← Quay lại trang sách

- IV - -

MỘT ông giáo chấm thi, mặc quần áo tây trắng cao giọng gọi học trò vào thi. Thằng Đức hồi hộp đợi. Tên nó vần Đ nên phải chờ mấy chục người lên trước. Đến lượt nó khi ba chữ Vũ đình Đức vừa dứt,

nó kêu ‘‘présent’’ ( có mặt) rất dõng dạc rồi bước theo người trước. Ở trường thầy giáo đã dặn tất cả học trò: phải thật bình tĩnh mà vào, bình tĩnh mà làm tính cũng như bình tĩnh nghe đọc ám tả, chứ không nhiều khi trượt oan.

Ở lớp ba trường kiêm bị Phủ lạng thương, Đức vào tay học khá. Có kỳ nó được lên bảng Danh Dự trong lớp. Ba kỳ thi tam cá nguyệt, hai kỳ đầu nó thứ mười, thứ tám và đến kỳ thứ ba nhảy vọt lên thứ tư. Cũng là nhờ nó giỏi toán, có lần ông Kiểm học vào khám lớp, ra con tính, cả lớp im phăng phắc không ai làm được, Đức ta ung dung lên làm rất rõ ràng. Ông Kiểm học khen mãi, lại xoa đầu thằng bé.

Vào buồng thi, thằng Đức nhớ lại cảnh ấy mà khấp khởi trong lòng. Thể nào nó chẳng đỗ, mà đỗ oai nửa cho mà coi. Hôm trước ở nhà nó đã bảo thầy u nó:

- Thể nào con cũng đỗ cả chữ Tây và Quốc ngữ.

Thi sơ học yếu lược ngày ấy còn chia ra làm hai phần chữ Tây và Quốc ngữ. Thằng Đức tuyên bố như vậy nhưng cũng hơi lo lo. Về chữ Tây, ở trong lớp nó chỉ trung bình không được xuất sắc lắm. Nhưng nó vẫn tin chắc. Có một vài bài ám tả chữ Pháp ngắn, làm gì không viết được!

Bên cạnh Đức là một đứa học trò nhà quê. Nó nhìn trộm học bạ thằng bé thấy phê rất tốt, vẫn có ý khinh khỉnh. Nó tự nhủ:

- Rất tốt trường nhà quê ‘‘ ý ’’ mà. Đằng này mình rất tốt trường tỉnh.

Thế rồi buổi sáng, buổi chiều hôm trước và cả buổi sáng, buổi chiều hôm sau, thằng Đức chăm chăm, chú chú làm bài. Mỗi lần ở trường thi về nó lại khấp khởi mừng thầm. Nghe người ta bàn tán về kỳ thi, nó chỉ mủm mỉm cười:

- Năm nay chắc đỗ ít lắm, hai bài tính cùng khó cả, học trò lớp ba làm sao nổi.

- Hai con tính khó thực. Mình xoay mãi mới ra đấy.

Hai người nói truyện ấy là hai người học trò lớp nhất, thằng Đức quen mặt. Trưa về nó kể lại cho thầy u nó nghe và không quên thêm một câu, giọng tự phụ:

- Ấy thế mà con làm đúng cả.

Hai người làm cha mẹ nghe con nói như vậy nhìn nhau mỉm cười. Họ tin lời thằng bé cũng như họ tin ở sức thằng bé. Ông giáo Khai dậy lớp ba đã chẳng nhiều lần khen ngợi thằng bé ư, bằng giấy gửi về nhà đã đành, lại còn bằng lời trong nhiều khi hội đàm. Mà có phải ông bà ký Thảo năng đi lại, lễ lạc ông giáo đâu. Họ nghèo, sống còn chẳng đủ nữa là!

Chỉ có một kỳ tết Nguyên Đán, ông ký mới bắt con mang tết thầy hai lọ chè sứ. Mỗi lọ bốn hào, hai lọ tám hào. Giá liền chẳng là mấy, của chẳng đáng bao nhiêu, nhưng lòng ông thành, như vậy là được rồi. Cái ngày ông còn làm hương sư, mỗi kỳ tết, học trò có đứa đem lại ba hào đặt vào lòng cái đĩa mà ông còn nhận; buồn cười, có thằng đến nhà thầy lóng ngóng đánh rơi tiền vào gầm giường phải chui xuống tìm.

- Người nhà quê nghèo lắm, họ chỉ lo được đến thế thôi, mình cũng chẳng lấy của họ làm gì, nhưng không lấy thì họ tủi.

Ngày ấy, ông đã nói như vậy. Bây giờ thay bậc, đương ở cảnh nhận Tết đổi sang cảnh lễ Tết, ông nghĩ rằng mua hai bao chè là lịch sự lắm. Như vậy, càng đủ tỏ những lời ‘‘thằng cháu nhà ông ngoan, thằng cháu nhà ông học giỏi’’ là thực. Ông giáo Khai nói như vậy chắc chắn không để lấy lòng ông ký, vì làm gì kia chứ, ông giáo có đến vay nợ nhà Băng bao giờ đâu!

- Đi thi mà đúng hai cái tính thì chẳng còn lo trượt nữa, thày nhỉ.

Bà ký âu yếm hỏi con:

- Nhưng còn một nửa chữ Tây, liệu có đỗ được không con?

Ông ký sẽ lắc đầu:

- Cái ấy thì chưa chắc đâu, con ạ. Bài ‘‘dictée’’(chính tả) năm nay thày xem khó lắm. Nhưng mà năm nay không đỗ thì sang năm. Người ta cho thi hai năm kia mà. Miễn là được lên lớp. Mấy lại bây giờ con có đỗ cả chữ Tây cũng không được lên lớp nhì trên ngay.

Thằng Đức toan cãi một câu. Thầy nó nói vậy thì coi thường nó quá. Nó mà không đỗ được chữ tây, ‘‘học trò rất tốt’’ trường tỉnh kia mà! Nhưng chẳng hiểu sao nó lặng im. Có lẽ nó nhớ lại những ‘‘phốt’’ (faute= lỗi) dictée nó chỉ thấy có hai, nhưng còn những phốt vô ý nữa, biết đâu. Nó vẫn cố ám thị, có tự dối bằng câu nói thầm: ‘‘Thế nào mình chẳng đỗ’’. Nhưng nó bắt đầu ngại.

Nhớ lại câu tuyên bố chắc chắn trước hôm đi thi ‘‘thế nào con cũng đỗ cả chữ Tây’’, nó đâm lo và thấy tự giận, tự trách.

- Biết thế chẳng nói trước xong, bây giờ mà không đỗ thì thật là xấu hổ?

Thằng Đức băn khoăn mãi cho đến lúc gọi tên những thí sinh vào vấn đáp. Bắt đầu là Nguyễn văn An. Nó mỉm cười một cách khỉnh bỉ, nói với thằng bạn đứng cạnh!

- Lại đỗ tiền chứ gì. Trong lớp nó dốt bỏ sừ đi ấy mày nhỉ.

- Ừ, chiều hôm qua, tao thấy nó vào buồng thi nó nói gì với ông giáo, cái ông giáo đeo kính trắng gầy gầy ấy mà.

Lần lượt từng người cho đến: Lê xuân Đinh français, rồi Vũ đình Đức. Không kèm theo một tiếng gì cả.

Thằng Đức giật mình quên cả thưa. Ông giáo đứng trên thềm nhắc lại một lượt Vũ đình Đức nữa, nó mới nói được hai tiếng ‘‘présent’’. Thì ra Lê xuân Đinh là thằng bé nhà quê ngồi cạnh mà Đức ta coi

- Vô lý nhỉ, nó ‘‘ rất tốt’’ nhà quê mà nó lại đỗ cả chữ Tây, mình ‘‘ rất tốt’’ ở tỉnh mà mình lại trượt. Ức thật, nó hơn cả mình.

Vừa đi về nhà, thằng Đức vừa ngẫm nghĩ như vậy. Lòng tự ái nó bị thương tổn nhiều quá. Sau cùng nó phải tự an ủi:

- Chắc là thầy nó quen ông giáo nào hẳn.

Trái hẳn với mọi người, ông bà ký Thảo không đưa con đi thi hay xem bảng. Chính ra cũng tại họ không có thì giờ nữa. Đức đi một mình về cũng lại một mình. Vừa về đến nhà đã thấy thằng Tề săn đón trước:

- A, anh Đức đã về, thế nào anh có đỗ không?

Nó không trả lời em, bước vào trong nhà nói với cha mẹ:

- Con thành ra hỏng chữ Tây...

Nó toan tìm một câu nữa để bào chữa mà không ra. Ông ký biết vậy liền gạt đi:

- Thôi không đỗ năm nay thì sang năm, cần gì. Con cởi áo đi ăn cơm đã. Đỗ hay trượt cũng phải ăn cơm không thì đói. Bảy giờ rưỡi rồi đấy.

Bữa cơm không vì việc không đỗ Sơ học yếu lược chữ Tây của thằng Đức mà mất vui. Hai cha con bàn tán mãi về kỳ vấn đáp ngày hôm sau:

- Các bài học con đã thuộc hết rồi chứ?

- Vâng con thuộc hết cả rồi, nhưng ăn cơm xong cũng cứ lấy ra mà ôn lại mai cũng chẳng còn lo trượt nữa.

Bà ký cũng góp một câu:

- Hay thầy mày thử hỏi con trước đi xem. Thà cứ trượt hẳn xong thì lại là một truyện. Chứ trượt vấn đáp thì bực lắm đấy.

Định như vậy, nhưng việc nó lại thành ra một khác. Xong bữa cơm, bát đĩa vừa bưng thì ông bà Thừa sang chơi. Bà Thừa nhanh nhảu nói ngay từ ngoài cửa:

- Chúng tôi sang mừng ông bà và anh Đức đây.

Ông ký mỉm cười:

- Cháu nó đỗ được có một nửa thì có gì đáng để ông bà phải mừng.

Ông bà Thừa ngồi chơi nói chuyện nọ, chuyện kia kể cũng khá lâu. Đến lúc ông bà Thừa về thì lại bà cụ Ấm lại. Ra cái việc đi thi của thằng Đức mà cũng quan trọng nhỉ. Mất cả một buổi tối. Đến khuya bà ký phàn nàn với chồng.

- Thành ra chẳng hỏi con được một câu nào, thầy nó nhỉ. Bây giờ khuya rồi, để cho con nó ngủ, sáng mai dậy, thức lâu quá nhỡ mai ốm thì hỏng.

- U không lo, thể nào con cũng đỗ.

Đã sắp ngủ, thằng Đức còn nhỏm dậy nói một câu cho mẹ yên tâm.

Mà thằng bé tự tin như vậy cũng phải. Cả buổi sáng hôm sau, đứng trước ông giáo nào nó cũng trả lời rất rõ ràng rành mạch. Ông giáo bảo đọc bài nào nó cũng thuộc vanh vách. Mấy ông giáo đã phải thốt ra lời khen ‘‘ très bien’’, tốt lắm, làm thằng bé mũi cứ phập phồng.

Bữa cơm tối hôm ấy mới thật hoàn toàn vui. Ờ giá thằng Đức đỗ được cả phần chữ Tây nữa. Lúc ở trường về thằng bé hậm hực mãi, nhưng qua một lúc nó tự an ủi:

- Mình còn hơn bao nhiêu đứa thi trượt. Ừ thì chúng nó có đỗ chữ Tây nó cũng chỉ lên lớp nhì dưới như mình thôi chứ gì. Bao nhiêu đứa học ‘‘đúp’’ cũng trượt nữa là...

Nó bắt đầu lấy làm tự mãn. Ông bà ký cũng hơi tự mãn. Từ kỳ thi Sơ học yếu lược này họ tính lên kỳ thi trên. Bà ký đặt bát xuống mâm hỏi chồng:

- Mấy năm nữa thằng Đức mới thi tốt nghiệp thầy mày nhỉ?

Không để cha trả lời, thằng Đức láu táu:

- Ba năm nữa, u ạ. Sang năm, con học lớp nhì dưới, học ông Nghĩa. Rồi sang năm nữa, con học lớp nhì trên, học ông Hợi. Học ông Hợi xong, con học ông Ngọ rồi đi

Ông ký Thảo mỉm cười bảo con:

- Ấy là không bị đúp lớp nào thì mới như vậy chứ.

Thằng Đức đương nhai miếng cơm nghe vậy nuốt vội, trả lời:

- Con mà thầy bảo bị đúp được.

Thằng Tề xen vào:

- Ba năm nữa, anh Đức đi thi tốt nghiệp thì lúc ấy con thi cái bằng của anh ấy bây giờ.

Bà ký lại hỏi:

- Thế bao giờ thì con nó thi cái bằng như của chú giáo.

Ông ký gật gù:

- Bốn năm nữa sau khi đỗ tốt nghiệp. Bốn năm với ba năm là bảy năm, Bảy năm nữa thì con nó thi bằng thành chung.

- Bảy năm nữa kể cũng chả mấy nhỉ. Cứ cho là đến năm mười chín nó đỗ.

Hai người làm cha mẹ thấy hởi lòng. Họ không dám mong cho con tới cái địa vị nào cao hơn ông giáo. Ước nguyện của họ chỉ tới đó thôi và hạnh phúc dưới tầm con mắt của họ dừng cả lại hai chữ: Ông Giáo. Bấy giờ người ta sẽ gọi thằng Đức là ông Giáo Đức, và người ta sẽ khen: Đấy ông bà ký Thảo sinh ra ông Giáo Đức đấy, trông có phúc hậu không nào.

Và ông Giáo Đức sẽ mặc quần áo Tây đi dạy học ở trường tỉnh chứ đâu như ông giáo Thảo, ông hương sư làng mỗi tháng khó khăn mới lĩnh được mười hai đồng rưỡi bạc lương ở tay mấy ông lý dịch!