- III -
LẦN này là thứ ba, thằng Đức trở lại đứng trước tấm biển quảng cáo của rạp Majestic. Nó do dự không biết có nên đi xem không. Dở tiền trong túi ra đếm thấy còn có năm đồng, nó thở dài. Tối hôm trước nó còn sáu nhưng đi xem chiếu bóng cũng ở cái rạp này, rồi tiêu cả ngày hôm nay nữa hết một đồng như thế đã là hà tiện lắm đấy.
Nó do dự không biết có nên đi xem không, tối hôm nay đổi phim, cái phim này nghe qua mấy tờ quảng cáo thì cũng xem được. Mà xem được hay không có cần gì lắm đâu, cần nhất là để tránh cái bực dọc khổ sở này. Đi đi lại lại chán, sau cùng nó nhất định vào lấy vé. Thì ít nhất cũng tiêu được quãng thời gian từ giờ đến nửa đêm.
Vào trong rạp, ngồi yên chỗ, thằng bé càng thấy tâm trí hỗn loạn. Gác một chân lên ghế đằng trước, ngửa đầu vào lưng ghế, nó tưởng ngồi như thế sẽ dễ chịu, nhưng cũng chẳng hơn chút nào, nó lại đồi kiểu. Luôn mấy lần như thế, nó vẫn không sao tránh được một nỗi ray rứt khó chịu, dường như óc nó đang bị bao nhiêu con đỉa rút rỉa. Ngồi không được, nó đứng dậy đi quanh rạp, trông thấy có một cô gái bé xinh xinh mà lại chỉ có một mình, nó lại gần lân la tán truyện. Cũng là để cho khuây. Cô bé mỉm cười rất có duyên, lại trả lời mấy câu hỏi vẩn vơ của nó, nghĩa là ít nhất cũng nên quen được rồi. Nhưng chỉ nửa phút, nó quay đi ra ngoài với một thái độ rất vô phép làm người suýt thành bạn ấy phải ngạc nhiên.
Muốn đi quanh đi quẩn thế nào thì đến lúc đèn tắt cũng phải về ngồi yên một chỗ. Thằng Đức chán chường nhớ lại những ngày qua. Nó nhớ đến cái tuổi mười sáu của nó và nó tự thương nó vô cùng. Mười sáu tuổi nhưng trông nó như người mười tám hay hơn, phần vì tầm người hơi cao, phần vì mặt già bởi hay nghĩ ngợi. Mười sáu tuổi từ kỳ tết vừa rồi, nó đã sống mười lăm năm và lúc này nó điểm lại những việc đã xảy ra trong quãng đời đã sống. Năm lên chín, mẹ nó mang nó lên Bắc Giang, năm mười một, gia đình nó theo Tin Lành, năm mười ba giữa năm ấy mẹ nó bỏ đạo Tin Lành, năm mười bốn nó trượt Sơ-học-Pháp-Việt... Đến đây ý nghĩ nó kéo sang gia đình. Nó nhớ đến cảnh nghèo, nó nhớ đến cha mẹ nó hay cãi nhau đến nỗi nó phải ước ao rằng mình không phải là con của cái gia đình bất hòa ấy. Tất cả những cảnh trên đã hiện ra thoáng qua đủ để nó nhận, rồi mới đến lúc có những cảnh rõ ràng hơn. Nó khởi đầu thấy cảnh trường thi hôm nó còn là thằng bé học trò ngoan ngoãn mặc áo the, đi săng đan mới, đứng nghe bảng, cái cảnh trượt thi ấy đáng ra không nên có trong đời nó. Tiếp theo cảnh này là cảnh nó bị cha mắng rồi cắn răng chịu học lại một năm cùng những cuộc đi bơi, ngủ lang..v...v... Rồi tới cảnh ốm, cảnh đi thi, cảnh đỗ Sơ-học Pháp-Việt, được vào trường Bưởi.
Nhớ lại cái buổi đi tàu về thăm nhà trước hôm khai trường, những ý nghĩ hằn học và điều quyết định làm vui cả gia đình, bất giác nó tự thẹn. Cái buổi ấy cách đây chưa được một năm, chao ơi!
Trước kia trách cha, trách mẹ, bây giờ nó trách cả nó nữa. Nó trách nó không đủ nghị lực làm theo điều mình muốn, lại quanh quẩn thế nào để tới bước đường cùng hiện nay. Vẫn biết rằng có một hoàn cảnh xấu luôn luôn đi kèm nó đấy, nhưng tại sao không cố thắng được hoàn cảnh!
Ở nhà bác là ông Phán Mẫn, cái ông Phán đã tiêu tiền két đến mất việc, được hai tháng, thằng Đức thấy cái khó khăn mình phải thoát ra là chỗ ở và hoặc dập đi, hoặc tìm cách thỏa mãn điều thèm thuồng là bộ quần áo tây. Lại mấy đồng bạc trả tiền quà nữa, tính sao cho chóng xong đi. Tìm được cách giải quyết rồi, nó chỉ mong sao thời gian đi thật mau hết niên học năm thứ nhất ấy, để về nghỉ hè, nó sửa soạn niên học năm thứ hai tốt đẹp hơn. Giá dòng thời gian cứ trôi một nhịp như thế, đứng bấp bênh như trên cái bè mục, nó cũng đành. Nhưng thêm một tháng nữa, một buổi ông bác ấy bảo cháu đi trọ chỗ khác. Biết trọ chỗ nào được, trong lúc khẩn cấp, nó chạy đến ông mục sư, câu truyện đổi chỗ ở của thằng bé giản dị như vậy. Nhưng bao nhiêu cớ để nó trốn học và bỏ đi bắt đầu từ chỗ ở mới này. Bắt đầu từ cái bệnh lở của nó, cái bệnh không chết người này là cớ đầu tiên đáng ghi. Vì cớ lở đau như vậy, nhà trường đã tống cổ đứa học trò về nghỉ để chữa, nó lêu lổng vì hàng nửa tháng liền không được đến trường cũng có lẽ. Cớ thứ hai là mấy thằng bạn ở đạo Tin Lành, chúng tàn ác trêu chọc thằng bé khù khờ mới ở tỉnh nhỏ đến kinh đô, để nó sinh ác cảm phải đi tìm mấy thằng bạn ở ngoài. Trong lúc tìm bạn ấy, chẳng may nó gặp ngay thằng Định ở Bắc giang ngày trước và thằng Văn con bà cụ Ấm. Cớ trực tiếp là hai đứa bạn này.
Ngồi trong rạp chiếu bóng, thằng Đức nhớ lại những buổi gặp thằng Định và thằng Văn mấy ngày trước vừa oán bạn vừa giận mình.
Mấy ngày trước có hơn chục bạc trong túi, nó bị thằng Văn giật khéo mất hai đồng và thằng Định rủ đi chơi tiêu mất hai đồng nữa. Số tiền vừa đủ trang trải các món thành ra thiếu mất bốn đồng. Bốn đồng bạc ăn, ba đồng sáu bạc học và hai đồng rưỡi thuê sách cộng là mười đồng một, giá đừng tiêu xu nào thì vừa đủ, nhưng trót tiêu mất bốn đồng rồi thì làm thế nào? Cũng là nó không biết tính chứ không thì chỗ bảy đồng còn lại hẵng đem trả tiền học, tiền sách đi đã rồi viết thư nói thực với cha mẹ là xong. Nhưng nó lại không muốn thế, lòng tự ái nó mạnh quá, nên làm lỗi đấy rồi nó không dám nhận. Đầu tiên nó định cứ đưa trả tiền ăn và tiền sách trước rồi tiền học chạy sau, nhưng như vậy cũng không ổn, đằng nào nhà trường cũng tống cổ về. Cái ông ‘‘économe’’ lùn quái ác ấy lại bắt đưa cả tiền sách thì mới nhận. Thằng bé ấy ương ách nhất định chạy cho ra bốn chục đồng bạc để trả cả ba món một lúc. Nó phác ra cái chương trình như thế này: hôm sau nghỉ học để đi ‘‘xoay’’, tìm bốn thằng bạn mượn mỗi thằng một đồng. Nhưng đã ba bốn hôm rồi, không những không mượn được xu nào, lại hụt vào số tiền còn lại. Thằng bé ấy nếu nó biết đang lúc này, cha và mẹ nó nhận được hai cái thư đang buồn ở nhà. Nó có biết đâu!
Càng ngồi nghĩ nó càng thấy mấy ngày qua vừa rồi của nó là vô nghĩa lý. Nó hối hận ước sao thời gian đi giật lùi kéo nó trở lại một tuần lễ trước. Nó sẽ không nể thằng Văn, không cần thằng Định nữa, nó sẽ làm trọn bổn phận, nó sẽ đưa ngay cho bà mục sư số tiền ăn hàng tháng và đem trả cái ông tây lùn économe (người lo về tiền xuất, nhập trong trường) trường Bưởi sáu đồng mốt bạc. Cái ước muốn kỳ quặc thời gian chạy giật lùi ấy không phải chỉ lần này mới có trong đầu thằng Đức, lần đi thi trượt đầu tiên, nó đã ước được trở lại lúc sắp bắt đầu đi thi, lần trong Tết nó đã ước được trở lại buổi đầu năm học.
Những việc xẩy ra là sự thực chứ không phải là mộng nữa, vậy làm cách nào đây. Đêm hôm trước ở rạp chiếu bóng ra, nó đi lang thang với cái hy vọng vớ được một số tiền rơi. Vừa thôi, không cần thừa, nhặt được mấy đồng bạc của một người giầu mà lơ đễnh nào đó, nó sẽ chờ sáng ngày lên trường trả tiền học, tiền sách rồi vào infirmerie (phòng trị bệnh, bệnh xa) khám ghẻ. Chắc chắn được nghỉ, nó về thẳng Bắc Giang viết thư xin lỗi ông bà mục sư rằng về không báo trước. Có thể như thế được lắm chứ, ở thành phố Hà nội này bao nhiêu người và trong số những người giầu ấy, bao nhiêu là người lơ đễnh.
Đêm hôm nay cũng như đêm trước, ở rạp chiếu bóng ra, nó đi lang thang vơ vẫn với cái hy vọng trẻ con rồ dại ấy. Đứng ở địa vị đứa bé hư rồi, nó không thấy như vậy là xấu, nhưng bỗng sực tỉnh ra, trở lại với cái bản ngã đứa bé lương thiện, nó buồn rầu ái ngại cho cảnh ngộ của mình rồi nó khóc. Cuối tháng giêng rồi nhưng trời còn lạnh như đầu tháng một. Vẫn còn lá vàng rụng, thằng Đức nhìn những chiếc lá buồn như mình cũng đang bị rụng khỏi cành.
Nghĩ đến tất cả mọi bạn cùng học, nó tự thương thân. Nó, nếu đặt vào một hoàn cảnh khác chắc không đến nỗi thế này đâu! Tại thầy nó? Tại u nó? Tại nó? Đi ở phố này nó thấy câu trả lời ‘‘phải’’, phải rồi, tại thầy nó như vậy, u nó như vậy, nó như vậy nên thành ra nông nỗi thế này đây. Nhưng đi sang phố khác, nó lại thấy câu trả lời ‘‘không phải’’, nào thầy nó, u nó hay nó muốn cái cảnh này đâu, cả mấy người vẫn có tránh cơ mà.
Đêm lạnh và dài. Binh minh lên, thằng Đức vẫn không được chút an ủi nào.
- Thầy u mày đang đi tìm mày ghê lắm đấy, có về nhà không, lang thang như thế là cái chó gì. Bà cụ xuống đây hỏi làm ông anh, ông ấy mắng tao mãi. Ông ấy bảo chơi với mày làm gì để bà cụ tưởng là rủ rê mày.
Hai ngày sau nữa, thằng Đức gặp thằng Định và được người bạn quý hóa ấy tặng cho một câu như vậy. Hai đứa đứng lặng im nhìn nhau ở chân cầu thang cái ở gác Khâm Thiên. Nghe những lời đạo mạo của thằng bạn đang muốn tránh sự liên lụy, thằng Đức bĩu môi khỉnh bỉ, nhớ lại cái hôm hai đứa đi tiêu tiền.
- Thôi hôm nay chúng mình đi chơi suông thôi, tao có hơn chục bạc vào việc cả, thừa ra có chưa đầy một đồng bạc. Chốc mày có lấy mấy hào thì lấy.
Hôm ấy, giá thằng bạn này đạo mạo như hôm nay cho giá nó đừng nói câu này.
- Tao ở nhà buồn lắm mới đi tìm mày, thế nào hôm nay cũng cho tao đi ăn và ciné, hết độ vài đồng thôi chứ gì, mày lại xoay sau cũng được, mày xoay tài lắm kia mà.
Con người ta hóa ra dễ đổi giọng thật, hôm nọ nói như vậy mà hôm nay nó đã đổi hẳn không chút thẹn thùng:
- Hôm ấy ông đã bảo nếu tiền không cần thì hẵng, tiêu, còn nếu cần thì thôi, không nhỡ lôi thôi thì cả tao cũng mang tiếng.
Thở một hơi dài, thằng Đức quay đi, vai hơi nhún một chút:
- Thôi mày không phải nói lôi thôi nữa, tao đi đây, tao biết tao dại rồi, mày không phải lên mặt đạo đức nữa.
Thì ra thầy u nó đã đi tìm nó rồi đấy, không biết do bức thư của ông mục sư gửi về hay bức thư ở trường gửi về. Cái lỗi đã rõ ra đấy rồi, chẳng còn dấu diếm được ai nữa, nó còn mặt mũi nào gặp mặt những người quen. Đã phân biệt được điều phải và điều không phải, nhưng không làm được điều phải, nó thấy mình chưa đủ can đảm nhận lỗi với một ai. Thành ra đáng lẽ trở về, nó càng tránh xa hơn nữa.
Có một lần đứng trên xe điện, đến Quan Thánh, thằng Đức trông thấy thầy nó là ông Ký Thảo, đáng lẽ gọi, nó tránh vội vào trong toa. Lại một lần khác, nó thấy bóng u nó và thằng anh họ ở đầu phố, nó rẽ mau ngay sang một đường khác. Từ hôm đó, không bao giờ, nó đi ở các phố đông, cả ngày lang thang, có khi cả đêm, nó chọn mấy con đường vắng như đường Gambetta hay Carreau. Đi từ đầu đến cuối con đường, hai chân nó có lựa sao cho đúng những viên gạch sóng hàng trên bờ hè, nó lại đếm xem bao nhiêu viên nữa; làm cái việc vớ vẩn ấy cũng phải chăm chú để hết ý tứ, như vậy tránh được sự dày vò vì hối hận, sự bứt rứt vì không biết ngày mai sẽ ra sao. Những lúc nào mệt mỏi quá thì nó tìm đến nhà một thằng bạn cùng lớp ở Bắc giang, nơi nào nó biết chắc rằng không ai tìm tới. Đến chơi thường thôi, nó đã có sẵn một câu nói để thằng bạn tưởng như vậy:
- Moa bị lở, trường nó bắt nghỉ, buồn quá phải xuống toa chơi.
Tiết trời còn lạnh nên nó còn mặc bộ quần áo rét được; quần áo rét không phải thay, đi lang thang bốn năm hôm thấy nhầu nó vào một hiệu thợ là cởi ra thuê là; ấy là quần áo ngoài, còn đồ lót trong, tìm một thằng bạn khác, cho đi xem chiếu bóng một buổi, nó mượn khéo một cái chemise và một cái quần. Như vậy trông nó cũng sạch sẽ, không mấy ai biết rằng nó đang lang thang.
Được một tuần lễ bình yên trong cảnh chẳng bình yên chút nào ấy. Nhưng đến hôm thứ tám, tính từ lúc bỏ nhà trọ đi là thứ mười hai, thằng Đức bắt đầu lo vì số tiền tiêu rất hà tiện kia đã hết không còn một xu. Ngày hôm ấy, nó nhịn đói; nhịn đói, đi ngoài sương lạnh đêm khuya, nó thấy cảnh sống như vậy lại có phần êm ái, thú vị, vì không nghĩ ngợi gì nữa. Dĩ vãng nhắc đi nhắc lại mãi cũng nhàm. Tương lai, bàn làm gì nữa, nó đến tự khắc nó đến, chỉ có hiện tại, hiện tại là một kẻ ma cà bông chính hiệu. Ngày hôm sau, nó tìm ra được một cách có thể tạm giải quyết được vấn đề gay go là ăn; chẳng phải khó khăn gì, chỉ việc mỗi lúc gặp một thằng bạn nào nó vẫn nể mình xưa nay, mượn nó mấy hào, mấy hào hẳn phải có. Rồi mấy ngày sau nữa, nó lại bày được một cách thú hơn không mượn tiền nhưng mượn sách, quyển sách nào nó có ở nhà đi rồi còn trả lại, quyển sách ấy bán lại cho hàng sách cũ tức là mấy bữa ăn của nó.
Bao nhiêu tính tình tốt đẹp, lương năng, lương trí, dường như nó dẹp tắt hết cả, mặc cái phần vô giác được phát triển hoàn toàn. Đứa con ngoan hai năm trước chỉ trong một quãng thời gian rất ngắn đã thay đổi hoàn toàn.
Những cái gì cao quá cũng phải đổ, bỏ nhà đi tính ra được nửa tháng, hư thân đến như vậy, bỗng dưng một buổi sáng, thằng Đức thấy mình trở lại làm mình như ngày xưa. Nó ghét nó, thương cái cảnh dập dồi lúc ấy. Nó muốn thoát ly nhưng không biết tìm cách nào khác cách chết. Chết, chết là phải lắm, mười lăm năm sống của nó, trừ một ít năm là trẻ thơ, còn đáng xóa đi hết cả.
Người mẹ gặp con thực vừa lúc.
Một buổi sáng tinh sương. Theo lời chỉ dẫn một đứa bạn của con, bà Ký Thảo gặp thằng Đức mặc nguyên quần áo dạ nằm nửa người trên giường, nửa người dưới đất.
- Đức, Đức dậy u bảo, con.
Mở bừng hai mắt, thằng bé mười sáu tuổi giật mình.
- Con đi đâu để u phải đi tìm mãi, đã một lần ra, một lần về, hôm kia u lại sốt ruột ra nữa, cứ như thầy con thì chẳng tìm tòi gì đâu. Con chỉ làm tội mẹ thôi con ơi.
Sau cái phút bỡ ngỡ ấy, đứa con theo mẹ về nhà bác thẫn thờ như một trẻ mất hồn.