CHƯƠNG 9
Không khí quanh hành tinh thứ hai của hệ Sao Ếch hết sức tù tàng và ô nhiễm.
Những làn gió tăm tối không ngừng thổi trên bề mặt của hành tinh này, lướt qua những lòng hồ muối, những đầm lầy đã khô cạn, những bụi cây chằng chịt thối rữa, và tàn tích đổ nát của những thành phố bị phá hủy. Không có sự sống nào chuyển động trên bề mặt hành tinh. Mặt đất, giống như bề mặt nhiều hành tinh ở vùng này của Ngân Hà, đã bị bỏ hoang từ lâu.
Tiếng gió hú đã thê lương lắm rồi khi nó thổi qua những ngôi nhà mục nát của các thành phố; nó lại càng thê lương hơn khi quét qua chân các tòa tháp cao đen sì chông chênh chao đảo đây đó trên bề mặt hành tinh này. Trên đỉnh các tòa tháp này là chỗ ở của những đàn chim lớn, hôi thối, khẳng khiu, kẻ sống sót duy nhất của nền văn minh đã từng tồn tại nơi đây.
Nhưng tiếng gió hú nghe thê lương nhất khi nó thổi qua một tòa nhà nhìn như một cái mụn, đặt giữa một cánh đồng mênh mông xám xịt bên ngoài thành phố bỏ hoang rộng nhất.
Tòa nhà nhìn như cái mụn ấy chính là thứ đã khiến hành tinh này được mệnh danh là nơi mười phần độc ác nhất Ngân Hà. Từ bên ngoài nhìn vào, nó chỉ là một nhà vòm thép đường kính khoảng mười mét. Nhìn từ bên trong thì nó lại là một thứ khủng khiếp hơn cả tâm trí con người có thể hiểu nổi.
Cách đó chừng một trăm mét, cách một khoảng đất lỗ chỗ cháy sém và trơ trọi nhất có thể tưởng tượng được, là cái đành phải tạm gọi là một dạng bãi hạ cánh. Tức là ở đó, nằm rải rác trên một khoảng rộng, là những khối chù ụ đổ nát của hai hay ba tá tòa nhà đã bị thả rơi.
Lướt qua và lượn xung quanh những tòa nhà này là một tâm trí, một tâm trí đang chờ đợi cái gì đó.
Tâm trí này chuyển sự chú ý vào không trung, và chẳng mấy chốc một chấm đen đằng xa hiện ra, bao quanh là một vòng những chấm nhỏ hơn.
Chấm to hơn chính là tòa tháp bên trái của văn phòng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà , đang lao qua tầng bình lưu của hành tinh Sao Ếch B.
Trong khi tòa tháp hạ độ cao, Roosta đột nhiên phá vỡ sự im lặng lúng túng đã nảy sinh giữa hai người nãy giờ.
Ông ta đứng dậy và cho khăn tắm vào một cái túi. Ông ta nói:
“Beeblebrox, giờ tôi sẽ làm cái việc mà tôi đã được cử đến đây để làm.”
Zaphod ngước lên nhìn ông ta từ cái góc mà gã đang ngồi chia sẻ những ý nghĩ không thành lời với Marvin.
“Gì?” gã hỏi.
“Tòa nhà sắp hạ cánh. Khi anh ra khỏi đây, đừng ra bằng cửa,” Roosta nói, “mà hãy ra bằng cửa sổ.”
“Chúc may mắn,” ông ta nói thêm và bước ra khỏi cửa, biến mất khỏi cuộc đời Zaphod một cách bí ẩn cũng như khi ông ta xuất hiện.
Zaphod nhảy bật dậy và thử mở cửa, nhưng Roosta đã khóa cửa. Gã nhún vai và quay về góc phòng.
Hai phút sau, tòa nhà rơi đánh sầm xuống giữa những đống đổ nát khác. Các Chiến Cơ Sao Ếch tắt tia lực đi và lại lao vút lên không trung, hướng về hành tinh Sao Ếch A, một nơi hiền hòa hơn nhiều. Chúng không bao giờ hạ cánh xuống hành tinh Sao Ếch B. Không phi thuyền nào hạ cánh xuống đó cả. Không ai đặt chân lên bề mặt của nó ngoại trừ các nạn nhân sắp tới của Vòng Xoáy Tầm Nhìn Toàn Cảnh.
Zaphod bị chấn động mạnh sau cú rơi. Gã nằm yên giữa căn phòng giờ chỉ còn là một đống gạch vữa im lìm. Gã cảm thấy đời mình đang ở vào lúc thảm hại nhất. Gã thấy bối rối, cô đơn, bị ruồng bỏ. Cuối cùng gã cảm thấy phải vượt qua bằng được cho dù chuyện này là gì đi nữa.
Gã nhìn quanh căn buồng đổ nát. Tường đã nứt quanh khung cửa, và cánh cửa giờ hé mở. Còn cửa sổ, nhờ một phép mầu nào đó, lại vẫn đóng kín và nguyên vẹn. Gã chần chừ hồi lâu, rồi nghĩ rằng nếu người bạn đồng hành kỳ lạ ban nãy đã chấp nhận kinh qua bao sóng gió vừa kinh qua chỉ để nói với gã điều ông ta vừa nói, thì chắc phải có lý do chính đáng. Nhờ Marvin giúp gã mở được cửa sổ ra. Bên ngoài cửa sổ, đám mây bụi bốc lên sau vụ hạ cánh, cùng đống đổ nát của những tòa nhà khác bao quanh, khiến Zaphod hoàn toàn chẳng thấy tí nào thế giới ngoài kia.
Cũng chẳng phải gã lấy sự này làm bận. Điều duy nhất khiến gã băn khoăn là cái gã thấy khi nhìn xuống. Văn phòng của Zarniwoop nằm trên tầng mười lăm. Tòa nhà đã cắm xuống theo một góc khoảng bốn mươi lăm độ, nhưng vẫn cứ là độ cao nom đứng cả tim.
Sau rốt, tự ái vì cả loạt liên tiếp những cái nhìn khinh bỉ mà có vẻ là Marvin đang ném cho gã, gã hít một hơi thật sâu và trèo ra ngoài sườn dốc đứng của tòa nhà. Marvin đi theo gã, và cả hai bắt đầu bò, chậm rãi và khó nhọc, xuống mười lăm tầng nhà nằm giữa họ và mặt đất.
Trong lúc gã bò xuống, không khí ẩm thấp và bụi bặm bóp nghẹt phổi gã, mắt gã cay xè, và độ cao khủng khiếp khiến hai cái đầu của gã quay mòng mòng.
Chốc chốc Marvin lại bồi thêm mấy câu kiểu “Đây là việc mà sinh vật sống các ông thích làm hả? Tôi hỏi cho biết thôi”, chẳng khiến gã phấn chấn hơn chút nào.
Xuống đến khoảng giữa tòa nhà đổ nát, họ dừng lại nghỉ. Trong lúc nằm đó thở hồng hộc vì mệt và sợ, Zaphod có cảm giác Marvin hình như hơi vui hơn thường lệ một tẹo. Nhưng rồi gã nhận ra không phải thế. Tên người máy chỉ có vẻ vui hơn tâm trạng của chính gã mà thôi.
Một con chim to lông đen gầy guộc đập cánh bay đến, xuyên qua những đám mây bụi đang dần lắng xuống, rồi nó vươn đôi chân khẳng khiu ra đáp xuống một bậu cửa sổ xiêu vẹo cách Zaphod vài thước. Nó xếp cặp cánh cồng kềnh lại và lảo đảo trên chỗ đậu.
Sải cánh của nó chừng mét tám, còn đầu và cổ nó thì có vẻ to đến kỳ lạ so với một con chim. Mặt nó phẳng dẹt, mỏ chưa phát triển hết, và ở giữa mặt dưới cánh vẫn còn thấy vết tích của thứ gì đó nhìn như hai bàn tay.
Thực ra, nhìn nó gần như người.
Nó đưa cặp mắt sùm sụp nhìn Zaphod và gõ mỏ một cách mơ hồ.
“Xéo đi,” Zaphod nói.
“Ô kê,” con chim rầu rĩ làu bàu rồi lại đập cánh bay vào đám bụi.
Zaphod ngỡ ngàng nhìn theo nó.
“Con chim ấy vừa nói chuyện với tao à?” gã lo lắng hỏi Marvin. Gã rất sẵn lòng tin vào lời giải đáp thứ hai, đó là thực ra gã đang bị ảo giác.
“Phải,” Marvin đáp.
“Những kẻ khốn khổ,” một giọng nói trầm trầm, siêu trần thì thầm vào tai Zaphod.
Gã quay ngoắt lại xem giọng nói đó từ đâu đến, mạnh đến nỗi suýt khiến Zaphod ngã khỏi tòa nhà. Gã bám vội vào một khung cửa sổ chìa ra, đứt cả tay. Gã bám chắc vào đó và thở mạnh.
Giọng nói đó không phát ra từ một nơi nào cụ thể cả - không có ai đang đứng đó. Nhưng giọng nói vẫn tiếp tục.
“Đằng sau chúng là một lịch sử bi đát vô cùng, anh biết không. Một mối họa khủng khiếp.”
Zaphod điên cuồng nhìn quanh. Giọng nói rất trầm và khẽ. Trong các tình huống khác thì nó còn có thể được miêu tả là êm dịu nữa kia. Nhưng chẳng có gì là êm dịu khi phải nghe một giọng nói không người chẳng biết từ đâu ra, nhất là khi ta, như Zaphod Beeblebrox đây, đang vào lúc kém phong độ nhất và phải lơ lửng bám vào một rìa cửa trên một tòa nhà đổ cách mặt đất tám tầng.
“Này, ờ…” gã lắp bắp.
“Tôi kể anh nghe chuyện của họ nhé?” giọng nói khẽ hỏi.
“Ê, mày là ai?” Zaphod hổn hển. “Mày ở đàu?”
“Có lẽ là để sau vậy,” giọng nói khẽ đáp. “Tôi là Gargravarr. Tôi là Người Canh Gác Vòng Xoáy Tầm Nhìn Toàn Cảnh.”
“Sao tao không thấy…?”
“Anh sẽ thấy trèo xuống tòa nhà tiện hơn vô kể,” giọng nói lên cao một chút, “nếu anh dịch sang bên trái khoảng hai thước. Có lẽ anh nên thử xem.”
Zaphod nhìn và thấy một loạt những đường xoi ngang ngăn ngắn dọc theo thân tòa nhà xuống tận mặt đất. Gã nhích sang đó một cách đầy biết ơn.
“Có lẽ tôi gặp lại anh dưới đất là hơn,” giọng nói lại vang lên trong tai gã, rồi biến mất.
“Ê,” Zaphod gọi, “mày đi đâu…?”
“Chỉ mất vài phút thôi…” giọng nói vẳng lại yếu ớt.
“Marvin này,” Zaphod thành thực hỏi tên người máy đang ngồi ủ rũ cạnh gã, “có phải… có một giọng nói vừa…?”
“Phải,” Marvin đáp gọn.
Zaphod gật đầu. Gã lại lấy cặp kính Nhạy Nguy Hiểm ra. Mắt kính đen sì hết cỡ, và bấy giờ đã hoàn toàn xước xát vì vật kim loại lạ trong túi gã. Gã đeo kính vào. Gã sẽ bò xuống tòa nhà một cách thoải mái hơn nếu không phải nhìn xem mình đang làm gì.
Mấy phút sau gã trèo qua phần móng nhà bị nhổ bật gãy nát, và, sau khi bỏ kính râm ra, gã nhảy xuống đất.
Marvin nhảy ngay sau gã rồi nằm gục mặt xuống lớp bụi lẫn gạch đá, chẳng có vẻ gì là muốn nhúc nhích khỏi vị trí đó.
“A, anh đây rồi,” giọng nói đột ngột vang lên bên tai Zaphod. “Xin thứ lỗi vì đã bỏ anh lại như thế; nhưng tôi có cái đầu kém chịu độ cao lắm. Hay ít ra,” nó thêm vào vẻ nuối tiếc, “tôi đã từng có một cái đầu kém chịu độ cao lắm.”
Zaphod nhìn quanh thật chậm rãi và cẩn thận, cốt để xem gã có bỏ sót cái gì có thể chứa đựng giọng nói đó không. Nhưng gã chỉ thấy bụi, gạch đá, và đống đổ nát cao chót vót của những tòa nhà bao quanh.
“Ờ, này, sao tao không nhìn thấy mày?” gã hỏi. “Sao mày không có đây?”
“Tôi có đây đấy chứ,” giọng nói chậm rãi đáp. “Cơ thể tôi cũng muốn đến nhưng lại đang hơi bận đúng lúc này. Nhiều việc phải làm, nhiều người phải gặp.” Sau cái nghe như một tiếng thở dài siêu trần, nó nói thêm, “Anh biết cơ thể thì thế nào rồi đấy.”
Zaphod không dám chắc.
“Tao cũng từng nghĩ là tao biết,” gã nói.
“Tôi chỉ mong là nó đã đi nghỉ tĩnh dưỡng,” giọng nói tiếp tục; “vì cứ cái lối sống như dạo gần đây thì chắc chẳng còn khuỷu tay mà đứng lâu nữa đâu.”
“Khuỷu tay ấy à?” Zaphod nói. “Ý mày là chân chứ?”
Giọng nói không lên tiếng hồi lâu. Zaphod lo ngại nhìn quanh. Gã không biết giọng nói đã biến đi hay vẫn còn đó hay nó đang làm gì. Rồi giọng nói lại cất lên.
“Vậy là anh sẽ bị cho vào Vòng Xoáy hả?”
“Ờ, thì,” Zaphod nói, cố tỏ vẻ thờ ơ nhưng rất rởm, “thằng này cũng không vội gì đâu, mày biết đấy. Tao có thể đứng chơi ngắm cảnh quanh đây một tí mà, nhỉ?”
“Anh đã thấy khung cảnh quanh đây chưa?” giọng Gargravarr hỏi.
“Ờ, chưa.”
Zaphod trèo qua đống đổ nát, quành góc một trong những tòa nhà đổ đang chắn mất tầm nhìn.
Gã nhìn ra quang cảnh của hành tinh Sao Ếch B.
“À, được rồi,” gã nói, “thế thì tao đứng chơi không thôi vậy.”
“Không,” Gargravarr nói, “Vòng Xoáy đã sẵn sàng rồi. Anh phải đi ngay. Theo tôi.”
“Hử?” Zaphod nói. “Tao theo mày kiểu gì đây?”
“Tôi sẽ ngân nga cho anh nghe,” Gargravarr nói. “Bám theo tiếng ngân nga ấy.”
Một tiếng ư ử khe khẽ vẳng đến qua không khí, một âm thanh buồn rầu nhợt nhạt dường như không có chút định hướng về đâu. Chỉ khi căng tai ra nghe kỹ thì Zaphod mới phát hiện ra nó đang đến từ đâu. Một cách chậm rãi, đờ đẫn, gã loạng choạng theo sau nó. Gã còn làm gì khác được?