Chương 10
Chập tối ngày Thứ Bảy 21 tháng 7, sau bữa ăn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, Huy Ban nại cớ nhức đầu để từ biệt các bạn. Chàng muốn trở về nhà thật sớm để nghiên cứu và thực hiện kế hoạch "Tủ Lạnh", tức là kế hoạch chàng đã đệ trình và thảo luận với Tướng Sĩ Minh tuần trước tại Hoa Thịnh Đốn. Ngay khi về tới Pha tích, chàng đã biết tin Hòa Lạc vừa được tự do tạm. Chàng hiểu rằng Hồ Anh đã làm như vậy vì biết chắc rằng Hòa Lạc thực sự vô tội, bề ngoài chàng vẫn bị coi là một thủ phạm trong các vụ bắt cóc trước đây. Hòa Lạc đã trở về làm việc tại phòng thiên văn, nhưng đồng thời cũng không quên đệ đơn lên tòa án để xin ly dị với Bạch Liên. Ngay chiều ngày Hòa Lạc trở về, Bạch Liên đã cãi lộn với chồng rồi bỏ đi khỏi Trung tâm, nàng mướn phòng ở Thị trấn Pha tích để ở riêng (Thị trấn cách Trung tâm 4km). Trong thời gian Huy Ban đi vắng, Hồ Anh đã cho điều tra kỹ về lý lịch của Bạch Liên nhưng không thấy gì khả nghi cả.
Huy Ban vừa đi, vừa miên man suy nghĩ về kế hoạch "Tủ Lạnh". Chàng thấy rằng cần phải sắp xếp cách nào để có thể vừa là Thiếu tá, vừa là "nhà bác học mù", lúc ở căn nhà của Diên Phi, lúc nhảy qua căn nhà của Lý Đan giả mạo mà không bị ai trông thấy. Muốn được như vậy, chàng phải cho dựng ngay trong đầu tuần tới hai căn nhà tiền chế sát vách nhau và đặt một lối đi bí mật để có thể qua lại giữa hai nhà. Một căn dành cho Thiếu Tá Diên Phi, căn thứ hai dành cho vợ chồng nhà bác học Lý Đan.
Đi được một quãng, Huy Ban lại không muốn về nhà vì chàng nghĩ tới Bạch Liên và muốn gặp lại nàng, nhưng chàng vẫn phải qua nhà để lấy xe, rồi qua Sở An ninh để lấy giấy phép để ra khỏi trại.
Đêm ấy trăng sáng tỏ như ban ngày. Huy Ban vừa lái xe, vừa nghĩ đến hai vụ bắt cóc Yên Lịch và Y Văn, họ đều bị mấy tích vào ngày Chủ nhật thứ nhì trong tháng, tức là những hôm không trăng, trời tối đen, giúp bọn sát nhân hành động dễ dàng hơn... nhưng chàng lại đặt thêm câu hỏi:
- Yên Lịch có bị bắt cóc vào lúc đêm tối đâu? Tại sao cả ba đều đúng vào ngày Chủ nhật thứ nhì?
Không bao lâu đã tới ngoại ô Pha tích. Chàng lái xe hết rẽ sang tay phải, rồi rẽ sang tay trái ở mỗi ngã tư, chạy lung tung như vậy một hồi lâu với ý định đánh lạc hướng những xe nào theo dõi mình. Sau cùng Huy Ban dừng xe trong một đường hẻm thiếu ánh sáng, rồi lững thững đi bộ tới chỗ Bạch Liên đang tạm trú. Nàng thuê phòng trong một ngôi nhà năm tầng, nhưng căn lầu trên đều quay mặt ra biển.
Tới phòng Bạch Liên, chàng lấy chìa khóa riêng để mở cửa. Chìa khóa này do Bạch Liên gởi cho chàng khi nàng rời bỏ Trung tâm trong lúc chàng đi Hoa Thịnh Đốn, vì nàng không muốn cho những người ở các căn phòng gần đó biết chuyện giao du thân mật giữa nàng và Huy Ban.
Căn phòng tối đen, chàng dùng diêm soi sáng tìm chỗ bật đèn. Khi đèn đã sáng, Huy Ban đóng cửa ngoài, rồi tới "sa lông" ngồi phịch xuống và đưa mắt quan sát.
Căn phòng còn gồm thêm buồng tắm và một bếp bàn xinh xắn. Tất cả đều sạch bóng và rất thứ tự. Chàng phỏng đoán là tối nay Bạch Liên đều ăn cơm ngoài phố, rồi đi xi nê... có lẽ vì thế nàng về muộn.
Huy Ban đứng dậy đến mở tủ lạnh, sửa soạn một ly uýt ky pha sô đa, rồi trở về ghế bành ngồi uống một mình.
Trong khi chờ đợi, chàng thấy trên bàn có một tờ báo khổ nhỏ, cầm lên coi mới thấy là tờ "Pha tích Tân văn" - tuần báo của địa phương này. Lần giở từng trang và đọc các "tít" lớn nhỏ, bỗng Huy Ban lưu ý tới một bài báo có tính cách kỳ dị:
"Một du khách lái xe đi chơi trong vùng và bị lạc đường, xe chạy lẩn quẩn trong khu đồng quê cho đến 11 giờ đêm thì bị hỏng máy khi tới cạnh một nghĩa trang. Ông ta đành phải nằm ngủ trong xe chờ sáng sớm hôm sau sẽ tìm xe khác trở về Pha tích tìm thợ máy đến sửa chữa. Nhưng vào khoảng 2 giờ đêm ông ta bừng tỉnh dậy vì tiếng máy của một xe khác tiến về phía nghĩa trang và dừng lại ngay chỗ cổng lớn cách xe ông chừng gần trăm thước. Vì trong người quá mệt nên ông ta cứ nằm lì trong xe chẳng buồn chạy ra gọi họ tới giúp... Đêm đó, trời tối như mực, bởi vậy toán người trong xe kia không nhìn thấy xe của ông ta. Chiếc xe kia là một xe vận tải cỡ nhỏ, bưng kín mít. Họ xuống xe rồi lôi ra một cái thùng dài tương tự như cái áo quan.
Cả bọn khiêng thùng ấy vào nghĩa trang. Ông ta hơi lo ngại và nằm rất yên lặng và không dám cử động, không biết họ vào đó làm gì mà hơn một giờ sau mới trở ra tay không, rồi lên xe đi mất dạng... Sáng hôm sau, ông ta trở về Pha tích và báo Sở Cảnh sát biết sự việc trên. Rồi ông trở lại nghĩa trang cùng với hai điều tra viên. Lúc đó ông mới biết đó là nghĩa trang "Vĩnh Phúc", một nghĩa trang của tư gia nhưng đã bỏ hoang phế đã gần ba chục năm nay. Cuộc lục soát không mang lại kết quả nào vì tất cả các ngôi mộ đều còn nguyên vẹn và không tìm thấy một vết tích khả nghi nào. Sau đó nhân viên Cảnh sát đã kết luận rằng, ông đã báo cáo như vậy sau một cơn mê hoảng vì đã phải ngủ bên nghĩa địa, hoặc vì đã tưởng tượng ra như trong lúc say rượu. Họ còn đi dò hỏi thêm trong khu vực kế cận và được dân chúng cho biết rằng hình như tối hôm trước họ có trông thấy một người say rượu lái xe chạy loạn xạ... có lẽ chính là ông ta...
Số báo này phát hành ngày 13 tháng 6 và tác giả bài đó viết rằng sự việc trên đã xảy ra ngay tối thứ bảy rạng ngày chủ nhật tiếp cận, tức là tối ngày 10, rạng ngày 11 tháng 6. Huy Ban giật mình vì chàng chợt nhớ ra rằng Y Văn mất tích đúng vào đêm ấy và địa điểm tìm được chiếc De Soto của ông ta cũng chỉ cách nghĩa trang "Vĩnh Phúc" chừng 30 đến 35 cây số mà thôi. Chàng bóp trán suy nghĩ chừng năm phút và nhận thấy rằng tác giả bài báo đã nói thật, một sự thật trọng đại mà nhân viên Cảnh sát không chịu lưu ý tới. Vì có trực giác mạnh nên chàng tin chắc rằng nghĩa trang này là sào huyệt hoặc là nơi cất giấu tài liệu của một bọn cường đạo hay một bọn gián điệp nào đó... và biết đâu chẳng là bọn gián điệp Nga?
Nghĩ tới đó, Huy Ban nhất định đi coi nghĩa trang "Vĩnh Phúc" ngay sau khi uống hết ly rượu và viết mấy chữ để lại cho Bạch Liên biết là chàng tới thăm trong lúc nàng đi vắng.
Mười phút sau, xe Chàng Ba đã lướt phóng trên con đường nhỏ dẫn tới nghĩa trang hoang phế và đinh ninh rằng chuyến này nhất định phải tìm được vết tích của phe địch... vì chàng đoán được rằng bọn chúng đã bí mật dùng nghĩa trang này để chôn giấu thi thể những người đã bị thủ tiêu, lấy hết hài cốt trong những ngôi mộ cũ rồi nhét xác nạn nhân vào đó. Như vậy không ai có thể tìm ra được, nhất là nghĩa trang này lại là một nơi hoang phế chẳng bao giờ có ai lui tới.
Huy Ban chưa bao giờ đi theo đường này nên hơi bỡ ngỡ, tới mỗi ngã tư lại phải mở địa đồ ra coi. Không may, chàng chỉ mang theo một bản lộ trình tổng quát, không ghi địa điểm nghĩa trang. Vì thế Huy Ban phải ba lần dừng xe, vào những căn nhà bên đường để hỏi thêm chi tiết. Tuy phải đi lâu hơn, nhưng chắc chắn không bị lạc đường.
Gần 12 giờ khuya, Huy Ban đậu xe trước một cổng đá rêu phong mà hai cánh cửa sắt han rỉ đã cong queo, xiêu vẹo... Chiếu đèn pin vào tấm bảng, hai chữ "Vĩnh Phúc" vẫn còn rõ rệt. Chung quanh đều là tường xây, nhiều chỗ đã bị sập và các loại cây leo bao phủ dày đặc. Bởi vậy thoạt đầu chàng tưởng là bức hàng rào cây.
Quan sát qua loa rồi chàng lái xe tới một lùm cây gần bờ tường cách đó chừng 200 thước và cho xe ẩn kín...
Trở lại cổng nghĩa trang, tay cầm đèn soi lối đi, Huy Ban lững thững đi vào phía trong. Những cây cổ thụ trồng hai bên đường cành lá um tùm che lấp ánh trăng làm cho chàng có cảm tưởng đang đi dưới một đường hầm mà các thân cây là những cây cột cao vút, tạo thành một cảnh tượng kỳ ảo và ghê rợn, cuối đường là khu mồ mả rêu cỏ bao trùm, lác đác xen lẫn bụi rậm. Các nóc mồ và thập giá nhiều cái đã gãy, nhiều mảnh tường xiêu vẹo nhô lên rõ rệt dưới ánh trăng. Cây cỏ và côn trùng rên rĩ khóc than theo tiếng gió âm u...
Huy Ban tự nhiên thấy rợn người. Chàng bỏ đèn pin vào túi quần rồi rút cây súng sáu cầm chặt trong tay phải, lăm lăm sẵn sàng nhả đạn... Nhẹ nhàng êm bước trên lối đi, quan sát một lượt tất cả các ngỏ ngách trong nghĩa trang.
Chữ khắc trên bia đá đều đã phai mờ trước các mộ phần, nhưng trái lại trên những tấm bảng đồng chữ khắc còn khá rõ: tên người quá cố, ngày tháng...v...v.. Huy Ban chỉ đi lướt qua chứ không ngừng lại đọc các bia và bảng. Hơn mười lăm phút rồi chàng cũng chưa đi coi được là bao, mới được chừng khoảng một phần ba nghĩa trang. Lúc đó chàng mới thấy đây là khu đất rộng lớn, phải có nhiều thì giờ và vào lúc ban ngày mới có thể đi quan sát tường tận các ngôi mộ được. Vì thế mà hồi tháng trước, hai nhân viên cảnh sát đã phải nản chí, họ chỉ quan sát sơ sài rồi trở về làm báo cáo đổ lỗi cho người du khách ngủ đêm tại đó cho rằng ông ta đã mê ngủ và say rượu...
Trong khi dừng chân suy nghĩ bỗng nhiên Huy Ban thấy một luồng ánh sáng màu vàng chiếu ra từ ngôi đình cách chỗ chàng chừng năm chục thước, rồi có tiếng người thì thào và ánh sáng tắt phụt ngay.
Chàng ngồi thụp xuống ẩn mình sau một tấm bia có cây leo bao phủ, chăm chú nhìn về phía trước mặt và thấy hai người bước ra khỏi đó. Họ đi rất êm và nói nhỏ với nhau những gì không nghe rõ. Chàng đoán ngay rằng đây là bọn người mà người du khách lạc đường đã nhìn thấy hồi tháng sáu. Là bọn cường đạo tới chôn giấu của cải đã trộm cướp hay là bọn gián điệp tới chôn giấu xác người?
Vì chưa biết rõ chúng thuộc loại nào nên mặc dù tay cầm súng, Huy Ban đành ngồi im nhìn hai bóng đen thoát ra khỏi nghĩa trang và tiếc rằng không dẫn thêm một nhân viên đi theo mình để tiện bề đối phó.
Mấy phút sau có tiếng động cơ rú lên, tiếp đến là tiếng xe hơi chuyển bánh ở phía bên ngoài cổng, xe đó dần dần chạy xa rồi mất hút trong đêm tối. Huy Ban tự hỏi không biết chúng đã giấu kín chiếc xe đó ở đâu mà chàng không nhìn thấy khi tới nghĩa trang?
Không bỏ phí giây phút nào, Huy Ban bước tới ngôi đình để coi xem hai người bí mật kia đã tới đó làm gì. Tới cửa, chàng thấy một tấm bảng đồng lớn khắc ba chữ "Lộc Di Tộc" treo gần sát nóc. Chính giữa là một bàn thờ đổ nát, những cốt vòng hoa cườm đã han rỉ và những mảnh vỡ đồ sứ nằm ngổn ngang...
Huy Ban chiếu đèn và đi vòng ra sau bàn thờ, một cửa hầm lộ ra nằm ngay phía dưới bàn thờ. Chàng lần theo bậc đi xuống một cách thận trọng, một tay chiếu đèn, một tay chĩa súng đã lên đạn sẵn.
Hết bậc thềm, tới một con đường hẹp dẫn tới một cái sân hình tròn mà xung quanh là những lổ hổng đào trên tường, ăn sâu vào trong nền đất, tất cả trông hệt như những ngăn lổ đều đặn, liền nhau và nối trong một tổ ong. Chỉ có chín lổ bỏ trống, còn những lổ kia đều bịt kín vì hầm này cũng là một bộ phận của nghĩa trang, các lổ đều là phần mộ của người quá cố. Huy Ban đếm được tên của mười một người khác cũng thuộc dòng họ Lộc Di trên những lổ đã bịt kín. Rồi chàng soi đèn nhìn kỹ vào phía trong những lổ bỏ trống nhưng không thấy gì ngoài những màn nhện và cát bụi. Quan sát mọi nơi: dưới chân, trên trần và trên tường cũng không tìm ra một vết khả nghi nào.
Huy Ban đứng suy nghĩ, chàng tự hỏi: bọn ấy đến đây làm gì trong đêm khuya nếu không có việc gì bí mật? Nhất định phải có lý do quan trọng. Chúng xuống hầm này là để chôn giấu một cái gì, nếu chưa tim ra chỗ chôn giấu đó chính vì chàng chưa quan sát tỉ mỉ và tường tận mà thôi. Và chợt nhớ ra ban nãy mới nhìn sơ qua mấy tấm bảng đá trên những cửa lổ đã bịt kín khắc tên người quá cố an nghỉ giấc ngàn thu trong đó, chàng liền soi đèn vào từng căn và thấy một điểm khả nghi ở tấm bảng cuối cùng, tức là ngôi mộ của người sau chót trong họ Lộc Di an táng dưới hầm này. Tấm bảng này tuy đã cũ kỹ nhưng vết gắn ở xung quanh rõ rệt là còn mới, vết gắn này rất nhỏ, phải nhìn thật kỹ mới nhận ra được. Chàng chiếu đèn xuống dưới chân, cúi nhìn xuống và tìm được mấy mẫu xi măng còn ướt.
Huy Ban lại nhìn vào tấm bảng đá vừa đưa móng tay cạo cạnh xi măng thí thấy còn ướt mềm. Biết rằng chúng vừa đục cửa ngôi mộ này ra để giấu một cái gì trong đó, chàng liền rút dao thủ thân lúc nào cũng mang theo trong túi, lấy mũi dao nạy tấm bảng. Vì xi măng còn ướt nên tấm đá này bật tung ra ngay, chàng cầm tấm bảng, cúi đặt xuống chân rồi đứng nhìn cỗ áo quan bằng gỗ đã lộ ra rõ rệt. Huy Ban tự hỏi: bọn chúng đã giấu cái gì trong chiếc quan tài này? Của cải hay tài liệu? Chàng nghĩ rằng vi phạm mồ mả của người khác là một tội ác, bọn người bí mật này đã cả gan làm việc đó nhưng chàng không thể tiếp tục làm như vậy. Tốt hơn hết là hãy gắn lại tấm bia đá, rồi về báo cho Sở Cảnh sát biết và đưa họ tới khám nghiệm. Từ bây giờ đến sáng mai, chắc bọn chúng không trở lại nữa đâu, vì chúng tin rằng không thể có ai biết được việc chôn giấu bí mật này.
Sau khi đã suy nghĩ như trên, Huy Ban cầm tấm đá đưa lên, nhưng khi vừa đặt tấm bia vào chỗ cũ thì một tiếng động phát ra làm chàng giật mình, tim đập mạnh...
Huy Ban vội tắt đèn, đi lùi trở lại, dựa lưng vào bức tường đối diện, chĩa súng ra phía cửa hầm...
Nửa phút sau, chàng đã hoàn toàn định thần bình tĩnh lại và thấy căn hầm vẫn yên tĩnh như lúc đầu. Huy Ban tự nhủ rằng, có lẽ vừa rồi chỉ là tiếng chân của một con chuột hoặc thằn lằn chạy vụt. Chàng định bấm nút cho đèn sáng lên nhưng tiếng đó lại phát ra, lần này rõ rệt hơn. Một tiếng rên rỉ từng hơi ngắn ba bốn giây một rồi có vẻ bế tắc như bị một vật gì đó bóp nghẹt, đồng thời một tiếng khác kèm theo như nghe tiếng xé một mảnh lụa mỏng. Huy Ban lắng nghe, toàn thân chàng lạnh toát và run lẩy bẩy trong khi vẫn giữ chặt tay đèn tay súng và hầm vẫn tối đen.
Hai loại tiếng rên rỉ và sột soạt vẫn tiếp diễn mỗi lúc càng rõ rệt hơn. Đứng nghe thêm ba phút và không thấy động tĩnh gì khác nữa, Huy Ban bèn bật đèn lên bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy tới. Chàng tiến ra phía cửa hầm, tay súng vẫn sẵn sàng nhả đạn. Nhưng càng tiến xa, chàng thấy tiếng ấy nhỏ dần. Chàng lại trở về chỗ cũ và lại nghe rõ tiếng rên rỉ và tiếng sột soạt như trước. Chàng hết sức chăm chú lắng nghe chàng càng nhận thấy rằng tiếng rên rỉ đó có vẻ là tiếng người... một kẻ đã kiệt lực và rất đau đớn...
Một lần nữa Huy Ban cảm thấy vô cùng ghê rợn nhưng cũng hết sức tự trấn tĩnh và tiến sát lại đầu chiếc quan tài vẫn còn để lộ. Chàng áo tai vào nghe và thấy đúng là tiếng rên rĩ phát ra từ trong đó.
Vô cùng kinh ngạc, chàng đặt súng và đèn xuống đất, rồi đứng lên thọc xen hai tay vào lổ và trổ hết sức để lôi cái áo quan ra. Hì hục gần mười lăm phút, Huy Ban mới kéo được ra khỏi lổ vì nó rất nặng và bị vướng nhiều mà chàng chỉ có một mình.
Khi chiếc quan tài đã được đặt xuống sàn hầm, Huy Ban đứng thẳng người lên để thở, toàn thân mồ hôi nhễ nhại. Tiếng rên rỉ vẫn tiếp tục phát ra từ trong đó, từng hồi ngắn.
Đứng thở ba bốn phút, rồi Huy Ban đóng lưỡi dao lớn và mở lưỡi "tournevis" ra để vặn bốn cái đinh ốc ở bốn góc nắp quan tài. Trong lúc chàng hì hục làm việc đó, mồ hôi vẫn tiếp tục toát ra ướt đẫm quần áo và đầu tóc thì tiếng kêu rên bên trong mỗi lúc một nhỏ dần. Vặn xong bốn cái ốc, chàng nhấc bổng nắp áo quan và đặt xuống đất, rồi vội vã cầm đèn soi vào.
Huy Ban giật nảy người và kinh ngạc vô cùng khi nhìn thấy cái xác nằm trong không phải thây ma, nhưng là một người bị chôn sống... một phụ nữ. Trừng mắt nhìn kỹ vào mặt người đàn bà ấy, chàng nhận ngay ra Bạch Liên. Nàng đã bất tỉnh nhưng toàn thân còn nóng hổi, mắt trợn ngược, mặt tái xanh, hai tay còn cử động, các ngón tay còn nắm giữ những miếng lụa bị xé rách nát - tấm lụa mà bọn sát nhân dùng để cuộn chặt nàng lại trước khi bỏ vào quan tài.
Chàng không bỏ phí giây phút nào, Huy Ban vội bế xốc nàng ra khỏi áo quan, đặt nằm dài trên mặt sàn hầm và dùng phương pháp thở nhân tạo để làm cho nàng hồi tỉnh.
Một lát sau, Bạch Liên bắt đầu thở đều, cặp môi mấp máy và máu bắt đầu chảy lên mặt. Rồi toàn thân nàng bắt đầu nhẹ nhàng cử động và chớp mắt nhiều lần... Sau cùng nàng tỉnh hẳn, nhìn thẳng vào Huy Ban đầy ngạc nhiên:
- Anh... anh... Đây là đâu? Chuyện gì vừa xảy ra?... Tại sao anh tìm được em ở đây?
Huy Ban đưa ngón tay lên miệng và nói nhỏ:
- Nguy hiểm lắm. Im ngay! Em ráng đứng lên xem có thể đi ra khỏi đây được không.
Chàng đỡ nàng đứng dậy, nhưng chân nàng không có giày và lảo đảo đứng không vững.
- Đầu em nhức nhối và chóng mặt lắm.
Huy Ban ôm chặt lấy Bạch Liên cho nàng khỏi ngã, rồi khẽ hỏi:
- Em có nhớ được những sự việc đã xảy ra không?
Nàng lắc đầu. Nhưng chàng đoán được là bọn chúng đã tiêm thuốc mê cho Bạch Liên, bỏ vào áo quan, rồi mang đến đây chôn sống... Rất may là Trời đã dẫn dắt chàng tới nghĩa trang, rồi tìm ra được cái hầm này và giải cứu kịp thời.
Mười phút sau, nàng đã tỉnh táo hơn. Huy Ban bỏ súng vào túi áo, cúi xuống lượm cây đèn rồi dìu Bách Liên ra khỏi hầm. Nàng hỏi nhiều lần:
- Đây là đâu hả anh?
Nhưng chàng nín lặng không trả lời. Lên tới mặt đất, Huy Ban tắt đèn và đặt nàng ngồi xuống phiến đá ở trước cửa ngôi đình. Dưới ánh trăng, Bạch Liên nhìn thấy rõ những mồ mả và cảnh vật của nghĩa trang, lúc đó nàng mới biết rõ mình đang ở đâu và thốt lên:
- Trời ơi! Té ra bọn chúng bắt cóc em và mang chôn sống tại nghĩa trang này.
- Đúng vậy. Nhưng thôi, em hay giữ yên lặng về nhà sẽ nói hết câu chuyện.
Nghe chàng nói xong, Bạch Liên nức nở khóc, rồi ngất xỉu vì quá xúc động. Huy Ban phải cố hết sức để bồng nàng ra khỏi nghĩa trang và đặt lên ghế sau xe, rồi ngồi đợi cho nàng hồi tỉnh. Bạch Liên vẫn nức nở...
- Anh van em. Hãy nằm im, đừng cử động và đừng nói gì cả. Nếu bọn chúng trở lại thì vô cùng nguy hiểm.
Chàng đóng chặt cửa xe rồi nhảy lên cầm lái và rồ máy. Nửa phút sau, chiếc xe lướt êm trên đường về Pha tích.
Mười phút sau, khi đi ngang qua một thị trấn nhỏ, Huy Ban cho xe đi chậm lại để tìm một bác sĩ. Giờ đó, ông ta đang ngủ trên lầu. Chàng bấm chuông liên hồi cho tới lúc bác sĩ xuống mở cửa và cáu gắt ầm ĩ. Huy Ban vội trình chứng minh thư của Sở An ninh, và ngọt ngào trình bày với ông ta:
- Cô này cũng là nhân viên của Sở, vừa bị bọn cường đạo bắt cóc, đánh thuốc mê... Tôi được tin rượt theo. Chúng hoảng sợ, liệng cô ta giữa đường để dễ tẩu thoát...
Bác sĩ vào xe khám nghiệm sơ qua rồi bảo Huy Ban vực nàng vào phòng khách - lúc đó Bạch Liên đã mê man trở lại vì trong người vẫn còn nhiễm nhiều độc dược.
- Không có gì đáng ngại. Cô ta chỉ bị chúng tiêm vào người một liều thuốc ngủ khá nặng. Bây giờ tôi cho nôn ra hết và tiêm thuốc hồi sinh. Ngày mai sẽ bình phục hẳn.
Rồi ông nhờ Huy Ban phụ giúp cho uống thuốc nôn và tiêm cho nàng một liều thuốc khỏe. Gần nửa giờ sau Bạch Liên hồi tỉnh và thấy dễ chịu hơn nhiều.
Sau khi trả tiền và cảm ơn bác sĩ xong xuôi, Huy Ban dìu Bạch Liên ra xe để trở về Pha tích. Trong khi xe lướt phóng, chàng hỏi:
- Em đã nhớ lại được các sự việc đó chưa?
- Bây giờ em dần dần nhớ ra rồi: Chiều nay vào khoảng 5 giờ, lúc đi chơi về, em thấy trên bàn phòng khách có một mảnh giấy đánh máy dưới ký tắt hai chữ "DP", hẹn em tới công viên chiến thắng hồi 9 giờ tối nay ở phía sau Đài Chiến sĩ. Em tưởng là anh hẹn gặp em tại đó...
Huy Ban tức tối:
- À ra chúng đã biết rõ chuyện của chúng mình, nên lợi dụng ngay để đánh lừa em. Rồi sau đó xảy ra những gì nữa?
Bạch Liên nói thêm:
- Em tưởng rằng vì thận trọng nên anh đã đánh máy chứ không viết tay, để đề phòng lỡ có kẻ bắt được mảnh giấy đó...
- Rồi sao nữa?
- Đọc xong, em ra đi ngay. Lúc đó khoảng 7 giờ tối. Tới công viên, em tiến về phía Đài Chiến sĩ vì thấy một xe hơi tương tự như xe anh đậu sẵn tại đó. Chỗ ấy không có đèn, và nhờ ánh trăng, em thấy một người ngồi trong xe giơ tay vẫy em, miệng huýt sáo, điệu bộ giống hệt như anh mỗi lần anh tới nhà em tại Trung tâm - đứng ngoài cửa và huýt sáo. Rồi hắn mở cửa... Tưởng là chính anh ngồi đợi sẵn, em vội vàng bước lên xe...
Huy Ban hằn hộc:
- À, té ra bọn chúng theo dõi chúng mình từ lâu nên mới biết rõ từng chi tiết như vậy.
Nàng kể tiếp:
- Chưa kịp ngồi, em nhìn kỹ vào hắn và giật mình... vì thấy không phải là anh. Định mở cửa nhảy ra, nhưng không kịp nữa vì một tên khác ngồi ẩn kín dưới sàn xe đứng ngay lên ghì chặt lấy em rồi chụp đống bông ướt vào mũi... có lẽ là thuốc mê... và em loạng choạng ngã xuống ghế, bất tỉnh từ phút đó. Lúc hơi tỉnh thì thấy mình bị bó chặt và nằm trong một chỗ chật hẹp như một cái thùng, hoàn toàn tối đen và bịt kín đến nghẹt thở... Rồi cứ mê mê tỉnh tỉnh trong cảnh đó, tới lúc anh đến giải cứu.
Huy Ban vẫn bực tức, vừa lái xe, vừa suy nghĩ. Sau cùng, chàng dặn Bạch Liên:
- Em không nên trở về chỗ cũ, hãy đi thuê phòng ở một khách sạn, lấy một cái tên giả và hết sức giữ kín không để cho bọn chúng biết là em đã thoát nạn trở về. Em có biết khách sạn nào ở Pha tích sẵn sàng nhận cho em mướn phòng vào giờ này không? Nhất là khi em không có hành lý trong tay.
- Nhưng em không có đồng nào trong túi... và phải bịa ra một câu chuyện hợp lý để nói với họ.
- Anh có tiền đây. Còn câu chuyện thì em cứ nói là em đi chơi khuya... và bị mất xe trong lúc dừng lại đi tiểu tiện. Lấy tên giả là Đan Thanh, nguyên quán ở Dạ Sơn.
Nàng ngồi lẩm nhẩm nhiều lần: "Đan Thanh... Dạ Sơn", để nhớ cho thật chắc chắn.
Về tới Thị trấn Pha tích, xe chạy lung tung một lúc, với mục đích quan sát xem có bọn nào theo dõi ở phía sau không. Rồi Bạch Liên chỉ đường cho Huy Ban lái tới địa điểm là một khách sạn gần bờ biển.
Xe dừng lại, Bạch Liên mở cửa bước xuống. Đi được mấy bước, nàng vội quay trở lại.
- Anh phải hôn em đã!
Huy Ban chiều ý nàng và dặn thêm:
- Em phải đóng kín cửa và nằm lì trong phòng. Không được đi đâu trước khi anh trở lại.
Nàng khôi hài trả lời:
- Vâng. Xin tuân lệnh Thiếu tá.
Rồi hai người chia tay. Bạch Liên tiến nhanh về phía khách sạn và không gặp cản trở gì trong việc mướn phòng. Huy Ban đợi một lúc không thấy nàng trở ra, chàng yên tâm lái xe tới ga xe lửa vì biết rõ ở đó có phòng điện thoại công cộng.
Chàng quay máy để gọi về Trung tâm cho Hồ Anh:
- Đây Đại Tá Bảo Đình. Ai gọi đấy?
- Thiếu Tá Diên Phi. Tôi cần gặp anh ngay, việc tối khẩn cấp. Đợi tôi một lát sẽ về tới Trung tâm, rồi chúng ta cùng đi...
- Đi đâu vào giờ khuya này?
- Tới thăm một thắng cảnh vô cùng lý thú.
- Thôi, đừng về đây nữa. Tôi sẽ đánh xe đi gặp anh. Anh đang ở đâu?
- Cửa ga Pha tích. Anh nhớ mang theo một gói xi măng. Cần lắm. Đừng quên nhé! Nghe rõ chưa?
- Rất rõ và đồng ý như vậy. Đợi 15 phút nữa tôi sẽ tới.
Huy Ban đặt máy xuống rồi đi vào quán trong ga, gọi một ly cà phê đặc và ngồi xuống trong khi đợi Hồ Anh. Giờ đó, sân ga cũng như đường phố đều vắng như sa mạc. Trăng sáng tỏ, mọi vật đều hiện rõ như ban ngày.
Hồ Anh phóng xe như bay, và tới nhà ga rất đúng giờ, không sai lấy một phút. Huy Ban chạy ra đón và hỏi ngay:
- Có xi măng đấy không?
Hồ Anh giơ lên một gói nhỏ và mĩm cười hỏi:
- Bằng này có đủ không?
- Thưa đủ. Chỉ cần nửa gói đó thôi.
Hai người trở vào quán. Huy Ban gọi thêm cà phê và mua sẵn một chai nước. Uống xong, hai người đi ra, mang theo chai nước và gói xi măng.
Huy Ban bảo Hồ Anh khóa xe và để lại ở cửa ga. Rồi hai người lên xe tiến về phía nghĩa trang "Vĩnh Phúc"
- Chúng ta đi đâu bây giờ?
- Đến một nghĩa trang để gặp tử thần.
- Anh nói gì lạ?
- Không giỡn đâu. Để tôi kể anh nghe.
Và Huy Ban lần lượt kể lại tất cả những sự việc xảy ra từ chiều hôm trước, về phía chàng cũng như về phía Bạch Liên. Xe phóng như bay, vì giờ đó đường hoàn toàn vắng và tới cổng nghĩa trang đúng lúc Huy Ban kể xong câu chuyện.
Chưa hết ngạc nhiên, Hồ Anh hỏi thêm:
- Anh có biết chắc chúng giấu xác Yên Lịch và Y Văn trong nghĩa trang này không?
- Chắc 99 phần trăm.
- Nhưng tôi không hiểu, chúng định giết Bạch Liên để làm gì?
- Tôi cũng vẫn chưa hiểu.
Nghĩ vài phút rồi Huy Ban nói tiếp:
- Theo ý tôi, có lẽ chúng muốn cứu Hòa Lạc. Bạch Liên chết thì vụ án của Hòa Lạc cũng chết theo, tức là khi ra tòa hắn sẽ vô tội.
Hồ Anh suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Dù Bạch Liên có bị thủ tiêu thì Tòa án cũng không phán đoán một cách hồ đồ. Hòa Lạc không thể nào bị kết án, giả thiết là Sở An ninh chúng ta buộc tội hắn một cách nặng nề.
- Tôi cũng chỉ phỏng đoán là Hòa Lạc sau khi được tự do tạm đã bắt liên lạc với bọn chúng, và xúi giục bọn chúng giết Bạch Liên để trả thù.
- Tôi không tin như vậy. Bọn chúng không dại dột gì mà nhúng tay vào chuyện thù hằn cá nhân. Trừ phi Hòa Lạc đã đứng trong hàng ngũ của chúng từ lâu.
Xe tiến vào nằm dưới lùm cây lúc trước. Hai người nhẹ nhàng bước ra sau khi chia nhau cầm theo các vật liệu và dụng cụ cần thiết: túi đồ sửa xe, chai nước, gói xi măng - rồi đi vào nghĩa trang, thẳng tới ngôi đình.
Trăng vẫn còn sáng tỏ, cảnh hoang vu điêu tàn và rùng rợn làm Hồ Anh phải nói thầm vào tai Huy Ban:
- Đúng như anh đã tả cho tôi nghe trong lúc gọi điện thoại.
Huy Ban im lặng dấn bước, đi nhanh hơn trước và chăm chú quan sát và thấy tất cả đều nguyên như lúc chàng đưa Bạch Liên ra khỏi nghĩa trang.
Tới sân đình, Huy Ban nói nhỏ:
- Bây giờ chúng ta bắt tay vào việc. Trước hết, đối với chiếc quan tài đựng "xác" Bạch Liên, cần giữ lại cái nắp để đưa về Sở xét nghiệm các dấu tay. Còn thân quan tài thì đưa vào lổ và bịt lại như cũ. Sau đó, chúng ta sẽ đục những lổ sát cạnh "mồ" Bạch Liên để tìm thi hài Yên Lịch và Y Văn.
Hồ Anh gật đầu rồi theo gót Huy Ban xuống hầm. Hai người nâng cái thân "quan tài Bạch Liên" lên rồi đặt vào lổ, xong lấy nước chế xi măng để gắn tấm bảng đá. Nắp áo quan được đưa ra dựng ở chân bậc lên xuống. Tiếp theo, hai người tiếp tục đục ở hai "mồ" sát bên.
Nửa giờ sau, hai chiếc quan tài đã nằm trên sàn hầm. Khi mở nắp, hai người nhận đúng hai xác trong đó là xác Yên Lịch và Y Văn. Nét mặt xám đen và dáng điệu của hai thân hình chứng tỏ rằng hai nhà bác học đã bị chết ngạt sau khi bị chúng đánh thuốc mê rồi bỏ vào quan tài mang chôn sống tại đây. Xác của họ chưa bị phân hủy nên không có mùi hôi thối.
Sau đó, hai người đậy nắp quan tài, vặn đinh ốc trở lại như cũ, rồi đặt vào hai huyệt và gắn lại hai tấm bia. Tiếp theo đó là việc xóa bỏ hết mọi vết tích để làm cho chỗ đó trở lại tình trạng bình thường như không có ai bước tới ngôi đình và căn hầm này vậy.
Hai người trở ra xe. Huy Ban vác cái nắp áo quan, Hồ Anh xách hai túi dụng cụ và vật liệu...
Chiếc xe rồ máy phóng lướt trở về Pha tích. Trên đường về, hai người tiếp tục thảo luận, Hồ Anh hỏi:
- Tôi không hiểu tại sao bọn chúng tàn nhẫn đến mức mang người đi chôn sống như vậy?
Huy Ban nghiêm nghị trả lời:
- Chuyện đó rất dễ hiểu. Chúng không thể làm cách khác được, tức là chúng phải đánh thuốc mê, dùng liều thật nặng cho nạn nhân bất tỉnh trong một thời gian khá lâu, chừng 2-3 giờ, rồi bỏ lên xe chở đến nghĩa trang. Như vậy là để nếu bị chặn lại ở giữa đường vì một lý do gì, chúng có thể trả lời rằng xe ô tô chở người say rượu mê man bất tỉnh. Nếu xe chở xác chết thì chúng có thể bị bắt giữ dễ dàng.
- Nhưng chúng bỏ nạn nhân vào áo quan ở địa điểm nào trước khi mang chôn dưới hầm?
- Chúng không cần làm như vậy. Có lẽ chúng cho mấy tên đến nghĩa trang nửa giờ trước, đục một ngôi mộ dưới hầm, lôi quan tài ra rồi lấy hết hài cốt cho vào bao bố, bọn sau sẽ mang nạn nhân đến bỏ vào quan tài trống này... Sau hết, bọn chúng mang bao đựng hài cốt kia liệng xuống một con sông nào đó khi trở về... Mà có lẽ cũng không phải là các bộ xương. Chôn kín dưới hầm như vậy thể xác không bị phân hóa mà khô đét lại dần dần. Xác khô ấy sẽ chìm xuống đáy sông...
- Thật là bọn quỷ sống! Vừa chôn người sống, vừa tiêu hủy hài cốt người chết: cùng một lúc phạm hai tội ác ghê gớm.
Huy Ban gật đầu. Mấy phút sau Hồ Anh nói tiếp:
- Có lẽ chúng đã chôn sống nhiều người bằng cách đó, chứ không riêng hai nhà bác học của ta. Biết đâu trong hầm còn nhiều xác nạn nhân khác.
Rồi chàng đề nghị:
- Hay là chúng ta trở lại nghĩa trang khảo sát hết tất cả các "mồ" xem sao...
Huy Ban mỉa mai:
- Thôi, con van cha nội! Mệt quá rồi, đợi một ngày khác...
Xe vẫn bon bon chạy hết tốc lực trên con đường xuyên sơn nhỏ hẹp dưới ánh trăng gần về sáng...