← Quay lại trang sách

Cái Bào Thai

Bắc - Bẩu, ngày 1er - 1 - 40

Minh,

Ngày hôm nay giỗ Thanh đây. Nếu Thanh có vợ con thì đến giỗ nay là đoạn tang một người chồng và cha. Tôi đã mong trời hoặc rực rỡ lên hay mưa gió âm u đi để cảm xúc mãnh liệt trong một thời khắc, rồi hoặc mệt ngủ thiếp đi hoặc thấy lòng tơi bời không còn rung động nữa. Nhưng không, mây xanh lờ đờ cứ vơ vất trên cao hoài. Thứ ánh sáng bạc lạnh độc nhất soi chiếu cảnh vật. Các đồi núi ngùi ngùi trong một cái yên lạnh nghẹn ngào, thỉnh thoảng trào lên những đợt lau trắng đục quằn quại. Nước sông càng nhìn sâu càng biếc đi. Mấy dải đường quanh co thêm xa vút, những lúc vài con ngựa thồ hàng ở tỉnh về qua đó, bước những bước thong thả bên cái gánh nhún nhẩy trên vai người dắt, tưởng như lâu, nhưng thoáng chốc đã mất tăm. Từ sáng đến trưa, từ trưa đến giờ, cái màu xanh ngút lạnh của rừng xa càng dầy hơn và rộng lớn trên đầu tôi, chung quanh tôi.

Thiên hạ có không biết bao nhiêu câu về cái chết. Nhưng với Thanh, ai mà nói chết thì hết thì tôi không thể sao nhận được và nếu phải nói với một người cần nói thì dù tôi đương ngắc ngoải cũng phải vọt tiếng ra. Kìa! Quang lại mỉm cười như chế giễu tôi rồi. Mặc! Đấy là sự chua xót bất diệt và sự tin tưởng không nguôi nó trào lời ra chứ có phải tôi đâu.

Minh ơi! giờ phút này cái bìa sách của Thanh lại hiện ra trước mắt tôi với từng ánh mực, từng nét chữ, từng đường kẻ, từng vệt gợn trên cái nền giấy sốp vàng ngà. Minh lại đây với tôi mau! Cầm lấy nó đi, bằng bàn tay xương thịt của chúng ta, để dù nó chỉ là vật trừu tượng nhưng vẫn được thở hít thêm một chút ít sinh khí của người. Và chúng tacùng nhìn nó đi. Hỡi Thanh! Hỡi Thanh không còn có ở cõi đời này của Minh và Xuân! Tác phẩm trước nhất và sau cùng của Thanh đương run rẩy trong sự tê mê của chúng tôi đây.

Một tác phẩm! Một tác phẩm không có lấy một nửa trang giấy, một chữ in, một chút dấu vết nhỏ gì của sự sáng tác, mà tất cả những suy nghĩ và xếp đặt khổ công trong bao năm chỉ vẻn vẹn lại trên mảnh bìa với hai chữ viết đậm đà và rắn chắc: "Nắng mới".

Hôm ấy không có Minh, Thanh vỗ vai tôi:

- Xuân trông kìa khung cảnh của Nắng mới.

Tôi cười:

- Người làm sao chiêm bao làmvậy, khung cảnh của ông nó cũng ốm yếu khẳng khiu như ông.

Minh còn lạ gì con đường về làng Vẻn và An Dương với cái Cột Đèn không lều không quán kia. Từ ngày nhà Thanh dọn đến khu đó, ta mới thấy Thanh ra khỏi nhà những buổi chiều. Thanh bước những bước đều đặn ý tứ trên vỉa đường từ ga An Dương lên phố Tám Gian, hay ở dìa những lối ngoằn ngoèo vào trong xóm. Anh chàng này trong bộ quần áo ta chùng chặn và đôi giầy Chí Long trông trịnh trọng quá, như một thầy giáo xưa đến nhà học trò ăn giỗ vậy.

Khu Trại Cau, không biết giờ có thêm những gì ở đó hở Minh? Hai rặng thông cằn cọc và lẻ tẻ kia có trồng thêm được thứ cây nào khác không? Những khu đất để đấy cho cỏ rối mọc um và người ta đổ trộm rác bẩn, những khoảng vườn rau và hoa lưa thưa lụn dần, và những ao hồ đầy sen dại, đã xây nhà và trồng trọt nhiều chưa? Hay dẫy vài chục nóc nhà mỗi cái một kiểu, thò ra thụt vào ấy, có được người ta sửa chữa cho thẳng thắn không? Có bớt đi nhiều những trận đâm chém của các du côn anh chị, và những cuộc bóc lột tàn nhẫn ở đầu ngã tư An Dương? Và trong cái chợ giữa trời luôn luôn bị xua đuổi, hỗn loạn và tối tăm, bà hàng cơm béo lùn của mình vẫn cho vay tiền góp và làm chúa tể đấy chứ?

Những buổi chiều, lúc phu phen thợ thuyền và các kẻ buôn thúng bán bưng ở các ngả dồn về khu đó, Thanh thường trốn chúng ta, đi thơ thẩn một mình. Thường thường nắng khi đó đã tàn. Kìa, những quả đồi Kiến An tím thẫm lại, đài thiên văn mờ khuất và thê lương như một lâu đài phong kiến hoang phế. Một thứ phấn hồng đục tỏa xuống những dải đường nhộn nhịp. Cùng lúc này, ông thân Thanh lên đèn. Co ro trong chiếc áo bông chùng lượt thượt, ông cố thu hết vào lòng cái ấm của vải dạ và của ngọn đèn dầu lạc búp măng, giữa một khay đèn tắt mắt, chải chuốt.

Ôngtiêm thuốc lấy. Bàn tay gầy guộc nổi rõ gân xanh và đốt xương trước cái ánh sáng vàng nhờn làm da mặt ông xám thêm lại và cặp mắt lờ đờ mệt mỏi hơn. Khói thơm ấm và bùi bừng lên. Những nhịp thở không đều phập phồng giữa lồng ngực gò hóp lại. Không một lời, không một cử chỉ mạnh và gấp, ông chỉ biết có những điếu thuốc sống còn của khí huyết ông, ngoài ra cái gì không cũng được, hết cũng được.

Ông, ông say sưa miên man với những hương vị ma túy của thuốc phiện; Thanh, Thanh đắm đuối đưa những bước chân không thấy mỏi của trí tưởng một phút một đi xa và sâu hơn lên trong cái thế giới tinh thần không ngừng thay đổi và mới lạ. "Nắng mới" lại nổi lên từng trang một, đi xa và sâu hơn lên trong cái thế giới tinh thần không ngừng thay đổi và mới lạ. "Nắng mới" lại nổi lên từng trang một, từng chữ một giữa những hình ảnh nghẹn ngào cả người Thanh, hình ảnh những cảnh đời đã thấm nhuần bao nămtrong cõi bất thức, nung nấu ngùn ngụt đầu óc Thanh đến gần vỡ lở.

Hai sự tất yếu và hai lẽ sống của hai con người! Nó càng ngày tách rõ ràng khỏi một giới hạn mà lòng thương, tình yêu hay những niềm đau xót, những sự hy sinh không sao thể kéo hai tâm hồn máu mủ gần lại với nhau. Nhưng có lẽ chỉ chúng ta là nhìn thấy thế, chứ còn mọi người ai lại không tin thật và ao ước cái gia đình yên lặng không phải một chút gì chân lấm tay bùn này.

Phải không Minh, ai có thể ngờ tới cái cảnh Thanh hốt hoảng, mặt tái đi, khi chúng ta gõ cửa và lên tiếng giữa phút trong nhà có một giọng đàn ông hổn hển rít khẽ bên những tiếng nức nở của một người đàn bà?! Sau đó chỉ một thoáng, sự yên lặng trở lại như trước. Cha Thanh vẫn lại nằm im lìm trong ánh đèn dầu lạc: mẹ Thanh dịu dàng chỉ bảo các công việc ở dưới bếp. Và Thanh, trên gương mặt trắng xanh và cặp mắt hãy còn gợn những vằn máu đỏ, Thanh cười những nụ cười dù sao vẫn nhợt nhạt làm chúng ta, - không, tôi cho đúng hơn - phải kêu thầm những tiếng xé lòng trước sự giấu giếm hoảng hốt này. Mà Thanh thân mến với chúng ta hơn hết ai đây, giãi tỏ với chúng ta gần hết những sự tha thiết nồng nàn nhất của Thanh.

Năm 1932, Thanh thôi họ Minh nhỉ? Tôi cũng đã phẫn uất nghẹn cả người thấy Thanh tảng lờ và mỉm cười gật đầu trước mấy bạn quen hỏi duyên cớ này. Thấy tôi khổ sở cũng vì những cử chỉ giả dối che đậy của kẻ thân mến, Minh đã mắng tôI là điên rồ. Nhưng chỉ sau đó ít giờ tôi nói rõ tôi đã thích thêm những gươm sắc nhọn vào lòng bạn. Ở một gia đình giàng buộc bởi bao nhiêu thành kiến và lề thói, Thanh bảo có thể đi một cách ngay thẳng và hợp lý giữa cái phút mà lòng rỉ máu trước cả một sự thất bại tan nát ấy! Thôi học vì không có tiền theo đuổi lâu hơn nữa, vì phải kiếm cách sinh sống bởi đã lớn tuổi rồi... chúng ta thấy thế là tất nhiên nhưng Thanh có phải là chúng ta đâu? Thanh đi học và cướp từ bằng nọ đến bằng kia nào phải cho riêng Thanh, mà một phần quan trọng như sự sống là cho thày má Thanh và họ hàng Thanh, họ không lúc nào quên rằng Thanh phải hiển vinh thì họ mơi sung sướng, nếu không trước những sự hiển vinh của con cháu các gia đình chung quanh, họ sẽ xấu hổ, tủi cực đến chẳng còn dám trông ai, nói với ai, làm ăn gì... Đến chết mất!

"Nắng Mới!", nào chúng ta có được Thanh cho nghe nhiều về chuyện cuốn sách ấy đâu? Chỉ biết rằng Thanh bỏ Hà Nội về Hải Phòng chưa được hai năm cứ mỗi lần chúng ta hỏi đến Thanh cái tác phẩm dày dặn ngoài những truyện ngắn kia, thì Thanh lại thở dài và nhẹ, rồi mím môi lại gần gật đầu: "Mình sẽ viết "Nắng Mới" Minh và Xuân ạ. Thanh phải viết nhưng không hiểu sao Thanh chưa dám cầm bút và không biết phải chờ một cái gì hay một ngày nào đến thêm nữa thì mới có thể bắt đầu?!. Nhất định viết "Nắng Mới" Thanh chỉ có thể sung sướng và hăm hở viết những cuốn khác một khi "Nắng mới" viết xong và sửa chữa đến độ Thanh thấy bàng hoàng không còn dám thấy thêm một dấu, chua thêm một chữ.

Hỡi Minh, "Nắng Mới" là cả cuộc đời thực của Thanh với những cảnh sống và những tâm trạng mà Thanh ủ ấp nghiền ngẫm tháng ngày, hay là của một kỷ niệm sâu xa và thấm thía, một con người, một bóng dáng? Hay là mang một sự khát khao, một sự chờ mong, một sự siêu thoát? Hay là của một bầu tin tưởng âm ỷ cháy, một lẽ sống để phụng sự, một trời mới với ngày mai?

Hỡi Thanh thân mến của Minh và Xuân không còn có mặt trên cõi đời này! Đây"Nắng mới" của Thanh đương nóng lên trong bàn tay tưởng tượng của Xuân, bởi nó đã đằm những hơi thở không đều của Xuân, những hơi thở sao không thể truyền sẻ cho Thanh để Thanh sống, hỡi Khoa học đương phát triển mạnh mẽ kia?

Hơn năm nay tôi không được gặp cha Thanh để bùi ngùi một niềm thương xót mênh mông trước tấm hình hài mảnh dẻ và lả lướt như lá phong lan của người giống Thanh như lột kia. Chưa biết đến bao giờ tôi mới trở về Hải Phòng, nhìn một nữa cái bàn gỗ lim đen bóng đã mài rách bao nhiêu khủyu áo của cha Thanh khi còn đi làm cho các hãng buôn và của Thanh từ khi học a, b, c tới lúc biết miệt mài với sách vở, biết đau đớn và sung sướng với sách vở, và biết tha thiết với sách vở cho tận phút cuối cùng của một đời.

Cả bà mẹ Thanh và các em Thanh nữa! Bà mẹ Thanh, tôi quên sao được người đàn bà dù đứng tuổi mà vẫn còn phảng phất vẻ bay bướm ý nhị và nền nếp của một hạng danh ca hiện giờ không thể sao tìm thấy? Mẹ Thanh thường được chúng tôi nhắc đến luôn trong những bữa ăn bừa bãi tốn tiền ăn dù nổi tiếng nhất. Có gì đâu Thanh nhỉ? Chỉ với vài con cá lăng, cá ngạnh, cá sộp cùng ít hành, mùi, sương sông, xu hào, hay vài lạng thịt nạc, răm quả trứng và mộc nhĩ, hay cá rô, rau cải, mà bà đã cho chúng ta hưởng bao nhiêu hương vị thân mật và sâu xa vô cùng của Việt Nam thuần hậu trong những miếng chả và húp canh. Cả sự sống của gia đình Thanh, nào phải tháng tháng bạc trăm mới khiến nổi ai ai cũng phải khát khao và coi đó như gương mẫu?

Tôi vẫn còn nhớ không thiếu sót những lời run rẩy của bà:

- Các anh! các anh chơi với em nên cùng em đi đường ngay thẳng. Tôi không mong gì hơn là thấy anh em lui tới nhà nhau luôn, vui vẻ với nhau, và ai nấy bao giờ cũng như bao giờ, giữ được tư cách và thể diện cho ông cha.

Và một lần nữa:

- Không! không! tôi không sao đành lòng thấy em lúc nào cũng băn khoăn lo lắng, gầy rạc người đi như thế. Đọc sách hay viết lách gì nên qua loa cho giải trí chứ tội gì mà miệt mài cả ngày. Sống sao được cái nghề làm văn làm báo, vẫn biết là quý giá đấy? Các anh nên đoái tình tôi mà liệu nhời khuyên bảo em. Đến như trước kia cho em đi học cao nữa và cả đi làm xa, tôi còn không dám nữa là giờ, các em em nó đã lớn, em nó phải trông coi chỉ bảo cho những đứa dưới, mà cứ đắm đuối mãi với sách vở kia?

Tôi không dám và không biết nói câu nào để trả lời. Tôi chỉ đưa mắt nhìn mấy đứa em mảnh khảnh, trắng trẻo của Thanh đương cười nô trước cặp mắt lờ đờ của cha Thanh, rồi tôi mỉm cười, yên lặng cúi đầu.

Thái, em Thanh dạo hè năm ngoái có viết cho tôi một lá thư mà tôi quên không cho Minh biết. Thái khẩn khoản nếu tôi có dịp xuống Hải Phòng thế nào cũng phải đến nhà. Tôi đãkhông sao đoán được sự yêu cầu gay gắt như thế có việc gì. Ngoài sự thăm nom và chuyện trò an ủi thày mẹ Thanh và Thái cái đó tất nhiên, nhưng đây Thái lại gạch đít câu này và nhắc thêm lần nữa ở dưới cùng thư:

-"Em có điều này chỉ có thể đem hỏi anh và chỉ anh có thể giải quyết cho em thôi".

Đến tháng sáu tôi xuống Phòng nhưng vì bận rộn nên mấy lần đi xe qua nhà Thanh tôi không chịu vào. Sự lần khân đó còn do lẽ nữa Minh đã biết rõ miễn phải nói ra. Và cho đến cả lúc này, chỉ nghĩ đến cái không khí lạnh lờ mờ sáng, và cái nhịp đều đặn, chậm chạp của chiếc đồng hồ treo cũ kỹ của gian nhà mà ông thân sinh Thanh nằm hút thuốc phiện, cũng đủ thấy giợn cả người vì chán nản rồi.

Nhưng, không dám thấy mình tàn nhẫn lường gạt cả lời khẩn khoản tha thiết của đứa em nhỏ Thanh, tôi đánh bạo gõ cửa nhà Thanh một buổi trưa. Thái kêu rú lên khi hé cánh cửa kính trước nụ cười của tôi chào Thái. Thái run lập cập, vặn mãi không nổi vòng chìa khóa. Tôi đã bàng hoàng và thấy nổi lên trong lòng một sự thương xót mênh mông bởi bàn tay Thái cuống quýt dướn lên níu manh vai tôi. Thái vừa thở vừa nói:

- Cả thày và má em đều đi vắng! Em mong anh xuống quá! Thư em gửi chắc anh không nhận được!

Tôi kéo Thái cùng ngồi xuống trường kỷ, gạt mồ hôi trán đẫm lấy tóc Thái. Thái cố ép tôi uống một cốc nước chè hột âm ấm và lục tìm mấy quả chuối tây chín mập, thân bóc ra chia ăn với tôi. Minh ạ, sau bao nhiêu câu hỏi đi hỏi lại về sự sống của Minh và tôi, Thái bỗng yên lặng, buông tay tôi ra, cúi thấp đầu. Tim tôi bỗng đập mạnh trước cử chỉ khác thường này. Chợt Thái ngước mặt lên, môi mím lại, mắt long lanh như nẩy lửa:

- Anh Xuân ạ, em có hai bài, gửi cho một tờ báo học sinh không hiểu sao nó không đăng mà những bài khác thật tình em thấy không hơn của em mà lại được đăng? Em đã xé đi và đây em viết bài khác và đưa bài mới này cho anh xem.

Tôi chưa kịp lên tiếng, Thái đã nhẩy vọt xuống đất, rút đánh sầm ngăn kéo. Đó là một truyện ngắn, Thái viết dưới đầu đề như thế. Thật ra chỉ là một bài luận với những cảm tưởng ngây ngô của đứa trẻ trước con chim vành khuyên non bắt được một hôm mưa bão, nưng niu nó hết lòng nhưng nó cũng chết. Thế là đủ về chuyện viết văn đăng báo của Thái. Đứa bé mười hai tuổi đã khóc sướt mướt khi đưa tập di cảo của anh nó cho hai người bạn thân với anh nó này, ngờ đâu lại khóc nức nở lần chính nó đưa bản thảo của nó. Và rồi đây chúng ta không biết chúngta sẽ được thấy nó viết những gì?

- Anh Xuân! anh xem bài này có thể đăng được không? Nó khác hẳn hai bài trước anh ạ. Em viết đi viết lại vừa đúng năm lần đấy. Nếu anh không tin em lấy cho anh xem thêm bốn bản giáp của em.

Tôi phải níu giữ Thái. Thái nhìn tôi chờ đợi, lông mày nhíu lại, những đường gân xanh ở thái dương giần giật.

- Thế nào! anh cho em biết ý kiến đi. Anh cứ nói thẳng, em không sợ sự chỉ trích đâu!

Tôi vỗ nhẹ nhẹ vai Thái, tươi cười nói:

- Với trang học sinh tờ Ngày Mai thì bài này đáng lắm, nhưng anh muốn Thái viết nhiều bài nữa rồi hãy đưa đăng.

- Sao thế? Hay bài của em kém nên anh mới khuyên em như thế? Anh cứ nói thực, nói thực đi!

Đến đây nước mắt Thái ứa ra, dòng dòng lấp lánh. Tôi vừa vuốt tóc Thái vừa cố nén sự đau đớn để có thể cất tiếng:

- Không! anh không dám lừa dối Thái đâu! Anh muốn Thái chậm đăng để được đọc những bài về sau thật đặc sắc của Thái. Sự thận trọng rất cần Thái ạ. Lắm bạn nhỏ và những người lớn nữa, chỉ vì ham tên tuổi có mặt trên sách báo mà viết vội vàng, làm chết cả cái tài của mình đáng lẽ nẩy nở, nếu chịu khó và thành thực viết.

Thái và tôi cùng yên lặng sau cái câu này. Bàn tay bé xíu của Thái nắm diết trong tay tôi đã nóng lên:

- Này Thái! Anh tin chắc chắn và quả quyết nói với Thái rằng thế nào những bài của Thái tới đây sẽ được "Ngày Mai" hoan nghênh, và càng đi sâu vào sự viết một cách cố gắng tha thiết như thế, Thái càng được sung sướng và thấy ham thích nồng nàn gấp bội. Vậy Thái phải chịu khó và chịu khó hơn nữa đi. Nghe anh viết thêm nữa, càng cẩn thận hơn nữa.

Thái không đáp, cúi đầu chùi nước mắt. Hồi lâu sau, Thái chợt vùng nhìn lên tôi, long lanh:

- Mấy nhà văn như Lan - Trung, Thanh - Lễ, Trần - Tư... viết chắc chắn dễ dàng lắm nhỉ? Như ông Thanh - Lễ ở gần nhà em dạo nọ, ông ấy có cần viết đến lượt thứ hai đâu?.

Em cứ thấy ông ấy đi chơi đến thật khuya về mới viết. Em còn nghe người ta nói còn nhiều ông khác bất kỳ lúc nào cũng có thể viết được. Lắm ông đi hút rất nhiều thuốc phiện và uống hết tuần rượu này đến tuần rượu khác với các gái giang hồ, mà vẫn còn dư sức viết, và các áng văn vẫn lừng tiếng như thường. Em không dám ví em như các ông ấy đâu, nhưng đây em, em... anh Xuân ơi!!

Chua xót và phẫn uất không Minh. Sự trụy lạc đưa năng lực đến cái chết được người ta tô điểm và ca tụng, khiến một đứa bé phải nghẹn ngào bật ra những lời trên kia! Một mặt để thỏa mãn những sự giải trí xa xỉ, tối tăm, một mặt lấy những khoái lạc ích kỷ cho cái tôi ủy mị làm lẽ sống vui sướng ở đời, làm những nguồn cảm phong phú, và, một khi sa vào sự chán nản mênh mông trống rỗng thì tìm trong đó cái quên, cái an ủi. Trong văn chương, chưa đủ, các ngòi bút trụy lạc ấy còn rắp tâm kéo người ta bằng nghệ thuật vào hẳn cuộc đời, dìm mình trong cái chết.

Lúc đó cả Minh chắc cũng không dám nói nhiều với Thái về những sự sai lầm, hơn nữa, những tội Thái ác này. Đâu phải chúng ta giấu giếm một sự thực thối nát? Chúng ta hãy để Thái lớn chút nữa, để cái tâm hồn trong trắng kia có thể chịu đựng được sự tan vỡ dữ dội của các hình ảnh thành kính nưng niu. Chỉ ít lâu nữa, từ sự dần dà phớt nhẹ, Thái sẽ phải tới sự hằn học muốn giày xéo lên những ung độc của tinh thần ấy, nạo nó đi khỏi những màng óc dễ vui tin, khát khao trông đợi và tìm cách đưa những tươi sáng rực rỡ có ý nghĩa soi chiếu tâm hồn, nâng cao và mở rộng nó ra.

Hỡi Thanh yêu dấu không còn có mặt trên cõi đời này với Minh và Xuân! Kìa bao nguồn sinh lực màu mỡ chưa được khai thác ra cho tràn tưới vào lòng nhân loại, và bao nguồn đã không thể lại còn vùi dập tắt đi!

Hỡi Thanh yêu dấu! "Nắng mới" của Thanh đương phấp phới muôn vàn màu sắc và hương vị trong tâm tưởng Xuân đây. Dù nó chỉ là một mảnh bìa bây giờ đã hoan màu và mực nhợt đi rồi, nhưng Xuân vẫn thấy đó là không đếm xiết những trang giấy rộng lớn, chan chứa những hơi thở nồng nàn của người và vật. Lòng tha thiết sôi nổi của Thanh đương lả gần hết cả lòng của Xuân và chắc chắn phải là một phần rất gần gụi, với bao người đương cặm cụi sáng tác. Không có những câu nói nào mạnh mẽ gọi dậy tất cả lòng tin của người ta bằng sự cần cù làm việc, yên lặng trình bày những tác phẩm của mình, để truyền thêm vào những ống máu tiến hóa khác một ít sinh khí tốt tươi, dù chỉ một ít thôi nhưng phải là kết tinh của mình.

Nhưng đâu "Nắng Mới, hỡi Thanh yêu dấu?! Đâu có thể tìm thấy "Nắng Mới" bằng xương thịt của Thanh. Hỡi Nhân gian tôi tìm đâu cho thấy "Nắng Mới" và Thanh?

(Ng-Xuân)