. Huệ Chi rất khổ tâm, vì chỉ khi nào những bánh trái, thịt cá, kẹo mứt đổ vào tay Khòa ở ngoài vườn, ngoài bờ hồ hay một xó bếp, xó nhà xe thật vắng vẻ, thì Khòa mới nhận. Nhận và ăn ngay chồm chộp vừa cười nói ngay trước mặt Huệ Chi!

Nếu như bây giờ góc nhà củi là chỗ ăn ngủ của Khòa, lúc trước ở trên Hải Phòng nó là cái mái đằng sau kho ngô, kho thóc phát cho các chuồng gà, chuồng ngỗng phần Khòa quét dọn, trông coi chuột bọ, mèo cáo. Đến giờ, Khòa vẫn chỉ ăn một mình. Vú bõ, con sen, xe kéo, nhà bếp cơm nước xong, Khòa dọn mâm dọn bàn còn thừa trút trút mấy miếng còn ngon lành vào một bát ôtô, một đĩa sắt to và một chậu sành da lươn đã sứt sẹo, bưng về chỗ mình. Khi Khòa ăn, hai con mèo xiêm to cũng không buồn đến quấy. Còn con chó lai chực theo Khòa, liền bị bõ Quý thét kéo trở lại, quật cho hàng chục roi da.

Ngày còn bé, Huệ Chi cũng đã phải để ý đến cách ăn uống này của Khòa. Buổi mẹ Huệ Chi ốm nặng, chuyển sang uống toàn thuốc bắc, giữa trưa cả nhà vắng vẻ, mẹ Huệ Chi gọi Khòa vào sẻ liễn cháo thịt vào một bát sứ Giang Tây đưa cho, Khòa chỉ cười và lắc đầu. Sau mẹ Huệ Chi đành phải để Khòa cầm cái bát sắt to cờn miệng đổ lấy cháo và lại đem xuống ăn ở sau kho thóc và chuồng gà.

Tháng sau, mẹ Huệ Chi chết. Sắp chuyển cữu ra xe đòn rồi Khòa mới biết. Khòa cuống lên, díu díu hỏi sao mẹ Huệ Chi lại chết? Rồi Khòa đòi cũng đội khăn trắng. Khòa khóc. Khòa khóc cứ hô hố: "Chị Sinh ơi! Chị Sinh chết rồi à, chị Sinh ơi!".

Khòa là người họ đằng mẹ Huệ Chi, bằng vai với bà ngoại Huệ Chi, nên Huệ Chi gọi bằng cậu. Mẹ Huệ Chi còn kể chuyện Khòa chỉ hơn mẹ Huệ Chi bốn, năm tuổi, nhưng ngày trước Khòa vẫn cõng mẹ Huệ Chi đi nhà thờ những hôm mưa gió lầy lội. Một năm bão lụt, Khòa đã vác mẹ Huệ Chi chạy khi nước vỡ, rồi chèo tấm phản gỗ chở bà ngoại Huệ Chi và hòm quần áo tiền nong lên sân nhà thờ. Ngày mẹ Huệ Chi có mang Huệ Chi, không đong phát ngô đỗ và xuất gà ngỗng xuống tàu được, bà phải cho người về Nam Định đón Khòa ra đỡ chân đỡ tay cho mình, không để Khòa đi vác gạo, vác mía, vác nứa, kéo gỗ kéo thuyền lang thang các nơi nữa. Huệ Chi bao nhiêu tuổi thì là bấy nhiêu năm Khòa hầu hạ ở nhà Đức Sinh.

Khòa ở hẳn nhà Huệ Chi từ năm đó.

- Cậu Khòa phải ăn đi. Cháu nói thế chứ đời nào cháu giận cậu Khòa nhỉ? Cậu Khòa ăn cho cháu Chi bằng lòng chứ!

Huệ Chi lại nhớ cái trán hơi thót, gồ má xương xương và cái cằm hơi lẹm của mẹ. Người ta bảo không ai mài cái đẹp ra mà ăn. Xấu xí, ngố nghế như cậu Khòa mà sống người vẫn còn quý gấp vạn lần là chết. Phải! Nếu mẹ còn sống! Giêsu! Nếu mẹ tôi còn được sống. Nếu mẹ còn sống thì dù mẹ có xấu đến thế nào cũng vẫn được ở với ba! Và ba có chê, muốn lấy người khác đẹp đẽ, giỏi giang, khéo léo lịch sự văn minh, đủ hết các nết các vẻ, chắc cũng không dám! Trái với luật lệ Hội thánh mà! Giêsu! Mẹ ơi! Nếu mẹ còn sống được ở với ba, với chúng con, thì trong nhà không những sẽ còn giàu sang, bề thế, mà còn hạnh phúc nhiều hơn nữa, hạnh phúc khác hẳn... Chính một phần nhờ có mẹ rất mực khiêm nhường, khổ hạnh, chịu thương chịu khó, nên cơ nghiệp mới nổi thêm, mới giữ được đến thế này! Và nếu mẹ còn sống thì ba làm gì phải lo phải phiền, làm gì mà phải chịu khổ chịu lụy (Huệ Chi lắc lắc đầu), sao mà cô Hương cứ càng ngày càng làm ba phải lo phiền, phải khổ lụy như thế! Còn ba thì...

Tâm trí Huệ Chi lại như có kìm cặp nghiến đứt. Huệ Chi lại phải nghĩ đến tính tình và lối sống của người mẹ kế và những chuyện bàn tán về y lâu nay nghe trộm, nghe thoảng được. Huệ Chi nấc lên, vội kêu tên cực trọng vừa đưa tay làm dấu thánh giá để xua đuổi sự nghĩ ngợi và những ám ảnh như xua đuổi ma quỷ.

- Ê u! ê u! Ắp ưa ồi! ôi ải ổ ái ủi ủy ia o ong ới ược! (Giêsu! Giêsu! Sắp trưa rồi, tôi phải bổ cái củi quỷ kia cho xong mới được).

- Cậu Khòa! Kìa cậu Khòa!

Huệ Chi lại giữ lấy cánh tay Khòa. Huệ Chi lấy tờ giấy bóng to gói nho táo, và gói cả đĩa giò chả và tấm bánh chưng ấp vào tay Khòa. Khòa lại nhăn nhó cười, chào Huệ Chi, đi lùi ra cửa. Huệ Chi đang nghe bước chân và những tiếng lầm thầm ngọng nghịu của Khòa như chuyện, như khoe với ai, và Huệ Chi đang ngùi ngùi trong lòng, thì cánh cửa giật đánh thình. Hình thù cao lớn khom khom, đầu trọc múp, trán nhăn, mũi huyếch của Khòa đã tiến lại gần giường Huệ Chi. Khòa cười cười nhăn nhó như muốn nói.

Thấy Khòa ngoẹo cái cổ gáy u và mặt mày như mếu, Huệ Chi khổ quá!

- Ôi ỉ ấy ế ày ôi! Ôi ỉ ằng òng ế ày ôi! Ần ị I, ị I ải ăng! ị I ải ố à ăng!... (Tôi chỉ lấy thế này thôi! Tôi chỉ bằng lòng thế này thôi! Phần chị Chi, chị Chi phải ăn! Chị Chi phải cố mà ăn!).

Huệ Chi vừa giằng, giữ lấy tay Khòa, vừa xua xua, thì Khòa nắm lấy cả hai bàn tay Huệ Chi trong bàn tay xù xì ngắn chũn của Khòa. Cái mẩu ngón bị đinh ăn cụt như một mỏ chim mổ mổ gại gại dụi dụi trên mu tay lằn gân và trắng muốt của Huệ Chi:

- Ị I ông ịu ó ăn ì oống ết a ấc! ị I ơ ống ết ì a ồng ủ ới un! (Chị Chi không chịu khó ăn thì ốm chết mất! Chị Chi ốm chết thì ra đồng ngủ với giun!).

Nụ cười trên cả bộ mặt Khòa nở nang hẳn lên:

- Tôi không cho chị Chi đi nằm đất ngủ với giun đâu! Nằm đất ngủ với giun thì không kể chuyện vua Đa vít đánh thằng Gồliát và chuyện Bảy bông lúa lép được nữa! Chị Chi nhả, chị Chi nhả, chiều nay tôi lại đi mót khoai chuột lột về lùi cho chị Chi ăn nhé, ăn nhé, nhé nhé!...

Huệ Chi lại phải cố sức để nghe cho thật rõ, nghe cho hết câu nói càng dài càng líu ríu và khó nhọc quá này của Khòa. Cái trán dô cũng lằn gân và xanh mướt của Huệ Chi nóng bừng lên, lấm tấm mồ hôi, và trong người Huệ Chi lại như sốt...

⚝ ✽ ⚝

Tú không theo cha Nhân đi thăm Vườn thánh. Tú ở nhà vì khi cậu mợ đang chải tóc và ngắm quần áo thì lại có một bọn khách trên Hải Phòng xuống. Khách của mợ. Một bà đứng tuổi, một người có vẻ còn con gái và một người vào trạc mợ nhưng óng ả, sắc sảo hơn hẳn mợ. Cậu đã tranh ngay lấy việc phải ở nhà. Mợ liền bĩu môi lườm ngay cậu trong khi cậu lại cười cái cười đã thành trò nghề của cậu: cười trừ. Bọn nọ đang đi tìm thuốc đadênăng và sợi bóng Nhật. Riêng món đadênăng họ cam kết với cậu, nếu họ chỉ được một trăm tuýp thôi nhãn Đờlacơroa còn nguyên tem, thì cũng xin biện cho cậu hẳn năm trăm đồng. Sau đó họ sẽ ăn tiếp hai hay ba trăm tuýp nữa, vẫn đưa hỏa hồng như lần đầu tức là một nghìn hay một nghìn rưởi đồng.

Không hiểu cậu lại chuyện trò lớp lang thế nào, mà mợ đã dắt cả con cái đi, và khi mợ chỉ vừa ra khỏi nhà, cậu liền đưa người khách óng ả, sắc sảo nọ vào buồng của mợ để xem hàng. Ra về, cả bọn khách đều tươi cười, hẹn đúng ngày kia họ sẽ để mình cô ấy nhận hàng với cậu ở trên phố.

Tú đã khượt ra, ngủ thiếp đến gần lúc vợ con về. Hắn choàng dậy, lật lật gối, kéo lại nệm, kiểm lại những đệp giấy hai mươi đồng vừa nhận, nghĩ kỹ lại công việc.

Lại một áp phe cập rập.

Ba trăm đồng, tiền đặt cọc rồi mà hàng chưa chắc chạy được. Đúng là Tú có tuyô thuốc đadênăng, một thứ đang lên giá, nhiều người dùng phải mài ra uống như quế Thanh và chuốc như sâm Cao Ly trong kỳ dịch đau màng óc chớm phát. Giao ước năm trăm đồng hoa hồng cho một trăm tuýp thuốc, bọn buôn cũng khá là bạo. Ấy là chưa kể Tú sẽ điều đình được giá hạ. Rất có thể Tú còn ăn vào mỗi tuýp từ một đến ba đồng nữa.

Nhưng chạy hàng ở đâu ra bây giờ?

Chao ôi! Kho thuốc của Thy San! Đúng là một kho thuốc, toàn thuốc quý và toàn dược liệu rất cần thiết! Theo như thằng Chỉnh thư ký tay trong của Thy San cho biết, quả là thiên hạ không ngoa ngôn tí nào, khi nói rằng chiến tranh bên Tây kéo dài thêm ba năm chứ đến ba mươi năm, nhiều thứ hàng của nhà Thy San vẫn đủ bán. Nó ở giữa buồng cố bà và buồng chị em Huệ Chi kia kìa! Khóa cửa là khóa tây to. Các khóa hòm thuốc bọc kẽm là khóa chữ. Tất cả đều do Bích Nga giữ. Chỉnh chỉ trông coi sổ sách. Chỉ khi nào Thy San cho giá và hạ lệnh mới được xuất bán.

Bây giờ Thy San lại lên Hà Nội với Giáng Hương. Hay Thy San có đây, Thy San cũng không cho bán. Một vì: Thy San không chủ trương lối thậm thụt cò con. Hai vì... hình như Thy San định dành kho hàng này để làm một cú đặc biệt gì đấy!

- Thế là ta lại phải nói với con Bích Nga!

Tú lắc đầu:

- Khó lắm! Khó khăn lắm! Cái con ranh con quái này càng ngày c

Danh sách chương


Sách tương tự