← Quay lại trang sách

Thời Kì Đen Tối Chương 3

Tấn kịch diễn ra với vợ chồng con cái Đờvanhxy và viên quan binh Nhật có lính đi hầu ở giữa cái phố Bônbe to nhất Hải Phòng và ở giữa ôten Thương mại cũng sang trọng hạng nhất thành phố ấy, ngoài ông ký Thái còn làm một người quen thuộc nữa của Đờvanhxy choáng váng cả trong khi và sau khi chứng kiến: Tú. Tú em chủ hãng Thy San cũng là một hãng buôn to nhất Hải Phòng.

Con chó lài to tuy đeo rọ da và thắng bộ dây như cương ngựa cứ chạy chồm chồm trước Tú, Tú luôn luôn phải rúm cả người để ghì giữ, Tú phải ghì giữ con chó của mình vì thấy đúng rằng nó cứ muốn vượt lên, xông vào hai con chó của viên quan Nhật khi y lừng lững ra đường. Đó là cái sợ thứ nhất.

Cái sợ thứ hai là Tú biết rõ người đi theo viên quan Nhật là em thằng Chỉnh. Tức là một thằng Nhật lô can, một thứ chỉ điểm, một thằng mật thám đàng hoàng mặc đồ nhà binh, không thèm nói năng gì với ai, cũng lừ lừ như Nhật chính cống, nhưng có thể còn hống hách, còn ác hơn cả Nhật chính cống.

Và cái sợ thứ ba. Cái sợ này cũng không kém phần ghê gớm. Nếu như cái thằng Nhật lô can làm chỉ điểm, làm mật thám là em thằng Chỉnh kia chỉ đẩy cây nhẹ một câu với bố Nhật nó, thì lập tức con chó lài xấc xược của Tú sẽ bị chém xả làm đôi và cả Tú cũng sẽ ăn đòn có cái tên rất lạ: Xin âm dương. Phải, nếu như thằng Chỉnh muốn trả nợ Tú một món gì đấy, hay chơi một cú để trưng bảnh với hàng phố và cho Tú biết sĩ diện và vai vế mới của Chỉnh!

Ôi! Nếu cái tai họa đó giáng xuống đầu Tú thì cũng có thể Tú sẽ chịu một tai họa khác vì những tên mật thám và chỉ điểm của Tây, thằng thì đang dều dễu đạp xe dọc đường, thằng đang vờ xem báo ở cửa các rạp chiếu bóng, hiệu cắt tóc, thằng đóng vai bán hàng đang đón khách qua đường mời mua thuốc lá thơm, kẹo sữa ở các gốc me, gốc sấu... Chúng nó sẽ "bô" rằng Tú không coi ai ra gì. Thời buổi này mà Tú cứ rong chó đi chơi! Biết đâu đấy, trong lập bô của chúng về cái vụ nhục nhã cả của thằng trùm sỏ Đờvanhxy và các Tây Hải Phòng kia, lại còn thêm ghi chú rằng Tú đã ngang nhiên đứng ngay trước ôten Thương mại mà trông mà... cười. Chỉ thế thôi, Tú cũng đủ tội để Tây giam giữ, hành phạt, rửa hờn, rửa hận và rửa mặt nữa..., mặc kệ cả thần thế của nhà Thy San!

Chợt con chó kéo Tú nhao đi. Tú chạy lệch xệch, ghì dây da, vừa quài chân lại lê lê chiếc giày Gia Định bị tụt. Lúc Tú đang luýnh quýnh, thì viên quan Nhật và đôi chó cùng thằng Chỉnh bước xuống đường sang hè bên kia, đi thẳng về phía trại mới dựng ngoài cửa sông. Tú thở phào một cái, rút mùi soa xấp xấp mồ hôi trán, rồi chửi hẳn lên rất tục:

- Cái con bốn mắt này! Mày muốn về thì để yên tao dắt về, việc gì mày phải chồm lên! Quái ác vừa chứ, không thì ông lại cho ăn một bữa no roi cá đuối, roi gân bò đây!

Cùng cái thở để trút ra sự lo ngại khổ sở, Tú đưa mắt trông suốt quãng đường quen thuộc của mình. Đây cũng có những hiệu Tây bán toàn đồ hộp, rượu và thuốc lá thơm và thức ăn nguội dành riêng cho các chủ sở, chủ hãng và quan binh Tây mua sổ đầu tháng cuối tháng mới trả tiền, và những hiệu thuốc, hiệu may cũng gần như của riêng người Tây vậy. Về chiều các rạp chiếu bóng tan buổi hai giờ, nhà thờ chính làm lễ chầu Mình Thánh, và ở đình Cấm cuộc đấu quyền Anh sắp đóng cửa bán vé, nên quang cảnh cũng nhộn nhịp. Tuy vậy vẫn không bớt được vẻ nhôm nhếch vì những hàng quà bánh giăng ra các ngã tư và la liệt những ăn mày kéo đàn kéo lũ đón người đi nhà thờ và người đi xem, đi chơi, mà chẳng trông thấy đội xếp Tây, đội xếp ta đánh đuổi như trước.

- Không hiểu Tú Mông, Tú Suýt đến nhà thờ để kiếm chác gì mà lại từ Đồ Sơn mò về dong cả chó đi thế kia?

Mấy người con gái trong những hàng đồ thêu, đồ mây ở bờ hè đưa mắt cho nhau. Tất cả lại không thể không cười thầm trước dáng vóc, mặt mày, kiểu đi đứng của gã quý tử nhà cố bà Đức Sinh, mà bất kỳ đàn bà con gái nào đến chạy hàng chạy việc, mối manh mua bán, gã đều trẻ chẳng tha, già chẳng thương, ốm đau sầu não cũng mặc, trêu chòng hãm hiếp tú mông, tú suýt. (1)

-----

[1] Tú mông: tout le monde: mọi người. Tú suýt: tout de suite: ngay lập tức.

Họ vừa cười vừa ngắm Tú từ đầu xuống chân. Từ cái mũ phớt cũng kiểu Mốtxăng như mũ ông ký Thái, nhưng là mầu mận chín, đến cái áo chùng bằng gấm nền mầu cánh trả hoa chanh, ngoài phủ áo sa thâm, may rất công phu nhưng trông vẫn như một kép chèo đóng vai quan huyện hay ông thừa phái bị giễu... Và bộ mặt mắt quym quýp, lông mày to ngắn ngủn, cái mũi như bụng cóc lấm tấm nốt đỏ và nước da trắng mốc của Tú... thì ai kia đã để ý một lần đều không sao quên, không sao lẫn lộn được...

Lại vẫn những người hàng phố ở đầu đường Vườn hoa Đưa người, cười rũ lên khi Tú vừa đi khỏi:

- Không biết Tú mông - Tú suýt ta đã sục mõm vào chậu cơm chậu cám nào mà mặt mày trông phớn phở, nhưng vẫn nhếch nhác thế kia?

Người nào không cười to thì cười mỉm mà tự hỏi.

Còn Tú bây giờ lại thêm một sự choáng váng nữa: choáng váng vì thời thế, vì chính trị.

Phải! Mặc dầu Tú không bao giờ dám thấy mình có đầu óc chính trị, cũng như không bao giờ Tú nghĩ ngợi điều gì một cách gọi là hệ thống như các nhà làm việc khoa học, thì nay Tú cũng phải chia từng mục xếp một, hai, ba như sau:

Một là thật sự cái sự Pháp đã phải hàng Nhật. Phải hàng Nhật hết trận này sang cuộc khác, hết đận này sang đận khác... Có đăng báo hẳn hoi. 22 và 25 tháng 9-1940 tràn vào Lạng Sơn. 26 tháng 9-1940 bỏ bom đổ quân lên Hải Phòng... Tháng 12-1940 phải nghe Nhật cắt đất cho Xiêm. Ngày 25, 27 tháng 7-1941 để Nhật đổ bộ đóng nốt Sài Gòn...

Hai là có thật cái sự Nhật toàn quyền ở Đông Dương. Từ ngày 8 tháng 12 năm 1941, Nhật tuyên chiến với Mỹ, đánh tràn ra Thái Bình Dương, thì có không biết bao nhiêu ký kết, bao nhiêu nghị định. Những kẻ ký thì nào Tham mưu trưởng lục quân Nhật, nào Phó đô đốc toàn quyền Đông Dương, nào đại tá hải quân Nhật vân vân. Để... chỉ để Nhật tha hồ... muốn làm gì thì làm... muốn dùng thế nào, muốn lấy gì... tha hồ tha hồ!... tùy ý... tùy ý!... Quá như là đất của Nhật, của nả của Nhật!...

Nhưng, thứ ba, thứ ba là trước cái cảnh tượng vừa diễn ra ở ôten kia thì Tú lại phải ngờ ngợ như mình không được phép thấy là sự thật! Rồi đây nếu được phép nghĩ đến nó và nói về nó, thì Tú chỉ được nghĩ, chỉ được tả, chỉ được thuật lại đó chỉ là kịch thôi! Hoặc phải nghĩ hẳn rằng, phải nói hẳn rằng: không có!

Giêsuma! Lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng, làm sao mà Tú lại tưởng tượng ra một việc, một cảnh như thế được?! Một cảnh, một việc nếu như Tú có bị quỷ Satăng lấy kìm sống, kìm chín cặp lưỡi lôi ra, bắt không được nói dối, thì Tú sẽ cứ xin là chịu hình phạt rất lâu để mà còn suy tính nghĩ ngợi. Mặc dù Tú chắc chắn rồi đây khi Tú vừa Lâm chung, tuy đã xưng tội và chịu phép xức dầu, Tú cũng cứ phải xuống ngay địa ngục vì tội dối. Nhất là dối vợ, sau là dối tất cả mọi người, và trên hết mọi sự dối, là nhân danh cả Chúa mà dối với chính Chúa!

Chao ôi! Chịu thua chịu nhục như Đờvanhxy, nhà thương nghiệp, nhà chính khách, nhà ngôn luận đệ nhất của Hải Phòng kia, thì quả là một cái "sự chịu" nhất trần đời! Nếu ở vào như địa vị thằng Tú này, - Tú nhai nhai nghiến nghiến hàm răng, xì ra một tia nước bọt vừa gằn tiếng - thì thằng Tú này cũng không để người ta đối xử như thế. Cùng quá, ta sẽ giật tung cổ áo mình ra, chạy đến cái cột ở trước mặt nó, cố liều đập đầu lấy một cái, rồi muốn ra sao thì ra. Muốn đến đâu thì đến! (Tú toát hẳn mồ hôi).

Ấy là chưa tính đến cái trường hợp viên quan Nhật giở cái đòn xin âm dương ra với Tú. Nghĩa là người bị đánh đang đứng, thì kẻ đánh ngáng chân ở đằng sau, chặt khuỷu tay một cái cho ngã vật xuống. Ngã vật xuống, kẻ bị đánh chưa kịp hoàn hồn, đã bị túm tóc giật đứng thẳng lên. Đứng thẳng lên, hai tay buông rũ, cũng chưa kịp đề phòng gì cả, lại bị kẻ đánh ngáng chân lần này ở đằng trước, dùng cùi tay đấm vào gáy để vừa thêm sức mạnh bất ngờ mà dập cả mặt lẫn người xuống đất. Cứ thế, vừa ngã vật ra lại bị dựng lên, vừa dựng lên lại bị dập mặt dập người xuống... kẻ bị đánh như đồng tiền reo liên hồi để xem mặt ngửa mặt xấp, xin ý kiến của quỷ thần vậy!...

Sau mấy giây cảm xúc xung thiên chi nộ vừa chờn chợn gai gai này, tâm trí Tú lắng lắng dần rồi như mơ màng và bỗng vui hẳn lên:

- Đúng như dân gian nói giờ đang đổi đời đây! Vậy thế phải có cảnh lên voi xuống chó. Đờvanhxy thật xuống quá chó rồi. Nhưng lên voi chả nhẽ chỉ có mình người Nhật? Voi cũng như ngựa họ cỡi mãi phát ê phát bại cả hông, chắc chẳng thiết tha ghê lắm. Sẽ có cả những người khác. A ha!... Những người khác sẽ là ai đây? Có cả ai đây?

Tú lúng búng cái mồm đầy lưỡi. Cặp mắt quym quýp, đưa ngang, đôi mày rậm rì ngắn ngủn nhíu lại. Tú xì ra mấy tiếng Pháp bồi:

- Xe moa! Pa ki! Pa ki! Xe moa oa oa oa...(2)

Tú cười hềnh hệch, lại luýnh quýnh chạy giữ lấy dây chó. Gió chiều từ ngoài cửa sông thổi vào như bão. Ngã tư trước nhà hát Tây và vườn hoa Nhà kèn quang vắng thêm vì bến xe ôtô chạy bằng than còn mấy chuyến cuối cùng trong ngày đã đi hết. Đông vẫn là mấy hàng quà bánh và những ăn mày, những trẻ con lêu lổng, đi bấu xấu. Trên cửa gác thượng Nhà hát Tây, trước vườn hoa Nhà kèn, ở nóc tầng ba một hiệu khách bán tạp hóa vải sợi, đường lên khu phố chợ, thấy trương thêm hai tấm biển dài rộng vẽ hình thống chế Quốc trưởng Pêtanh ốm o rầu rĩ trên nền cờ tam tài màu sơn bờn bợt, mới kẻ thêm những dòng chữ Thống chế đã nói.

Một biển:

"Oai lực của vị Quốc trưởng vẫn thường để cho mọi người được trông thấy và cảm thấy. Oai lực đó chỉ có thế ủy và chia vì những sự cần dùng định nghĩa rõ ràng, mà không làm lẫn lộn quyền hành cùng trách nhiệm".

Một biển khác:

"Các người cần nhất chẳng nên ngã lòng. Ví dù bản chức được quyền như vậy thì đã ngã lòng từ lâu rồi! Bản chức sẽ gánh việc lớn cho đến khi hoàn thành và mong rằng ai cũng noi theo gương đó".

Mấy chỗ này cũng toàn những trẻ con. Chúng chen chúc nhau để nghe một người bán kẹo kéo vừa vuốt kẹo bán vừa rao hàng với những câu vần vè như hát. Gần đấy là mấy hàng xinêma hòm mà người quay ảnh rao cũng tài nghệ như ông bạn bán kẹo.

- Chà! Hay lại vào Pécgôla làm một quắn ắp pê rô (3)vậy.

-----

[2] Chính ta! Không phải ai đâu! Không phải ai đâu! Chính ta a a a...

[3] Khai vị.

Mặt trời chiếu ngay trước mặt Tú. Bóng cành lá xoan tây như có những đám bụi màu da cam rung theo. Những đợt gió thổi mạnh càng làm buổi chiều dịu mát. Trong người Tú máu như hâm nóng. Tiếng nỉ non của đĩa hát Nhật văng vẳng nỉ non thêm. Tú ghìm con chó lại, định bước xuống đường để sang tiệm nhẩy nọ. Nhưng nghĩ đến cái sự uống rượu suông mà vẫn trả cả tiền như có gái nhẩy, đã thế lại còn phải mua cả rượu để mời gái tiệm ngồi tán phễu, uống tì tì, uống để ăn hỏa hồng vào tiền rượu mà khách thì chẳng nước non gì cả, Tú liền chậc lưỡi, lại văng tục, chửi đỏng, đoạn ngoắt lên hè.

Tú vào một tiệm nhỏ ở bến ôtô chuyên bán cà phê và rượu.

- Có dại mả mới đâm vào ngồi Pécgôla giờ bọn quan binh Nhật đi chơi này. Vô phúc đầu chẳng phải lại phải tai! Không được ăn găng da mà ăn đòn Xin âm dương thì pỏ pẹ (bỏ mẹ).

Để thưởng cho cái ý nghĩ rất thông minh này và thưởng cho cả một buổi đi chơi đã có những bất ngờ rất thú vị, Tú vừa bước khỏi bực cửa liền khoa mũ lên cười với một người con gái kết tóc kiểu Nhật, quần trắng, áo sa tanh dài màu hoa đào, ngồi sau quầy tiền:

- Lại một rom, cô em nhé.

Người bồi chưa kịp bưng khay đến, Tú đã hất hàm:

- Đúng Xanh Giamơ (Saint James) đấy chứ! Đưa đến đây mà rót... Đưa cả chai đến đây!...

⚝ ✽ ⚝

Tú lại đi sau con chó, càng loạng choạng.

- Mả tổ nhà nó, Xanh Giamơ gì mà nhạt loét như rượu ngang hạng bét! Sắp hết hàng và ế ẩm thì đóng cửa cha hiệu lại, chứ đừng giở cái trò treo đầu dê bán thịt chó, pha phách gian dối ấy! Cũng chả ai như thằng bồi, bố nó đã phải cho nó ngay một điều Luýchki vậy mà nó... Cứ cái lối làm ăn này thì càng để những thằng Voòng Cắm, Tài Hoóng, Tiểu đào viên, Đông hưng lâu càng đông khách, giàu thêm thôi.

Tú vừa chửi, vừa tiếc, vừa giận cho mình cả nể và khờ khạo đã nhường lại cho Chỉnh dạo Tết hai chai Xanh Giamơ chính cống, mà Tú biết chắc thế nào Chỉnh cũng dùng vào một áp phe quan trọng, vớ bẫm. Nhưng thôi, việc đã rồi, giờ đang được khoái trong người, sắp đến bữa ăn ngon miệng tối nay, thì không nên để đầu óc bận vì những cái sự nhỏ mọn đó!

Thế là Tú lại nghĩ đến Đờvanhxy.

Ừ thì Đờvanhxy vừa phải xuống làm quá chó, nhưng chỉ là một chốc một lát, chứ đã cưỡi voi lâu rồi và sẽ vẫn ở trên voi. Nghĩa là Đờvanhxy vẫn cứ với vợ đẹp, với con khôn của y, vẫn cứ với các gái bao rất trẻ của y, sống ở các biệt thự, các nhà nghỉ mát tại các nơi như thần tiên trên mặt đất. Nghĩa là Tú chỉ cần được hưởng bằng một vẩy móng chân sự giàu có, sang trọng, quyền thế của Đờvanhxy, hay chỉ được một năm tuổi thọ ở cái vinla Hoa thiên lý đường Liông bên cạnh những gái vào loại Dậu hay Tuyết Sơn ca, thì cũng đã đời. Chao ôi! Cái con bé tóc kết kiểu Nhật, áo hoa đào, son trẻ vào loại có tiếng ở Hải Phòng mà Tú vừa uống rom vừa nhắm ban nãy, bằng sao được những gái của Đờvanhxy bao, mặc dù thằng chủ cà phê Anh đào cũng đã chịu bỏ tiền ra thuê con nọ để chài các khách làm áp phe kể cả các nhà buôn và quan binh Nhật?!

Vậy mà Đờvanhxy cũng bỏ cả Dậu, thay một con khác, những con khác, và vẫn theo đuổi Giáng Hương! Cặp mày đen rộng của Tú lại chau lại dưới cái trán ngắn phải cạo lên một nấc, lởm chởm chân tóc. Hình ảnh Giáng Hương càng nhói lên, với cái dáng vóc, thân thể rừng rực như của một yêu tinh, thần nữ. Giáng Hương, vợ Thy San: chị dâu của Tú! Giáng Hương: vợ Thy San; chị dâu của Tú, toàn quyền chiếc ôtô choáng lộng nhất thành phố, còn sang hơn cả ôtô của Đốc lý và Đờvanhxy, muốn đi chơi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm... Phải rồi, trên con đường Tú đang lẹp xẹp đôi giày Gia Định đây, Giáng Hương với cái xe Lanhcôn còn gọi là Con cánh cam ấy, thường bon, lúc vút như ánh sáng, khi lừ lừ như bóng mây, nhởn nhơ, và cả thách thức trêu trọc nữa nhiều người! Giáng Hương đã làm Đờvanhxy mê lồng lộn để vợ phải hờn phải ghen. Giáng Hương đã làm một kẻ lạnh lùng nghiệt ngã như Thy San cũng phải chiều chuộng đến mức gần như thành mù, thành điếc, thành câm, thành nô lệ trước mọi hành động của y. Giời! Cũng là đàn bà, cũng là vợ, cũng là người!

Tú giật thót. Tú lại bàng hoàng như một kẻ sắp bị đẩy đến một hình phạt quen thuộc. Kìa! Làm sao Tú lại đi thẳng xuống đường sông Lấp thế này? Làm sao Tú lại đi thẳng xuống nhà vợ chồng Thy San thế này? Phải rồi, cái lối rộng thênh lát đá tảng đi vào khu biệt thự Bờ biển xanh ở ngay bên tay trái Tú đây. Chính ở đây, bao phen Tú đã chịu thắt, chịu xé cả tâm trí vì Con cánh cam của vợ chồng Thy San. Không! Phải nói của riêng Giáng Hương mới đúng, nó lừ lừ tiến ra rồi vù đi khiến Tú thấy mình như bị điện quất rồi sầm cả mặt mày vì đau tủi.

Con chó đang nhâng nháo bị Tú đột nhiên ghì chặt quá liền rít lên. Trong họng Tú cũng rít theo một tiếng. Tú mắm mắm môi, để níu chặt lấy một ý nghĩ chồm lên trong đầu. Con chó bị giật mạnh xô dúi cả bước chân Tú. Nó nhớn nhác, láo liên quay nhìn Tú chằm chằm tựa hồ muốn hỏi làm sao có cái sự này?

Bếp Kình gác cổng thấy tiếng chuông bấm và chó ngoài vườn dồ cắn cuống cuồng, thì sửng sốt vội nhìn ra cổng.

- À cậu Tú! Tưởng đếch ai! Mẹ kiếp thì ra Tú mông Tú suýt nhà ta bấm chuông. Cứ ông bà đi vắng mới dám mò đến. Lại nhòm nhỏ xin xỏ gì đây?!

Bếp Kình quay vào, phất cái tay áo lắt lẻo khỏi dựa ghế, khật khưỡng đứng dậy, xóc xách chùm chìa khóa, vừa đi vừa gườm gườm mắt:

- Ê me sừ Tú, át tằng tí ti, át tằng tí ti... (đợi một chút! đợi một chút).

Bếp Kình lọc xọc mở khóa cái cổng sắt chắc chắn và to như cổng đề lao, chỉ khác không bưng tôn mỏng và sơn hắc ín mà chỉ nẹp bằng lưới dây thép nhỏ, sơn xanh, cài hoa đồng. Kéo một bên cánh ra, búng đánh tách ngón tay trỏ và ngón tay cái vào nhau, bếp Kình làm hiệu cho Tú được phép vào. Đôi giày da cũ cao cổ, không bít tất, quài quài đá dứ hai chó lài của nhà cứ định chồm cắn người khách và chó lạ.

- Ba gai, bố cu ba gai, moa táp pê tút suýt! (Gây gổ quá, gây gổ quá! Tao đánh ngay cho bây giờ).

Cánh cổng đóng sầm. Bếp Kình phất cánh tay áo ra lệnh cho Tú theo mình. Bước khỏi vòm cây ngâu và cái giàn lủng lẳng những chùm hoa ớt, giẫm chân trên lối sỏi một cách rụt rè, nghe ngóng, đúng là Tú phải theo bếp Kình từng bước. Tú gần như không còn biết mình là ai, sẽ phải làm gì. Không đưa Tú vào phòng khách, cũng không đưa Tú vào hành lang có ghế ngồi chờ, bếp Kình bảo Tú cùng con chó của Tú lại vào nhà riêng của y dưới hai gốc cọ rườm rà ở một góc tường lối xuống bếp.

Mặc dầu đã ngà ngà, bếp Kình vẫn thấy hơi rượu Tú sặc lên, y liền cười phá ra:

- Xe ca ma lố (4)phải uống thêm với nhau chứ. Moa đang không có bạn tửu. Tửu mà uống một mình thì không còn biết thế nào là say nữa. Nào thích chay hay mặn? À, đã là mép rượu mà phải có mặn thì còn biết thế nào là rượu của nhau ngon. A lê hấp! Ngồi xuống đây, ngồi hẳn xuống đây, ngồi đàng hoàng xuống đây. Bôồng (tốt), thế là bôồng! Nào... ế ế... thật cốt nhắc Mácten đây nhé. Mẹ kiếp, đây còn sang hơn cả Căngđờlô chủ Xi măng, cả Đờvanhxy cơ. Bếp Kình này đã ăn thì ra ăn, đã uống thì ra uống... Ế ế... có thấy thật cốt nhắc Mácten không, có thơm không? Vừa mua vanh piết (5)của ngoài Sáu Kho đấy. Nào, đầy ve rồi, thật đầy ve rồi. Săng tê (6)với nhau chứ!... A lê hấp!...

Tú còn nhấp nhấp, thì ực cái, bếp Kình đã tợp cạn ly, đặt tưởng chừng đến dập ly xuống mặt bàn đá, nhưng lại rất nhẹ, không nghe thấy tiếng gì cả.

- Voa là (7), thế có thật tình không nào, bếp Kình có thật tình với khách không, hở me sừ Tú?

Tú cũng tợp cạn ly với tiếng cười ha hả của bếp Kình.

Bếp Kình không để Tú buông chén, cầm luôn chai rượu, nhổm lên nắm lấy cánh tay Tú hơi rung rung, rót thêm:

- Tháng giêng vừa rồi, me sừ Tú mà về làng nhà bếp Kình này thì phải biết. Cả Xanh Giam và Mácten đều phải chắp tay lạy rượu quê của mỗ bằng... đại ca. Rượu rót ra chén, mấy thằng tài xế hãng ôtô Con ngựa cứ xanh le cả mắt, châm thuốc lá hút phải bỏ chén xuống mâm, ra tận cửa đánh diêm. Rượu này mà uống sáng với lòng lợn tiết canh thì đệ nhất, đệ nhất!... Nhà có việc mời cả xóm ăn, không ai chê mỗ một nửa nhời, bảo còn hơn cả cỗ giỗ bố tiên chỉ làng. Me sừ Tú ạ, mỗ vất vả con không có thì có cháu; cháu họ thúc bá thế mà mỗ cũng coi như cháu ruột, như con đẻ. Có nhân thời nhân ở, vô nhân thì nhân trẩm. Bởi thế bếp Kình này chẳng cần nghĩ ngợi gì cả. Ba tháng tiền lĩnh về cái tay bị đạn trái phá anlơmăng (8)xơi cụt này, và tiền lương của ông bà đây tút xê (9)xong, là... cho cả cháu với uống rượu. Thôi, chẳng gì nó cũng được ăn học đỗ cái bằng lớp nhất, mở mày mở mặt cho cả xóm, cả họ. Bởi vậy không có trâu thì có lợn, lợn khéo làm còn ngon còn quý hơn trâu. Nhưng phải có chén rượu thật ra rượu, và mời khách ăn thì phải ra ăn...

-----

[4] Bạn chí thân.

[5] Hai mươi đồng.

[6] Chạm cốc chúc sức khỏe.

[7] Đấy đấy.

[8] Nước Đức.

[9] Lĩnh.

Bếp Kình mắt đỏ hoe, nắm chặt cánh tay lay lay, giật giật, vừa cười như mếu. Tú cũng nhìn bếp Kình, nhưng cặp mắt quym quýp của Tú không đỏ hoe mà nhoi nhói như một thứ mắt rắn. Một mùi quen thuộc vừa thoảng qua, vụt vào cảm giác Tú. Một mùi vừa của nước hoa và của giấy bạc mới. Với mùi nước hoa này thì Tú không đời nào lầm lẫn, vì Tú không thể tìm thấy ở một người thứ hai nào ngoài cái người đã ám ảnh, hành hạ Tú và sẽ còn ám ảnh, hành hạ Tú mãi mãi: Giáng Hương.

- Sao lại có cái mùi nước hoa tê rợn ấy dưới nhà bếp Kình và cả mùi giấy bạc mới nữa?!

Tú toan nhấc hẳn cái chai bèn bẹt đựng rượu đã vơi quá nửa lên tận mũi để ngửi, để hít thật sâu, nhưng lại thôi. Không thể nào khác cũng như không thể nào sai được. Nó phải là chai rượu của Giáng Hương mới cho. Cái chai với thứ giấy bọc như nhung như lụa đã được nằm trong ví xách của Giáng Hương. Còn mùi giấy bạc, hừ, cho dẫu bạc mới lĩnh ở nhà băng ra cũng không thể thơm như thế. Trừ phi cũng đã nằm trong xắc của Giáng Hương.

Tú nhìn lách mắt vào túi áo ngực của bếp Kình. Đúng, mép mấy tờ giấy bạc cứng, gờn gợn lấp ló như dao có đến bốn, năm tờ, nếu không phải loại hai mươi đồng cũng là năm đồng.

- Át tằng mỗ tí ti... Còn có cái này nữa. Chắc me sừ Tú mà nhắm đến kiểu này thì cũng phải...

Bếp Kình đứng huých dậy, đến cái tủ nhỏ ở đầu giường sắt một có nệm lò xo hẳn hoi, mở lấy ra một gói cá mực Bắc Hải cất trong hộp bích quy. Thấy bếp Kình lục tìm cuộn bông và chai cồn chín mươi độ, Tú càng ngạc nhiên không hiểu y lại giở trò gì. Bếp Kình giựt một ít bông phủi phủi lau lau hai con cá to chỉ bằng hai ngón tay, thấm đẵm cồn, xấp xấp lên, rồi đặt vào một đĩa tách, đánh diêm đốt. Cá bắt lửa bùng bùng, bếp Kình lấy cái cặp kim tiêm kẹp cá lật lật trên mồi lửa bông. Trống ngực Tú đang đập thon thót thì bếp Kình xé đôi một con mỏng quăn, thơm sực, mặn mặn, đưa cho Tú:

- Cạn chén đi rồi nhắm. Ăn thử cái râu trước.

Bếp Kình tước luôn cá ra mấy sợi nhỏ, nhai chóp chép từng sợi:

- Cả những mép rượu Mạcxây và Pari cũng phải đứng gác đờ bu (10)chào mỗ đấy!... Trận ấy mỗ bị đạn ngất đi, lúc tỉnh dậy thì thấy mình và cả hai thằng cai nhất cai nhì pháo thủ đều ngồi thu lu bên cạnh mình trong... một gian nhà mà lính gác là bọn anlơmăng. Thì ra ông bà nội ngoại ơi!... Bọn mình đã... đã bị bắt. Suốt hôm ấy cả ba thằng chẳng được miếng bánh nào. Mãi trưa sau mới được một thằng gác trẻ ném vào cho một cục bánh đúng là khô như củi. Hai thằng cai liền vồ lấy. Mình đã tưởng chúng nó đến bóp cổ nhau vì miếng bánh nọ. Nhưng một thằng cân cân nhắc nhắc bẻ mẩu bánh chia phần đem đến cho mình với một ca nước trắng.

-----

[10] Lập nghiêm.

Có lẽ mình được băng bó kỹ cầm hẳn máu nên tỉnh hẳn. Sực nhớ ra vẫn còn cái túi dết và nó kẹp ở ngay cánh tay bị cưa, mình liền gọi hai thằng bạn tù đến. Tưởng mình ngọ nguậy đòi đái ỉa, hai thằng xăm xăm định xốc nách mình dậy. Mình lắc đầu ra hiệu bảo giở túi dết của mình ra.

Me sừ Tú ạ, cũng chưa bao giờ mình thấy cả một sự ngạc nhiên sung sướng như thế. Mình đã nghĩ có thể vì sự sung sướng ngạc nhiên đó mà chính mình là người bị bóp cổ. Hà... hà... đúng chai rượu trong túi dết mình vẫn còn. Có lẽ vì cái vỏ nâu nâu sùi sùi bẩn như lọ đựng rượu ở quán bún riêu bờ đê ấy, nên không bị suy suyển... Nghĩa là bị cướp bị mất ngay khi khám xét. Còn người làm việc đó chẳng cho là xấu xa hay ngượng nghịu gì, sẽ nốc hết ngay trước mặt kẻ bị khám và các kẻ trông coi cuộc khám. Mình nhìn chai rượu rồi bảo giở ra một cuộn vải cũng bùn đất bẩn thỉu gói hai con mực khô... Cha... hai con cá này, không hiểu tại sao mỗi lần sắp giở ra ăn thì mình lại thấy trong người cứ thế nào ấy. Không phải mình sợ ăn hết mất, mà sợ ăn lúc ấy thì phí phạm, bạc bẽo, sẽ tiếc sẽ hối mãi mãi. Mình đã có những bốn con cá. Một người cùng làng làm ở dưới tàu gặp mình ở Mạcxây cho mình cá và một chai rượu quê, hạng rượu đúc của làng Vân bên tỉnh Bắc, để mình ra trận. Chỉ vừa tới mặt trận mình liền đả mất ngay già nửa chai và hai con cá. Một bận nữa giữa đêm mưa gió, mình lại giở ra làm thêm hai chén, nhưng không ăn cá. Mình cố gắng để dành rượu và cá cho một buổi thật đặc biệt ví dụ như bất thình lình được chuyển về Pari hay... về nước!

Hai tháng giời, mưa tầm tã ở mặt trận, không đêm nào mình không mân mê cút rượu và gói cá. Nhất là càng hít thấy mùi cá mình càng thấy nhớ nhà nhớ quê và cứ như thấy có tiếng gà gáy, chó cắn, chim gù, trâu bò gọ sừng và con trẻ khóc bú ở đâu đây... Lại càng muốn uống!...

... Rượu rót ra gần nửa cái ca nhỏ thơm cứ sực lên. Cá thì nướng với tảng bông bó tay mình lột ra. Khi mình ra hiệu mời hai thằng uống và xé cá cùng ăn, thì cả hai tần ngần rồi ôm chằm lấy người mình. Hai đứa hôn cả mặt, cả cánh tay băng bó, cả đùi vế của mình nữa và gọi mình là chúa Giêsu! Chúa Giêsu An Nam!... Thế là rượu và cá để dành là ăn mừng Kình mỗ này trái phá phạt cụt tay mà không chết đấy! Rồi hai đứa còn ôm cả bàn chân mình mà vuốt ve mà ngắm nghía, thằng thì khóc hô hố, thằng thì thút tha thút thít, mãi sau mới cùng mình uống. Cả hai cùng cầm lấy cái ca, giơ lên hạ xuống hô xì là xì lồ thêm những câu gì ấy...

Bếp Kình như giật mình tỉnh một cơn mê:

- Kìa me sừ Tú nghĩ ngợi gì đấy? Nào lại săng tê với Kình mỗ nào. A lê hấp... hà hà... phải như thế mới thật là quý... là quý!!!

Phải! Cặp mắt quym quýp và nhoi nhói như một thứ mắt rắn của Tú đã nhìn sâu vào mắt bếp Kình, nhưng tất cả câu chuyện bếp Kình say sưa kể ấy, hình như không động gì vào cảm xúc của Tú.

- Cái thằng này thật là giống ba chí ba chích (11). Biết đâu tất cả những sự việc kỳ lạ lý thú mà mày bắt tao phải nghe chỉ là phịa! Hay nếu có thật thì lại là của người khác mày được nghe rồi thêm râu thêm ria nhận làm của mình. Ngay cả chỗ cốt nhắc mày mời tao kia, mấy tháng rồi ngoài Sáu Kho làm gì có tàu to vào ăn hàng để mày mua của bọn bấu xấu những hai mươi đồng một chai? Chỉ có thể là của con Giáng Hương cho mày thôi! Thứ này chỉ có thể Mêtờrôpôn, Taveéc roayan hay mấy kho của những thằng bợm rượu chánh tòa, thống sứ, chủ than, chủ đường tàu hỏa Vân Nam, chánh đoan Hải Phòng và chủ bến Sáu Kho là còn thôi!...

-----

[11] Lính tráng thô lỗ, cục cằn (Chú thích của tác giả).

... Nhưng... nhưng đây là rượu của người ta cho con Giáng Hương hay con Giáng Hương mua cho thằng bếp Kình? Nếu như của người ta cho, thì thằng này dứt khoát không phải là thằng Đờvanhxy. Không phải thằng Đờvanhxy, mà là một thằng khác, thì tại sao thằng Tây hay ta này lại cho con Giáng Hương thứ rượu nặng, phải là những tay nghiện và sành mới chuốc đến?! Còn nếu như con Giáng Hương dạo này lại uống cả rượu như những con đĩ nhiều tiền và ăn chơi ở bên Tây, thì quả là nó không những chỉ cho thằng Thy San mọc sừng, bòn của nhà chồng về nhà mình, mà thật là ngang nhiên phá tán chẳng thèm đếm xỉa đến kẻ làm ra của cả!...

Tú thở hưng hức hưng hức:

- Ừ thì nó đã thúi cho bố nó cho các chị các anh nhà nó nay hàng cân sâm, mai hàng bốn cặp nhung, nay chuỗi hạt ngọc, mai đôi mặt hoa mặt nhẫn kim cương, lúc này năm nghìn, lúc khác hàng vạn hàng mấy vạn thì cũng cho là được đi! Nhưng còn đến vung tiền ở những nơi mà Tú không có quyền bước chân tới, không có quyền bước chân tới vì không đủ tiền, thì... (Tú nấc nấc như bị bóp cổ) Giáng Hương ơi!... Mày là hồ ly là Đát Kỷ đấy! Mày là Tây thái hậu, là... mẹ ghẻ thằng Nguyễn Đức Sinh đấy!

Tú lắc đầu:

- Không! Không! Không ai cho nó cốt nhắc đâu, mà nó cũng không phải mua ở đâu cả! Nó chỉ lấy ở kho thằng Thy San thôi! Thì ra thằng Thy San lại còn cả một kho rượu để con Giáng Hương dùng? Tiên sư thằng Chỉnh, mày cũng lại giấu tao chỗ hàng này nữa, và chắc chắn mày đã ăn phải biết là bẫm rồi, nhưng mà vẫn còn cướp của tao hai chai rom! Cả một kho rượu để con Giáng Hương dùng mứa ra, rồi đem không những cho giai mà cho cả gác cổng! Cho rượu chưa đủ, lại còn dán cả giấy năm đồng, giấy hai mươi đồng vào mõm thằng bếp Kình! Không khéo cái biệt thự Bờ biển xanh này lại là nhà xăm Đồng Lạc hay ôten Đờlaga mà thằng bếp Kình vừa làm ma cô vừa là bồi xăm thôi!... Thy San ơi!... Mày làm sao lại càng ngày càng để con Giáng Hương nó lấy hết cả hồn cả vía đi như thế?!

Thế là Tú lại phải nghĩ đến thân phận của Nó. Nó là em Thy San, em cùng mẹ khác cha. Cố nhiên điều này không bao giờ cả mẹ Nó và anh Thy San nó nói ra, nhưng Nó phải thấy như thế. Nó phải thấy như thế cũng không phải chỉ vì nghe người ta chuyện trò bàn tán. Mà Nó phải tự nhận ra Nó. Nó tự nhận ra ở cả gương mặt cùng dáng dấp, ở tất cả những gì là vẻ người của thằng Thy San và Nó đều khác hẳn nhau. Giời ơi! Sao cái thằng nhà thầy xuất béo trẻ hay cái thằng cha mũi lõ mắt xanh nào kia mà người ta bảo đã đúc cốt cho Nó, lại khốn nạn đến như vậy? Nghĩa là không cho Nó một tí mắt mũi tóc tai mồm miệng gì lẫn với kẻ tráng men, để thiên hạ bảo Nó cũng hơi giống Nguyễn Đức Sinh, hơi giống Thy San thôi! Và cái mụ mẹ của Nó kia cũng là một con đàn bà khốn nạn! Đã đi ăn vụng đẻ ra Nó mà lại không cố in được một nét một vẻ gì của người cha hờ cái giọt máu nằm trong bụng mình hàng chín tháng mười ngày?!

Trong khi cái cảm giác nung nướng và tùng xẻo này đang xèo xèo, rần rật trên người Tú, thì một cái lạnh lẽo ghê rợn lại tiếp đến sập xuống! Cái lạnh lẽo không Nam cực Bắc cực hay sa mạc nào bằng được. Cái lạnh lẽo còn hơn cả những đêm xiềng xích của tử tù. Cái lạnh lẽo từ cái nhìn, tiếng nói, dáng dấp con người Thy San, từ bất cứ một đồ đạc của cải gì ở nhà Thy San, và từ bất cứ một giây một phút nào ở trước mặt Thy San v.v... đều đã làm Tú thấy như mình không phải là một thể tồn tại, đang tồn tại.

Ngay như cái khu nhà mà Tú đã vào khỏi cổng rồi đang uống đang ăn ở một căn buồng xúi xó, bên ngoài nào vườn cây hoa quả, nào tầng nọ gác kia, vậy mà Tú vẫn cứ thấy như mình ngồi ở đâu đâu, không đáng ngồi, không được phép vào! Mặc dầu vợ chồng Thy San không cấm Nó, không cấm vợ Nó, không cấm con cái Nó! Vậy mà vợ chồng con cái Nó đều ít khi bén mảng đến đây, giống như một lũ nô lệ hay tù tội ở thời trung cổ chỉ được quyền đi đứng ăn ở trên một mặt đất cố định, riêng biệt.

Bếp Kình vắt cánh tay và ngật đầu lên tựa ghế đã ngáy. Ngoài vườn cũng như ngoài cổng vẫn chỉ có tiếng gió và bóng lá cây xao động. Tú lấm lét nhìn, khẽ khẽ nhấc chai rượu rót. Rượu sóng sánh ra cả đĩa. Tú gò gò người, húp hút rồi ộc cả ly rượu vào miệng. Tú còn rót thêm lần nữa đoạn đứng dậy, bưng ghế ra hàng hiên gục mặt xuống lan can. Cái cảnh tượng ban chiều ở ôten Thương mại lại diễn ra từng chi tiết dưới mắt Tú. Trống ngực Tú đập như sắp vỡ:

- Sao lại chỉ có đổi đời ở chỗ khác, ở người khác. Sao Nó lại không đến lúc lên voi và một số những thằng khác, con khác, kẻ khác thì phải xuống chó?! A ha!... Rồi đời Nó cũng phải đổi chứ!

Tú vụt thấy mình như sắp bay bổng. Tú bay bổng với chiếc ôtô Lanhcôn hay còn gọi là Con cánh cam chở mỗi Tú, bon bon khắp Hải Phòng khiến mọi người choáng váng không sao tưởng nghĩ ra nổi...

⚝ ✽ ⚝

Vợ Tú te tái gọi Thiết Phủ, vừa cười vừa chao chát nhìn cả bọn từ Hoài Giang đến Thái Trang:

- Đây nhé, tùy ý các ông và chú nó ra mơ nuy (12)cho tôi. Cúc cúc cúc cúc cúc cúc... Cứu cứu cứu cứu cứu cứu... Cạc cạc cạc cạc cạc...

-----

[12] Thực đơn.

Cái giọng và những tiếng nói dơn dớt cố làm ra vẻ quý phái, rộng rãi và thân tình của vợ Tú chưa dứt, thì như một trận mưa rào hay mưa đá, những tiếng ù ù, quàng quạc, quác quác từ ngoài vườn chạy vào, từ bờ rào, xó bếp, kho củi chui ra, từ trên các mái nhà, đống rơm ùa xuống. Cả rá thóc tung ra. Cái sân rộng như sân đình mù lên.

Không ai bảo ai, bọn nghệ sĩ nhà văn nhà báo nhà chính trị và triết học kia, người thì lừ lừ, người vơ vẩn, người đăm chiêu, người bã bời... đều sáng cả mắt lên nhìn những gà thiến, ngỗng mầm, mái ghẹ, ngan tơ, vịt bầu, chim ra ràng nọ.

Thiết Phủ vừa nói vừa nhai nhai cái điếu tẩu thuốc lá ở góc miệng. Từng tiếng nói của y chắc đanh dứt mạnh và vẫn day nghiến như khi y diễn thuyết hay tranh luận:

- Thế nào, các huynh cho ý kiến, nếu đồng nhất thì bà chị nhà ta sẽ thực hành.

- Xin tùy bà chủ.

- Xin bà chủ cứ chủ động.

- Hoàn toàn tin tưởng thẩm quyền của nữ chủ tịch tổng trưởng bộ Nội vụ kiêm bộ Lễ!

- Không!... Không!... Với ai chứ với các ông tôi chả dám nhận cái thẩm quyền ấy đâu (vợ Tú càng mơn giọng nói và lại đưa cặp mắt mai mỉa một cách ý nhị nhìn bọn Hoài Giang).

- Sao lại như thế?! - Mọi người nhao nhao cười hỏi. Thiết Phủ nhún vai, nheo nheo mắt, gật gù:

- Chả là đã có một quy thức: "Trên đời này có hai giống ăn sành nhất và cũng ăn tham nhất, một là cố đạo, hai là nhà văn".

Vợ Tú phải che miệng cười, suỵt suỵt và quài tay phía sau lưng trỏ lên khu nhà trên của cố bà Đức Sinh:

- Gớm mồm với miệng, cứ toàn nói ác!

Mọi người lào xào định đưa ra mỗi người một món rất cầu kỳ, đắt tiền đang thèm, nhưng Huyền Linh lừa lừa ghé vào tai Hoài Giang:

- Này, cứ phải chiến thuật tầm gửi. Nhất kiến vi kiến, không nên yêu sách nhiều quá! (quay lại, Huyền Linh thích thích khuỷu tay vào người Thiết Phủ) Phải không? nhà duy vật uyên bác.

Vợ Tú hoan hỉ lau lau tay vào khăn bông xấp nước hoa vắt ở dây thép trên lan can:

- Chú Thiết ạ, giờ đã hơn bốn giờ, để tôi lấy rượu các ông và chú khai vị. Còn tôi thì xin cho được phép sửa soạn cái bữa cơm dưa muối được các vị hạ cố cho.

- Rất đa tạ... đa tạ...

- Ôkê... ôkê... Giôtô... giôtô... (tốt! tốt).

Mọi người đang lau ly, lau cốc, bày chai lớn chai bé ra bàn, hỏi nhau ai thích thứ gì, uống thứ gì trước, thì Huyền Linh reo lên:

- Trần Văn nó đến rồi kìa! Đã bảo Trần Văn thế nào cũng đến mà. Á à... lại có cả cây sáo của thôn Vân nữa! Bữa nay thế thì sẽ xôm trò đấy!

Trần Văn lẳng lặng đi trước, Sơn ngơ ngác theo sau.

Thiết Phủ lại nheo nheo mắt và gật gù trông Trần Văn. Trần Văn như không biết có Thiết Phủ, đến một ghế tựa đưa mắt cho Sơn ngồi xuống, còn mình đứng sau, vẫn giữ bộ mặt bình thản lặng lẽ...

- Chào các ông, chào chú!

Tuy lần này là lần thứ ba có mặt ở một bọn người rất lạ và Sơn đã chào hẳn lên thành tiếng một cách thân thuộc, nhưng Sơn vẫn không khỏi ngại ngùng, ngỡ ngàng. Sơn lại nhìn Huyền Linh cũng là ngành họ dưới cha Sơn, như muốn gặng hỏi rằng có thật bọn Huyền Linh không thấy vướng víu vì Sơn? Và Sơn có góp được chuyện gì đâu, vậy sao Huyền Linh cứ ép Sơn đến?! Ừ, cho dù Trần Văn đặc biệt chú ý đến Sơn, rất quý mến Sơn, thì Sơn vẫn là kẻ ngoại đạo của bọn họ. Biết đâu họ lại cho là Huyền Linh thích để cháu chơi trèo, còn Sơn thì tập tọng nghệ sĩ, muốn đánh đu với tinh!

Có bốn chai, một Canhkina Con mèo, một rượu dâu tây, một thanh mai và rượu quê. Tuy khay đồ uống đủ các ly, cốc nhưng không ai dùng ly hết. Tất cả đều uống bằng cốc và tự rót. Mới có lượt đầu, chai Con mèo đã vơi quá nửa. Duy Trần Văn vẫn chưa động tới, và khi Thiết Phủ lim dim mắt cười, cầm chai toan rót tiếp cho Trần Văn, thì Trần Văn vội đưa tay bịt lấy miệng cốc:

- Hà à à à... lấy cho nó cái thứ nước trong ấy. Nó chỉ thích cái độ nặng ấy thôi.

Huyền Linh vừa dứt lời, Hoài Giang huých Thiết Phủ một cái, và thong thả, trang trọng:

- Nó có thể sang Pháp, lập thêm một trường phái bên cạnh những trường phái mới nhất của Paris đấy! Không hiểu rồi đây các maitres (13)mét tôrơ cổ lỗ sĩ của Hà Nội xực nổi thế nào được panh tuya của lúy (nó)?

-----

[13] Thầy.

Huyền Linh xua xua:

- Hẵng xếp cái chuyện nghệ thuật ấy lại. Cho thằng Trần Văn nạp rượu đã. Rượu quê đây thật là tăm đứng, ông Thiết Phủ phó chủ tịch danh dự và trưởng ban tổ chức tối nay ạ ạ ạ!...

Sơn có thể uống một hơi hết cốc rượu ngọt nọ. Sơn vẫn thỉnh thoảng tự thưởng cho mình - trộm thôi! - một hai chén tống rượu của ông ký Thái, những lúc Sơn giải xong các bài toán hóc búa hay luyện xong một bản nhạc. Nhưng nay Sơn chỉ nhấp nhấp cho phải phép. Tuy vậy Sơn cũng hơi nóng mặt. Vì thế Sơn càng bẽn lẽn, cúi cúi mặt như để xem các kỳ nhân nọ chuyện trò. Sơn vui lòng chỉ đóng cái vai chầu rìa.

Càng về chiều khói bếp của cả khu nhà trên, nhà dưới ấp An Sinh cũng như bên trại Lê Thị Thảo Minh, càng bốc như khói lò khu xưởng rèn, xưởng đúc. Vẫn bảo ban người ở và tự tay làm từng món, vợ Tú luôn luôn đi lên, đi xuống. Lúc thì quát mắng các con, lúc thì góp một đôi câu với khách. Giọng nói và dáng điệu bận rộn, xởi lởi, thân tình, cứ như... trên sân khấu. Chợt có tiếng chó sủa rít. Vợ Tú trong bếp chạy ra. Một người đá con chó kêu đánh oẵng, xộc vào:

- Lại cỗ bàn gì thế, hở?!

Người vú em xớn xác. Vợ Tú cười một tiếng thật mát lạnh:

- Cỗ bàn để tiếp khách chứ còn cỗ bàn gì?

Tú xỉu hẳn, nhưng vẫn ra vẻ gắt:

- Khách nào, khách nào?

- Khách của tôi!

Vợ Tú hãm lại còn nhanh hơn máy, và cười khanh khách:

- Có chú Thiết và các ông bạn của chú ấy trên Hà Nội và ở Hải Phòng mới xuống.

Như chưa đủ giội thêm nước lạnh lên đầu chồng, vợ Tú sin sít vào tai chồng:

- Toàn người nhà con Giáng Hương và Thảo Minh đấy!

Đúng là mồ hôi trán Tú toát ra. Tú tỉnh nhân sự nhưng chưa hết sửng sốt:

- Chú Thiết xuống à? Chú xuống có việc gì?

- Việc gì thì việc. À từ trưa hôm qua đi những đâu, tối cũng lại không về, phờ phạc như thằng thua bạc thế kia. Càng giỏi lắm đấy!

Tú hềnh hệch cười:

- Phờ phạc là thế nào? Mà sao lại ví như thằng thua bạc?! Này... này có phải chú Thiết xuống để trả lời về kho giấy in báo của chú ấy phải không? Nếu thế thì tốt quá! Mùa viêm nhiệt sắp tới, vàng mã và giấy tiền đưa về các chợ nhà quê còn quý hơn giấy bạc mới... giấy bạc mới!!!

Đã đi sát vào người vợ, Tú vẫn cố nói thật to, thật thống thiết và thật nhỏ:

- Sao lại thế kia? Toàn rượu quý của tôi sao đem phá hết ra thế kia?

Vợ Tú lừ mắt:

- Phá rồi lại có, có phá mới có, mấy chai rượu hạng bét sắp chua như cứt mèo ấy giữ mãi làm gì ở tủ cho tổ gián, tổ kiến? Dì Thiết dì ấy nhắn xuống mới mua được ba hòm vang và cốt nhắc của hầm rượu thằng chánh tòa đấy!

- Ba hòm... những ba hòm?! - Tú há hốc mồm.

Vợ Tú bước vào nhà khách, tươi như hoa, giọng nói càng óng, càng ngọt:

- Chết! Chết! Chú Thiết và các ông khách quý của chúng tôi sao lại ngồi mò thế kia? Xin các ông cho phép chậm đúng mười lăm phút nữa thì hoàn toàn vào bàn được. Kìa, các ông có đốt trầm nữa không? Trên bà tôi có hàng tráp đấy! - Vợ Tú quay ra sân gọi - Cậu Khòa ơi! Cậu Khòa ơi! Cậu chạy ngay lên nhà trên nói với bà Chỉnh cho tôi mấy thanh trầm trong cái hộp sắp gởi lên nhà thờ ấy. Cậu cũng đem ngay cái đèn măng sông xuống đây. À, cậu nhớ đem cho cả lọ mù tạt để ăn với thịt gà rán. Thôi tối nay cậu cứ việc đi xem chèo cho sớm. Chỗ chân cậu vẫn đau, đôi giày vải tôi mua cho cậu, cậu đừng để dành nữa!...

... Trời đã tối. Nếu không quen thuộc mà nghe tiếng trống chèo và thấy đèn sáng như vậy, người ta sẽ phải đổ đến ấp An Sinh hay trại Lê Thị Thảo Minh, vì tưởng đây đóng đám. Những đôi chim bồ câu bị rỡ đàn làm thịt còn lại, thỉnh thoảng cứ vù từ nóc nhà sang các chòm cây ngoài vườn rồi lại bay về. Còn những con gà bị đập hụt không dám vào chuồng, cứ chúi chúi vào nhau rồi chạy tóe ra bờ rào vì quáng chói và thấy tiếng động khác lạ.

Đã tám giờ. Lại hai chai vang nữa mở thêm. Từ Thiết Phủ, Hoài Giang đến Huyền Linh và Tú đều uống vang. Riêng Thái Trang và Trần Văn vẫn uống cái nước trong của một làng nọ nổi tiếng về rượu và người bị tù rượu trong huyện. Ngay phút vào bàn, những nụ cười, những tiếng nói, những mẩu chuyện đã đưa duyên rất mực ý nhị, lịch sự giữa chủ và khách, nhưng Thiết Phủ vẫn thấy hầu hết bọn Hoài Giang ăn nhiều hơn uống, và uống nhiều hơn chuyện với nhau.

Như vậy không phải là Hoài Giang đang ê ẩm cả đầu óc vì những nhân vật của mình chưa được thật là "người", có những hành động và nội tâm thật là nhân ái như kiểu các nhân vật lớn của nhà tiểu thuyết lớn cổ điển hay hiện đại. Nghĩa là Hoài Giang vẫn cứ cho rằng tên tuổi mình sẽ đứng riêng hẳn một chiếu với cờ biển của tiểu thuyết Việt Nam, bắt thế giới phải chú ý, phải ngạc nhiên!

Còn Huyền Linh thì thấy điều này còn hơn cả văn chương: đó là những áp phe và những món hàng sẽ kiếm được không nhiều tiền lắm, chỉ vậy trong lúc người khôn của khó, chạy loạn tốn kém vất vả này. Vụ tranh giành hương hỏa, vụ lật lọng nhau trong việc giấy tờ buôn bán hớ hênh, vụ này, Huyền Linh đã nhận trước hai trăm, vụ kia chủ sự đã hứa xin biện ba trăm. Và mấy kiện sợi, thuốc bắc, vải, đường, thuốc tây, một ngôi nhà mất văn tự, một miếng đất chủ nhân không rõ rệt, v.v... những mối hàng kẻ mua thì rất say, kẻ bán thì rất quých... Thế là bao nhiêu ý định tuyệt vời trước kia, giờ đây càng xa lắc, gần như mất hẳn. Chao ôi! Chỉ một bài báo, một câu chuyện hoạt kê, một bài văn tế, một bài thư yết hậu... chỉ thế thôi cũng bốc dư luận lên rầm rầm. Nó có thể làm một vị thủ hiến bị triệt hồi; một kẻ quyền hành giàu sang và được gọi là đạo đức mô phạm sẽ bị coi như trọng tội; một kẻ đáng kết án trọng tội thì được trắng án, thanh danh gột rửa sáng hẳn lên. Đồng thời nó cũng có thể làm tác giả những bài đó bị đưa ra tòa xử kín, mà nếu không có những luật sư cừ khôi, can đảm cùng quần chúng đông đảo bào chữa ủng hộ thì sẽ... vào ngay đề lao ăn cơm với cá mắm thối, chết rũ tù! Không thế thì cũng sẽ khốn khổ hết đường làm ăn, vì bị ghi vào sổ đen, bị theo dõi bị trù. Nhưng tên tuổi người viết chính vì thế càng lừng lẫy, được mọi người nhắc đến như một anh hùng. Ơi những kỳ tích! Những kỳ tích ở những thời đại, những thế giới thật là văn minh, thật là lý tưởng...

Thái Trang và Trần Văn vẫn cứ uống, uống rất nhiều. Thiết Phủ không bỏ sót một cử chỉ nào của họ. Họ không những ít nói mà còn như không muốn chuyện trò gì cả, để càng được ngập mình vào những suy nghĩ, những tâm tư.

Thái Trang tuy đã viết khá lôm lam nhiều truyện và kịch thơ, như Hồn ai trong đêm tối, Giannin (Jeannine) ở xứ Bôhêmơ, Giấc mộng hoàng lương, Bốn người đóng kịch im lặng, Nhờ người ra đi biên cương năm ấy, Khúc tiêu văn sầu cổ, vân vân... nhưng vẫn cứ không thể thấy mình dễ dàng, buông lơi dù trong một bữa ăn như thế này.

- Chúng ông là giống thần minh chứ không phải là hề, là bồi rượu của chúng mày. Tùy từng chỗ, từng lúc chúng ông mới thật chơi hết mình chứ!

Đã thuộc Thái Trang và cả Trần Văn, nên Hoài Giang cũng không gợi chuyện và chúc rượu gì cả.

Mặc dầu Thiết Phủ hết sức tạo nên bộ mặt chan hòa và dáng điệu tự nhiên bình dị, Hoài Giang vẫn mủm mỉm ra cái vẻ hòa hợp lắm. Nhưng trong sự nhã nhặn trang trọng này, tinh thần và tình tứ ý nhị nhất của Hoài Giang đều tập trung dành cho bà chủ, mà nếu thật có giác quan thứ sáu hay thứ mấy gì đó, thì bà chủ thế nào cũng phải dùng thứ giác quan ấy để bắt điện và trả điện. Cũng quần cũng áo cũng cà vạt, cũng mùi soa cài túi áo ngực, và cũng nước hoa, cũng kiểu cách phong lưu, nhưng ở Hoài Giang thì thật bà chủ không thể không chú ý. Bà càng so sánh thì càng thấy chẳng những khác hẳn với các ông Thái Trang, Trần Văn, Huyền Linh họ quá ư là nghệ sĩ phóng đãng kia, mà còn khác cả nhiều người phong lưu vừa có tiếng tăm vừa giàu sang làm nhà văn nhà báo bây giờ. Chả hạn, như ông gì chuyên dịch sách Tây, soạn kịch bằng tiếng Tây đứng thầu đá cho nhà máy Xi măng, hay ông gì cũng viết báo nhưng là báo Tây, nhà chuyên cân gạo đỗ xuất bán sang Hồng Kông, giao du rất kén khách, hiện ở Nam Định. Hai ông này hình như là bạn đặc biệt của Thy San, nên cả những bữa cơm thường, Thy San cũng mời họ ăn, cùng nhau chuyện suốt buổi, có khi đến khuya.

Hoài Giang còn có thêm một điệu ngâm thơ mà làng văn đặt cho tên rất lạ: Vê đàn nguyệt hay Đi lâm khốc, nó cũng là tên về phong cách những truyện ngắn của Hoài Giang đăng từ bảy, tám năm nay. Bao giờ truyện cũng xếp ở những trang nổi nhất trên một tuần báo chuyên về tiểu thuyết, khiến nhiều cô nàng ở các tỉnh lẻ và phố huyện mê văn mê thơ, hay bán hàng ở chợ Đồng Xuân, làm khâu đầm cho các quan Tây, mỗi khi cầm đến tờ báo thường rú lên với nhau: "Truyện của Hoài Giang, bài của Hoài Giang lại cứ như thơ ấy, các cậu (hay) các mợ ơi! (hay) chúng mày ơi!"... rồi tranh nhau đọc. Và cả vợ Tú, nhiều khi cũng phải mượn lại của người quen để xem cho dễ ngủ hay giết thời giờ buổi tối.

Sơn cũng uống rượu quê với Thái Trang và Trần Văn. Sơn càng thấy lạ lạ, ngộ ngộ.

Cố nhiên lạ và ngộ không phải là gã Tú mông - Tú suýt quý tử cố bà Đức Sinh, mặt trông rất bợm bãi và người vợ hết sức màu mè mà một ai xa lạ nào kia chỉ gần họ lần đầu cũng phải nhận rằng kẻ làm chồng thì là vợ, kẻ là vợ thì làm chồng.

Lạ và ngộ lại chính là ông Thiết Phủ. Sơn thấy các điệu bộ, nhời ăn tiếng nói, nhất cử nhất động, ông ta đều tỏ rằng mình hiểu biết hết cả mọi việc, mọi điều trên các lĩnh vực từ triết học, văn học, nghệ thuật đến chính trị, xã hội và cả kinh tế, quân sự nữa, và không có một ai trên đời này đáng để ông ta phục! Ông là con một nhà giáo. Ông đang học năm thứ hai ở trường Bách nghệ thì bị đuổi về tội ban đêm trèo tường bỏ trường đi nghe diễn thuyết về chủ nghĩa hữu thần và vô thần. Ông cho đấy là một thái độ và hành động "bạo lực" của một trí thức đặc biệt. Những ngày thất nghiệp, ông đã viết cho mấy tờ báo để kiếm sống và học thêm. Với cái tên Búa thép ông đã được cả làng văn cũng như làng báo truyền tụng và cười thầm về cái tài hùng biện các món lý luận mà ông đã sôi, đã nấu, đã ninh, đã luyện. Ấy là chưa kể cái danh nghĩa vô sản thuần khiết, triệt để cách mạng, chân chính trí thức mà ông tự nhận và bắt mọi người phải nghĩ như thế, tin như thế về ông.

Thái Trang và Trần Văn cũng làm Sơn phải chú ý.

Càng uống, Thái Trang càng lừ đừ, mặt càng tái. Thái Trang người đã bé nhỏ, khổ mặt lại choắt, nên trông càng gầy yếu, còi cọc trong bộ quần áo may mặc kiểu phóng khoáng. Như Thái Trang, Trần Văn mặc bộ đồ cũng bằng hàng tờrôpican rẻ tiền nhất đã bạc màu, mấy chỗ phải mạng, nhưng cà vạt lại rất sang, tóc không uốn không sấy vẫn cứ bồng lên. Nếu không có vẻ lạnh lùng, ra chiều mệt mỏi, tư lự, cũng như không uống cái kiểu cứ từng cốc, từng cốc một cách hào hùng không cần biết gì cả, thì Trần Văn đúng là trẻ nhất và lành mạnh khác hẳn Hoài Giang, Huyền Linh, Thiết Phủ.

Chao ôi! Thái Trang và Trần Văn thân nhau, thương nhau, và trọng nhau nên cùng nhau uống toàn rượu trắng như để chuốc nhau vậy! Hai người bạn ấy có những tâm sự gì, làm sao Sơn được biết rõ nhỉ?! Tại sao họ lại cảm thông, dung nhau, quy tụ với nhau? Và đời họ cứ kéo mãi như thế này thì sống thế nào được?!

Sơn hơi chột bụng, cảm thấy sẽ có cái gì khang khác. Trần Văn lại nhấc chai rượu nhưng không rót cho Thái Trang mà quay sang phía Sơn, cầm lấy cốc của Sơn. Mọi người xì xào. Trần Văn cười, giọng nói giòn giòn:

- Bây giờ tôi xin được tiếp chú Nai vàng của chúng ta một cốc. Nếu tôi không lầm, thì chú Nai vàng này cũng uống được đây...

Huyền Linh vội quài tay đỡ lấy chai:

- Đừng! đừng!... Ở nhà, tuy nó cũng uống, nhưng là rượu thuốc của ông via (14). Mà nó đã vừa phải tiếp hai ông một cốc rồi!

-----

[14] Via: vieux, già.

Trần Văn lắc đầu:

- Có phải rượu thuốc là rượu ngọt không? Rượu ngọt dễ đánh lừa, vậy mà không say thì cũng là tay có bản lĩnh đấy! Nên nhớ rằng rượu để ngâm thuốc thường phải là nước đầu, còn nặng hơn thứ chúng ta đang uống.

Chai rượu gỡ ra khỏi tay Huyền Linh, rót rất gọn vào cốc của Thái Trang và Trần Văn. Thiết Phủ liền đứng dậy, lại nghiến nghiến cái giọng:

- Như vậy mọi người phải nâng cốc uống cạn với Nai vàng, rồi Nai vàng phải dạo một khúc để anh em được thỏa lòng mong đợi nghe Gió xuân và Tiếng thu qua ống sáo của Nai vàng.

"Ừ muốn xem muốn nghe khắc được xem được nghe như lời mỗ gia đã giới thiệu. Sơn ơi! Sơn ơi! Mày hãy vì chúng tao, không! không!... Mày hãy vì Nghệ thuật, mà giội vào đầu óc cái thằng Thiết Phủ này một ít, hãy chỉ một ít thôi, hồn của Trương Chi của Tiêu Lang...".

Như không nghe và cũng không muốn thấy người ta phải nằn nì thúc giục mình, Sơn rút sáo ở túi áo trong ra. Sơn càng ngượng, càng bẽn lẽn. Sơn không ra hẳn ngoài cửa. Thái Trang và Trần Văn bưng cả ghế qua đầu Thiết Phủ, rồi ngồi xa hơn, để nhìn Sơn và ngoài trời.

Tiếng sáo cất lên. Bay bổng, lồng lộng, trong suốt, dịu ngọt, óng ánh, êm ru, mê say, thơm ngát. Không gì so sánh.

... Khi tiếng sáo bắt đầu rung ngân thì cả gian nhà trong kia, cả khu nhà chung quanh như rung theo trong một vang động kỳ diệu. Tới khi tiếng sáo vút lên cũng là một chớp dây mà tất cả gian nhà và khu nhà như có cái gì bị xé ra. Xé ra vì không thể chứa đựng, không thể níu giữ, và âm thanh bay đã tới đỉnh cao tỏa thì sáng láng tuyệt vời.

Càng về khuya trời xuân càng sâu càng thẳm. Mặc dầu đã có sương và mây kéo từng đám dày, vẫn có những khoảng sao bỗng lấp lánh với những vì sao nhoi nhói giống những hạt kim cương xoay động chìm nổi trên một làn nhung. Những tiếng ù ù của đồng lúa, sông bãi và biển khơi thêm xa thẳm, mịt mùng. Trống chèo vẫn điểm ở làng bên. Đôi lúc chỉ còn như là những giọt nước buông xuống một lòng chậu đồng thau hay từ một vòm đá âm lên...

- Tối nay, bên chú Tú, thím Tú cũng lại cỗ bàn khách khứa nên thắp đèn măng sông to thế kia!

Ở khu nhà trên, Huệ Chi cứ phải trằn trằn người, trở mặt vào phía trong để cố ngủ. Nhưng Huệ Chi chợt thấy tê tê ran ran ở hai thái dương và cả ngực, rồi trong người nhói lên, run run, lạnh lạnh. Huệ Chi lại nhận ra đúng những tiếng sáo mọi khi vẫn bay bổng dìu dặt ở phía làng bên kia. Lúc thì từ trên đê, lúc từ gốc đa bến sông, lúc ngoài đầm sen, làm Huệ Chi hết sức cầm lòng cầm chí để nguyện ngắm Chúa nhưng vẫn cứ phải nghe, phải hỏi sáo thổi khúc gì, bài gì và người thổi đó là ai.

- Chỉ ở nhà quê mới thấy tiếng sáo, và tiếng sáo nghe ở nhà quê sao mà yên tĩnh vậy?!

Huệ Chi liền nghĩ đến những ti?