← Quay lại trang sách

- IV -

THẾ nào, bây giờ con định ra sao, học ở trong trường nữa hay ra ngồi học tư với anh Hinh? Con nói đi để u liệu về bảo với thầy. Còn ở đằng ông mục sư con không muốn thì thôi, cử ở ngay đây với bác, còn

có hơn một tháng nữa về nghỉ hè, rồi kỳ khai trường sau, u sẽ tìm cho một chỗ ở tử tế.

Bà Ký Thảo cố tìm một giọng ôn tồn nhất để khuyên con. Thằng bé vẫn ngồi lặng im, tần ngần không nói gì.

Ông Mẫn sốt ruột cũng phải bảo:

- Thím việc gì phải hỏi nó nữa, đang học trong trường thì cứ học trong trường, nó đã đuổi đâu, có phải cái số tiền học ấy chú ấy đã gửi vào trường rồi không?

Bà Ký lại hỏi con:

- Thế nào liệu không phải đuổi chứ con. Con nghỉ lần này mười bảy ngày rồi lại hồi trong năm nữa, tất cả là bao nhiêu ngày, liệu có đủ sức lên lớp không?

Bấy giờ thằng bé mới chậm chạp trả lời:

- Ngày trong năm, trường nó bắt con nghỉ tất cả hai lần cũng chỉ vào nửa tháng cộng với mười bảy ngày nữa là một tháng với hai ngày, vẫn còn được lên lớp ạ. Còn đủ sức thì làm gì chẳng đủ sức, chương trình đã học hết rồi, chiều hôm nay u cho con xin một đồng đi lấy cái certificat médical (giấy chứng nhận y tế) đưa vào trường để lấy cớ rằng vì ốm nên mình mới phải nghỉ... rồi mai u về đi, không ở nhà các em bé không có ai trông nom.

Bà Ký thở dài bảo con bằng một giọng ảo não:

- Con dại quá, giá có trót tiêu ít nhiều hỏi xin mẹ ngay, có phải không có chuyện gì xảy ra không. Lần này đi, về u cũng mất đến gần ba chục bạc đấy, lại đèo thêm cái bệnh đau bụng nữa. Nhưng mà bao nhiêu thì u cũng chẳng tiếc, chỉ mong sao con được học. Ngày mai con lên trường ngay đi nhé, được học thì viết ngay thư về cho u mừng. Lát nữa có tàu, u về đấy, cũng chẳng chờ đến mai được đâu.

Chiều hôm ấy, bà Ký về Bắc giang, yên trí rằng con được học. Nhưng hai ngày sau, thấy thằng Đức cũng lù lù dẫn về. Thì ra cái rủi vẫn chưa buông tha gia đình ấy. Làm lại có bao giờ dễ đâu!

Buổi sáng hôm ấy, thằng Đức lên trường với bao nhiêu dự định, bao nhiêu hy vọng để theo. Nó tin rằng đưa cái giấy nói láo có đốc tờ ký tên chứng thực rằng bị sốt rét ngã nước mười lăm ngày vào phòng khám bệnh nhà trường thì thế nào cũng được đi học. Không phải mình nó nhưng đã có bao nhiêu người khác thoát nạn bằng cách ấy. Được đi học rồi nó sẽ cố chăm chỉ để cuối năm, tờ giấy nhà trường gửi về không có mấy chữ phải học lại. Sau vụ hè này, từ niên học sau nó sẽ sống một cách có quy củ, có thứ tự hơn không bao giờ có sự gì đáng tiếc xảy ra nữa. Nhưng mọi việc chẳng theo ý nó, vì vừa đưa tờ giấy vào cho viên у sĩ của nhà trường, nó bị ngay ông tổngg giám thị tây đứng đó chú ý đến bàn tay. Thế là nó phải cởi trần ra khám ghẻ, kết quả là nghỉ đến khi nào khỏi hẵng đi học (congé jusqu'a la guérison). Giá là ghẻ thì chữa chỉ mấy hôm đủ khỏi, nhưng cái bệnh lở tệ hại này, còn dây dưa chán. Thằng bé lo âu nhờ đến cái anh Văn con bà cụ Ấm, anh chàng này học năm thứ ba bị lở từ năm thứ nhất. Nó sợ nhất không phải bị tống cổ nhưng bị giữ lại năm thứ nhất. Cả một năm học đúp ở Bắc giang đủ cho nó hiểu hết nỗi chán chường.

Đành về Bắc giang vậy, về nhà uống thuốc ta hay tiêm thuốc cho khỏi đi lại đi học Làm thế nào đi học ít nhất được một tháng nữa rồi hãy nghỉ hè, như vậy mới có cơ lên lớp được.

Thấy con về, bà Ký Thảo vừa mừng vừa sợ. Bà sợ hay con bà bị đuổi rồi về nói dối cho qua chăng.

Nghe con giảng giải mãi bà mới tin lời. Nhưng còn một điều khổ là ông chồng nữa.

- Thằng kia đã đi ăn mày về đấy phải không?

Nghe chồng nói như vậy, buổi trưa hôm ấy, bà Ký dẫu tức mà vẫn phải tươi cười:

- Nó được vào học rồi nhưng nhà trường người ta còn bắt về nhà chữa lở.

- Chữa gì, chữa cái ăn mày ấy! trường nó lại đuổi rồi chứ gì.

Thằng Đức lẳng lặng đi ra ngoài. Bà Ký vẫn phải đấu dịu với chồng:

- Thầy mày ôn tồn một chút. Việc trót dại của nó dù sao cũng đã lỡ rồi. Bây giờ phải tính sao cho nó khỏi, để nó vui mà đi học chứ. Thày mày nói như thế phỏng có ích gì không?

Ông Ký thở dài. Mọi việc xảy ra, ông cho là tại vợ, tại con cả. Nghe theo ông thì có bao giờ phải bận tâm, bận trí. Khi người ta đã tự cho là phải thì người ta có quyền giận dữ bắt người khác phải chịu sự giận dữ của mình. Cũng như mọi người ông Ký nhăn nhó:

- Đợi một vài hôm nữa, nếu trường nó đuổi thì có giấy về ngay đấy mà. Nếu đến như thế thì ăn mày, ăn mày... Nếu đến như thế thì tống cổ nó đi cho nó ăn mày trước còn hơn là để về sau mới ăn mày.

Quay lại vợ, ông sừng sộ:

- Còn u mày nữa, khỏe tin nó, chiều nó, có muốn đi ăn mày một thể với nó thì đi người ta không giữ.

Bà Ký vẫn phải lặng im. Cốt sao cho đứa con được khỏi bệnh đi học, bà cố nín ít lâu nữa chịu hết cái khó chịu vô lý của chồng. Chỉ ít lâu nữa thôi vì bà đã tính rồi. Bà không tính về nhà quê, nhưng định lên Lạng Sơn. Với cái vốn nho nhỏ, mấy mẹ con đủ bữa rau, bữa cháo. Đành rằng không bằng ở nhà được nhưng thảnh thơi hơn nhiều. Sống như ỷ lại vào chồng, bà không tìm câu nào cãi lại được. Luôn luôn ông Ký tỏ ra rằng mình đi làm, mỗi tháng có lương đưa về nhà, ông đã đủ bổn phận rồi, không còn nói ông vào chỗ nào được nữa. Bà Ký muốn can gián ông đi đánh tổ tôm, dù chỉ vậy thôi, thì hãy làm thế nào cho ra tiền đã. Giá mấy đứa con không hư, ừ, giá mấy đứa con, như con người ta! Người mẹ nông nổi ấy không đi sâu một chút nào vào tâm hồn con, nên lúc lòng thương nhạt, bà bắt đầu giận đến thằng bé:

- Khổ quá, đả năm ngoái lúc sắp đi thì, mày đến nhà thằng Định rồi mày về, mày ốm. Tưởng rằng đã được vào trường rồi thì thôi, những tật cũ con bỏ đi, không ngờ con vẫn thế. Mẹ khổ vì con bao nhiêu đấy con ạ.

Lại cái bụng quằn quại đau, trông lũ con đàn: thằng Tề, con Dung, thằng Vượng, con Ân Điển, thằng Hưng và thằng cháu là Bân.

- Đẻ con ra mà con nó hư, nông nỗi ấy biết nói làm sao bây giờ!

Như tất cả các bà mẹ khác, bà Ký than thở như vậy.

Cũng may một năm nay, thằng Tề không bỏ đi đâu. Những cái miệng đàm tiếu của thế gian đổ xô vào thằng con lớn. Bà cụ Ấm, bà Thừa Minh, bà Ký Thu, mấy người đàn bà có cái giao tình cũ nhất phàn nàn cho bà Ký:

- Quái, cái anh Đức nhà bà tưởng ngoan, hóa ra cũng tệ nhỉ. Hay tại mồ mả trong nhà động điếc làm sao?

- Chắc tại ông ấy theo cái đạo Tin Lành nên trong nhà mới sinh ra lắm chuyện chứ nhà khác có bao giờ thế đâu.

Mỗi ý của người ngoài góp vào là bà Ký lại càng bối rối. Điều giản dị do cái gia đình bất hòa gây ra, bà không nghĩ đến. Bây giờ biết làm thế nào để cứu vớt lại đây? Câu hỏi ấy hiện ra luôn luôn trong trí bà mà không có câu trả lời. Bà sẽ xa chồng, như vậy có lẽ bà đỡ khổ, nhưng chưa biết chừng càng tai hại hơn nữa. Khốn nạn! Những đứa con nhỏ nữa, rồi chúng sẽ ra sao đây? Chúng lại như anh chúng chăng?

Không có ai, mãi sau mới có bà cụ Ấm bàn giúp và điều:

- Con nó hư hay nó hỏng đã chót rồi thì mình làm cha mẹ lại phải tính sao chữa lại. Cứ mỗi lúc mà bỏ mặc nó hay sao. Chuyến này, bà lại phải cho anh ấy đi học, nó bỏ đi, mình lại bắtvề nó không học, mình bắt nó học, chúng nó còn bé dại, chúng nó biết gì. Mình là cha mẹ mình phải tính chứ, nói như ông Ký thì vừa, có bố mẹ không trông đến...

Bà Ký ngậm ngùi cúi đầu. Lời khuyên của bà cụ hơn tuổi, bà thấy có lý lắm. Bà cụ Ấm từ trước đến giờ đã giúp đỡ bà bao nhiêu lần, lần này bà lại phải cảm động một lần nữa. Ngồi trầm ngâm, bà Ký nhớ lại lần đầu tiên mở cửa hàng mượn vốn bà cụ, nhờ bà cụ hết cả, rồi những lần giật mượn tiền nong lúc nhỡ ra túng thiếu, lần thằng Đức ốm, lần bà đau vú, bà cụ đã săn sóc thế nào. Chính ngay ông chồng và những người thân nào ai đã dễ được như bà cụ.

- Chẳng biết bà có tin lời tôi nói chăng, tôi thì tôi cho sở dĩ có những sự này cũng bởi ông ấy đi đạo đấy, lại động mồ, động mả trong nhà mà bà không biết...

- Vâng, cụ nói có lẽ lắm, bác Ba cháu, chú Sáu nó, lại có một lần chính thầy cháu nữa, ai cũng bỏ nhà đi một lần cả. Bây giờ biết làm thế nào?

Cái bộ máy gia đình, những con người bị buộc bên nhau bởi luân lý, bởi hoàn cảnh, trí óc hẹp hòi của hai người đàn bà không bao giờ có thể nghĩ tới. Bởi vậy câu kết luận như thế này:

- Cái việc đi học của anh ấy, ông bà định thế nào tôi không dám bàn tới, nhưng còn cái việc kêu cầu lễ bái, lấy chỗ tình thân tôi xin giúp bà.

Thằng Đức ở nhà mười hôm. Mỗi ngày hai lần tắm nước lá bôi thuốc và một thang thuốc tiêu độc, những mụn lở se dần. Chưa khỏi hẵn nhưng cũng phải tính đi học, hai vợ chồng ông bàn tính với nhau để rồi lại cãi nhau.

- Thầy mày lần này đưa thằng Đức đi Hà nội chứ hay để nó đi một mình? - Bà Ký hỏi chồng như vậy - Lần này thầy mày định để cho nó ở đâu?

- Thì cũng lại ở nhà ông mục sư chứ còn đâu nữa. Nhân tiện, mai chủ nhật ra chơi, nói chuyện với ông bà ấy, chứ không một mình nó ai người ta cho ở.

- Thày mày lại còn gửi nó vào đấy làm gì. Nó không muốn ở, lại người ta cũng không muốn thì mình còn cầu làm gì. Tôi tưởng cứ để nó ở với thằng bạn nó ở phố hàng bún, mỗi tháng mình chịu khó tốn ba đồng nữa. Cũng chỉ còn tháng này thôi là nghỉ hè, sang năm học mới, mình lại tính khác, không xin được tiền học thì nhờ chú Chi làm giấy nhận làm con nuôi vậy.

Ông Ký nhăn mặt - cái thói nhăn mặt ấy đã thành quen - bảo vợ:

- Ấy hỏng từ những chỗ ấy đấy. Ở với ông bà mục sư, không sợ nó cũng còn nể; hơi một tý người ta viết thư cho mình ngay mà còn chưa được nữa là… U mày bỏ cho nó ở với bạn nó, chúng nó toàn một duộc như vậy cả.

- Thì thày mày đã để ở nhà ông bà mục sư chứ có không đâu. Tôi nói không nghe sau có xảy ra chuyện gì nữa thày mày đừng có trách nhé.

- Xảy ra chuyện gì nữa, xảy ra cái ăn mày ấy à?

Ông Ký lại đem ‘‘cái ăn mày’’ ra để kết luận. Ý ông đã quyết rồi, thế nào con ông cũng phải ở với ông bà mục sư, chỉ có nơi ấy là ông tin được. Ông cũng chẳng buồn đếm sỉa đến sự bất phục ngấm ngầm trong lòng vợ và con. Ông tưởng có thể bắt gia đình theo ý muốn, ông là chủ kia mà!

Chuyến tàu sáng chủ nhật chở hai cha con đi Hà Nội, rồi hai chiếc xe tay kéo họ về nhà ông bà mục sư.

Ông bà mục sư vẫn tiếp đãi niềm nở, nhưng thằng Đức bắt đầu khó chịu vì dáng điệu khinh khi của ông mục sư. Nó có lỗi, nó không chối, nhưng không phải vì thế để người ta bớt trọng nó. Lỗi nó làm không phải tự nó, ấy là do hoàn cảnh, do trường hợp, vả lại tất cả mọi người đều tội lỗi, ông mục sư vẫn giảng. Nó nghĩ như

vậy để kéo lấy phần phải về mình. Chỉ có bà mục sư làm nó cảm động. Người bạn của mẹ nó thừa lúc vắng người trách nó một câu:

- Cậu Đức tệ quá, có trót tiêu tiền ăn, cũng trả cho xong tiền học và tiền sách, có phải không xảy ra chuyện gì rắc rối không? Bảo sẽ tôi một câu, rồi tôi dấu diếm xin u sau cho, có phải êm không.

Câu trách ấy cũng gần như lời mẹ nó, thằng bé ngập ngừng không biết trả lời sao chỉ lặng im với bao niềm hối hận.

Chiều hôm ấy, ông Ký Thảo về Bắc giang, thở dài một cái tưởng đã xong bổn phận làm cha. Cái gì đã thành bất đắc dĩ - như cái việc cho con đi học lần này - cố nhiên là không vui. Càng không vui nữa, việc tính một đằng thành ra một nẻo. Chỉ được ba ngày, một bức thư của ông mục sư gởi về đem theo bao nhiêu niềm thất vọng: thằng Đức ngay buổi sáng hôm sau đã bỏ đi. Nó viết một bức thư cho ông mục sư, bức thư ấy có gửi về cho hai người cha mẹ ấy đọc.

- Đây, u mày bảo thằng Tề nó đọc cho nghe hai cái thư này. Một cái của ông mục sư còn một cái của thằng Đức đấy. Đọc mà xem, mà biết con nó giỏi tới bực nào, mình hết cả hy vọng, không còn trông mong gì vào chúng nó. Cả cái thằng Tề kia nữa, rồi cũng đến thế thôi.

Bà Ký ngồi ngẩn ngơ nghe bức thư của con:

Thưa ông bà,

Hôm vừa rồi, thầy cháu đưa cháu ra để phiền ông bà, để cầu sự giúp đỡ của ông bà. Gia đình cháu cần cháu đi học, học để rồi đi làm... Nhưng cháu đã làm hỏng, làm lỡ nhiều quá. Bởi vậy cháu không dám nhận lòng tốt của ông bà nữa.

Như trước kia thì lại khác, bây giờ cháu phải cố gắng đòi lại những điều gì đã mất vì lầm lỡ. Cháu không học ở trường Bưởi nữa nhưng sẽ học hai năm để đi thi ‘‘Brevet élémentaire’’. Học như thế cố nhiên vất vả hơn, và chưa chắc đã đạt được, nhưng cháu muốn làm như thế, cháu thấy làm như thế hợp với cháu hơn. Cháu không thể ép mình theo ý muốn của thầy cháu nữa, chắc thầy cháu buồn lắm, nhưng thầy cháu sẽ vui lòng nếu hai năm nữa cháu được thành đạt.

Dù sao cháu cũng xin cảm ơn những điều tốt và lòng tử tế ông bà đối với cháu từ trước đến nay.

Kính thư: Đức

Hai vợ chồng chán nản, nhìn nhau, trước kia vợ một ý, chồng một ý, gia đình xẻ ra làm hai, bây giờ lại xẻ ra làm ba vì con nó lại một ý khác nữa.

Vợ đổ lỗi cho chồng:

- Tôi đã biết trước như vậy, nó không ở đấy được đâu, thầy mày lại không nghe. Bây giờ nó đi thì biết nó ở đâu mà tìm.

- Nó muốn đi ăn mày thì cho nó đi ăn mày. Tính cho nó đến thế chứ còn đến thế nào nữa.

Lần bỏ đi thứ hai của thằng Đức kéo dài ra nửa tháng. Thằng bé lại lang thang suốt ngày đêm khắp các phố vắng với cái ý định làm lại cuộc đời bằng cách học hai năm đổ Brevet élémentaire. Gặp được một người bạn mới tên là Mỹ, nó càng hy vọng đạt được ý muốn. Cái anh Mỹ này cũng học ở trường Bưởi nhưng hơn nó ba lớp, anh này đã đỗ Brevet élémentaire và hứa sẽ dẫn dắt nó trong việc học.

Nhưng còn vấn đề tiền ăn, tiền học, điều này mới thực là khổ. Ông bà Ký Thảo vì nghèo cũng có, vì giận con không nghe lời cũng có không gửi cho nó một xu nào. Mười hôm đi lang thang ấy, nhiều hôm, thằng bé nhịn đói.

Hôm thứ mười một, hai mẹ con mới gặp nhau.

Lần đi tìm con này là thứ ba.