CHƯƠNG 24
“Ờ, thưa cơ trưởng…”
“Gì thế; Số Một?”
“Em vừa nhận được một bản báo cáo gì gì đấy của Số Hai.”
“Ôi trời.”
Cao tít bên trên đài chỉ huy của phi thuyền, cơ trưởng nhìn ra khoảng không gian vô tận với vẻ thoáng bực bội. Từ nơi ông ta đang nằm dài bên dưới một bong bóng có mái vòm rộng, có thể thấy trước mặt và trên đầu mình một khung cảnh mênh mông những vì sao mà phi thuyền đang bay qua - số vì sao đã thưa thớt đi nhiều kể từ khi họ bắt đầu hành trình này. Khi quay người nhìn lại, ngang qua bề dài hơn ba cây số của phi thuyền, ông ta có thể thấy khối sao đằng xa dày hơn nhiều, gần như tạo thành một dải kín đặc. Nhìn về đó là trung tâm Ngân Hà nơi phi thuyền đã từ đó ra đi, và thực ra là đã ra đi trong suốt nhiều năm, với một vận tốc mà tức thời ông ta cũng không nhớ nổi nữa, chỉ biết là cực nhanh. Gần bằng vận tốc một thứ gì đó, hay là gấp ba lần vận tốc của một thứ khác nhỉ? Dù sao thì cũng khá ấn tượng. Ông ta nhìn chằm chằm khoảng không sáng rực đằng sau phi thuyền, tìm kiếm một thứ gì đó. Cứ vài phút ông ta lại làm như vậy, nhưng chẳng bao giờ tìm được thứ đó. Nhưng ông ta cũng không lấy đó làm lo lắng. Đám làm khoa học đã quả quyết với ông ta là mọi chuyện sẽ ổn thỏa hết với điều kiện không ai hốt hoảng và mọi người cứ tiếp tục làm nhiệm vụ của mình một cách quy củ.
Ông ta chẳng hề hốt hoảng. Theo như ông ta thấy thì mọi chuyện đang diễn ra tuyệt hảo. Ông ta đưa một miếng bọt biển to đầy xà phòng chấm chấm lên vai. Ông ta bỗng sực nhớ ra là mình đang hơi bực vì chuyện gì đó. Là chuyện gì ấy nhỉ? Một tiếng ho khẽ nhắc ông ta nhớ là tay cơ phó của phi thuyền vẫn đang đứng gần đó.
Anh chàng cũng không đến nỗi nào, Số Một ấy. Không thông minh lắm, thỉnh thoảng lại không nhớ cách buộc dây giày, nhưng vẫn là một sĩ quan giỏi. Cơ trưởng không phải loại người đá mông người khác khi người đó đang cúi xuống buộc dây giày, cho dù người kia có mất bao lâu đi chăng nữa. Không giống như tên Số Hai gớm chết kia, khệnh khạng đi khắp nơi, đánh bóng khuy áo, cứ mỗi tiếng đồng hồ lại báo cáo: “Phi thuyền vẫn đang vận hành, thưa cơ trưởng.” “vẫn đi đúng đường, thưa cơ trưởng.” “Lượng ôxy vẫn được duy trì, thưa cơ trưởng.” “Thôi đi,” cơ trưởng chỉ muốn nói vậy. À phải, đó chính là cái làm ông ta bực bội. Ông ta nhìn xuống Số Một.
“Vâng, thưa cơ trưởng, hắn đang hò hét cái gì đó về chuyện bắt được tù nhân…”
Cơ trưởng suy nghĩ hồi lâu. Ông ta thấy chuyện đó khá khó tin, nhưng ông ta không phải loại người cản đường sĩ quan của mình.
“Ờ, có lẽ việc đó sẽ giúp hắn vui vẻ được chút ít,” ông ta nói. “Hắn luôn muốn có tù nhân mà.”
Ford Prefect và Arthur Dent lê bước tiến vào dãy hành lang tưởng như vô tận của phi thuyền. Số Hai giậm chân sau lưng họ, thỉnh thoảng lại quát lên một câu gì đó đại ý đừng có làm gì trái khoáy hoặc dại dột. Họ đi qua dễ đến gần hai cây số vải bố nâu dán tường. Cuối cùng họ đến trước một cánh cửa thép lớn, nó trượt mở ra khi Số Hai quát nó.
Họ bước vào.
Trong mắt Ford Prefect và Arthur Dent, điều đáng chú ý nhất ở đài chỉ huy phi thuyền không phải là mái vòm hình bán cầu đường kính mười lăm mét chụp trên đầu, hay là những ngôi sao rực sáng rọi qua mái vòm xuống chỗ họ: với những người đã đến ăn ở Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ, những kỳ quan như vậy là thường. Cũng không phải là đủ thứ thiết bị đáng kinh ngạc túm tụm dọc bức tường tròn quanh họ. Trong mắt Arthur đây chính xác là kiểu thiết kế phi thuyền truyền thống, còn trong mắt Ford nó lỗi thời toàn tập: điều này khẳng định nghi ngờ của anh ta là tàu bay mạo hiểm của Miền Thảm Họa đã đưa họ lùi về một triệu, thậm chí là hai triệu năm trước thời của họ.
Không, điều khiến họ sững sờ bổ chửng chính là cái bồn tắm.
Cái bồn tắm sừng sững trên một cái bệ cao mét tám được đẽo gọt từ tinh thể nước xanh, và vẻ quái dị barốc hoa hòe hoa sói của nó thuộc loại ít gặp bên ngoài Bảo Tàng Tưởng Tượng Bệnh Hoạn Maximegalon. Một đống rối tinh lòng ruột những ống nước đã được thếp vàng thay vì bị chôn vùi phải phép trong đêm thẳm trong ngôi mộ vô danh; vòi nước và đầu hoa sen hẳn sẽ khiến lũ quỷ trang trí nhà thờ phải khóc thét.
Dùng vật này làm điểm nhấn trang trí cho đài chỉ huy của phi thuyền thì thật là vô cùng trái khoáy, và Số Hai tiến tới gần nó với cái vẻ chua chát của kẻ biết rõ điều này.
“Thưa cơ trưởng!” hắn hô lớn qua hai hàm răng nghiến chặt - làm được thế là khó lắm, nhưng hắn đã có nhiều năm luyện tập.
Một khuôn mặt to bè thân thiện và một cánh tay thân thiện đầy bọt xà phòng ló lên trên mép cái bồn tắm gớm guốc.
“A, xin chào, Số Hai,” cơ trưởng nói, vui vẻ huơ miếng bọt biển, “cậu đang có một ngày dễ chịu chứ?”
Số Hai càng đứng nghiêm hơn lúc trước.
“Tôi dẫn đến cho ngài hai tên tù nhân tôi đã bắt được ở khoang đông lạnh số bảy, thưa ngài!” hắn sủa.
Ford và Arthur hắng giọng vẻ bối rối.
“Ờ… xin chào,” họ nói.
Cơ trưởng toét miệng cười với họ. Vậy ra Số Hai đã bắt được tù nhân thật. Ờ, cũng mừng cho hắn, cơ trưởng thầm nghĩ, thật tốt khi thấy người ta làm đúng sở trường.
“À, xin chào,” ông ta đáp lại. “Xin thứ lỗi vì tôi không đứng dậy, đang tắm nhanh một cái mà. Mời tất cả một chầu jynva nuockhoang nào. Tìm trong tủ lạnh xem, Số Một.”
“Vâng, thưa ngài.”
Có một sự thật kỳ lạ, một sự thật mà không ai biết là nên coi trọng đến mức nào, đó là gần 85 phần trăm các thế giới được biết đến trong Ngân Hà, cho dù còn nguyên thủy hay đã hết sức phát triển, đều phát minh ra một thứ đồ uống có tên là jynva nuockhoang, hay gi-N-V-ANư’K-hoang, hay jinva-n-khoáng, hay một trong số hàng ngàn biến thể tên đọc từa tựa nhau như vậy. Bản thân các thứ đồ uống thì không giống nhau, biến tấu từ “chinvanuk/ hong” của Sivolvy, tức là chỉ có nước lọc bình thường ở nhiệt độ trên nhiệt độ phòng chút xíu, đến “tzjin-vanok-og” của Gagrakack, có thể giết một con bò đứng cách một trăm bước; và thực ra điểm chung duy nhất giữa chúng, ngoài cái tên nghe từa tựa nhau, đó là chúng đều được phát minh và đặt tên trước khi thế giới đó liên lạc được với bất kỳ thế giới nào khác.
Có thể suy luận được điều gì từ sự thật này? Nó tồn tại hoàn toàn đơn độc. Theo bất cứ thuyết cấu trúc nào về ngôn ngữ nó hoàn toàn nằm ngoài mọi quy luật, nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại. Các nhà ngôn ngữ học cấu trúc lớn tuổi thường rất tức giận mỗi khi các nhà ngôn ngữ học cấu trúc trẻ tuổi huyên thuyên về nó. Các nhà ngôn ngữ học cấu trúc trẻ tuổi thì lại rất thích thú và thức đến tận khuya nghiên cứu nó, tin rằng mình sắp phát hiện ra một điều cực kỳ uyên thâm, để rồi già trước tuổi và lại trở thành các nhà ngôn ngữ học cấu trúc lớn tuổi tức tối với bọn trẻ. Ngành ngôn ngữ học cấu trúc là một ngành khoa học đầy chia rẽ và chẳng vui vẻ gì, và rất nhiều người theo ngành này đã dành quá nhiều buổi tối chôn vùi nỗi sầu trong Uyshkva Sodah.
Số Hai đứng cạnh bồn tắm của cơ trưởng, run rẩy vì sốt ruột.
“Ngài không muốn thẩm vấn các tù nhân ư, thưa ngài?” hắn hỏi giọng the thé.
Cơ trưởng ngó hắn vẻ ngạc nhiên.
“Sao tôi lại phải thẩm vấn họ làm cái quái gì hở đất Golgafrincham?” ông ta hỏi.
“Để lấy thông tin của chúng, thưa ngài! Để khám phá ra vì sao chúng đến đây!”
“Ô không, không, không,” cơ trưởng nói. “Tôi đoán họ chỉ ghé qua làm một ly jynva nuockhoang thôi, phải không?”
“Nhưng, thưa ngài, chúng là tù nhân của tôi! Tôi phải thẩm vấn chúng!”
Cơ trưởng nghi ngại nhìn họ.
“Thôi được rồi,” ông ta nói, “nếu cậu cứ đòi. Hãy hỏi xem họ muốn uống gì.”
Một tia sắc lạnh lóe lên trong mắt Số Hai. Hắn từ từ tiến đến trước mặt Ford Prefect và Arthur Dent.
“Được rồi, bọn cặn bã kia,” hắn gầm ghè, “lũ sâu bọ kia…” Hắn chọc khẩu Diệt Cái Xẹt vào Ford.
“Từ từ thôi, Số Hai,” cơ trưởng nhẹ nhàng quở.
“ Chúng mày muốn uống gì?!! ” Số Hai thét lên.
“Tôi thấy iynva nuockhoang nghe được đấy,” Ford nói. “Cậu thì sao, Arthur?”
Arthur chớp mắt.
“Gì cơ? À, ờ, vâng,” anh nói.
“ Có đá hay không?! ” Số Hai tiếp tục quát.
“Ô, có, cho tôi xin,” Ford nói.
“ Chanh??!! ”
“Có chứ,” Ford nói, “và anh có ít bánh quy nhỏ không? Loại bánh quy pho mát mặn ấy?”
“ Tao mới là người đặt câu hỏi!!!! ” Số Hai hú lên, cả người run lẩy bẩy vì cơn giận điên cuồng.
“Ờ, Số Hai này…” cơ trưởng khẽ nói.
“Thưa ngài?!”
“Lui đi, được không, cậu ngoan nào. Tôi đang cố tắm táp thư giãn đây.”
Mắt Số Hai nheo lại và biến thành cái mà trong nghề Quát Nạt Và Giết Người được gọi là hai khe hở lạnh lẽo, mục đích đại thể là để đối thủ nghĩ rằng ta vừa đánh mất kính hoặc đang khó tập trung tỉnh táo. Tại sao làm như thế lại đáng sợ thì vẫn còn là một câu hỏi chưa lời giải đáp.
Hắn tiến về phía cơ trưởng, miệng (tức là miệng Số Hai) mím chặt thành một đường rắn đanh. Một lần nữa, cũng khó mà biết tại sao đây lại được hiểu là hành vi giao chiến. Nếu lang thang qua rừng rậm ở Traal, mà bạn có thình lình gặp phải một con Quái Thú Bọ Rệp Phàm Ăn khét tiếng, thì hẳn bạn sẽ lấy làm biết ơn nếu miệng nó mím chặt thành một đường rắn đanh chứ không há hoác để lộ những cái nanh đầy dãi dớt như thường lệ.
“Tôi có được phép nhắc ngài nhớ,” Số Hai rít lên với cơ trưởng, “là ngài đã ở trong bồn tắm hơn ba năm nay rồi không?!” Nổ nốt phát súng từ biệt này, Số Hai quay gót đi về góc nhà để tập cách Ra mắt trong gương.
Cơ trưởng cựa quậy trong bồn tắm vẻ bối rối. Ông ta nở một nụ cười gượng gạo với Ford Prefect.
“À, làm công việc như tôi thì cần thư giãn nhiều lắm,” ông ta nói.
Ford từ từ hạ tay xuống. Không thấy gây nên phản ứng gì. Arthur cũng hạ tay xuống.
Bước thật chậm rãi và cẩn thận, Ford tiến đến bên bệ bồn tắm. Anh ta vỗ vỗ lên đó.
“Đẹp thật,” anh ta nói dối.
Anh ta tự hỏi cười bây giờ đã an toàn chưa. Thật chậm rãi và cẩn thận, anh nở một nụ cười. Đã an toàn rồi.
“Ờ…” anh ta nói với cơ trưởng.
“Vâng?” cơ trưởng đáp.
“Tôi đang băn khoăn,” Ford nói, “có thể hỏi thực ra công việc của ông là gì không?”
Một bàn tay khẽ gõ lên vai anh ta. Anh ta quay lại.
Đó là cơ phó.
“Đồ uống của ngài,” y nói.
“A, cảm ơn,” Ford nói. Anh ta và Arthur cầm lấy ly jynva nuockhoang của mình. Arthur nhấp một ngụm, ngạc nhiên thấy nó có vị rất giống rượu whisky pha với nước xô đa.
“Ý tôi là, tôi không thể không chú ý đến,” Ford nói, cũng nhấp một ngụm, “những cái xác trong khoang lạnh.”
“Xác ấy à?” cơ trưởng ngạc nhiên hỏi.
Ford ngừng lại và suy nghĩ. Đừng bao giờ coi cái gì là tất yếu, anh ta tự nhủ. Liệu có khả năng cơ trưởng không biết mình có mười lăm triệu xác chết trên phi thuyền không?
Cơ trưởng đang vui vẻ gật đầu với anh ta. Hình như ông ta còn đang chơi với một con vịt cao su nữa.
Ford nhìn quanh. Số Hai đang nhìn anh ta qua gương, nhưng chỉ một thoáng thôi: mắt hắn đang đảo lia lịa. Tay cơ phó thì đứng đó cầm cái khay đựng đồ uống và mỉm cười hiền lành.
“Xác ấy à?” cơ trưởng nhắc lại.
Ford liếm môi.
“Phải,” anh ta nói, “ông biết đấy, những thợ vệ sinh điện thoại và giám đốc quảng cáo đã chết ở dưới khoang lạnh ấy mà.”
Cơ trưởng trô mắt nhìn anh ta. Đột nhiên ông ta ngửa cổ ra sau và cười phá lên.
“À, họ chưa chết đâu,” ông ta nói. “Lạy Chúa, không, không phải đâu, họ chỉ đang đông lạnh thôi. Rồi họ sẽ được rã đông.”
Ford làm một điều mà anh ta rất ít khi làm. Anh ta chớp mắt.
Arthur như chợt tỉnh cơn mê.
“Ý ông là ông có cả một khoang đầy thợ làm đầu đông lạnh à?” anh hỏi.
“Đúng thế,” cơ trưởng nói. “Cả triệu người ấy chứ. Thợ làm đầu này, các nhà sản xuất truyền hình đã mệt mỏi, người bán bảo hiểm, quản lý nhân sự, bảo vệ, giám đốc quảng cáo, cố vấn quản lý, đủ cả. Chúng tôi sẽ đến định cư ở một hành tinh mới.”
Ford hơi lảo đảo.
“Thật thú vị, phải không?” cơ trưởng nói.
“Gì cơ, định cư với đống người đó ấy à?” Arthur hỏi.
“À, đừng hiểu nhầm ý tôi,” cơ trưởng nói. “Chúng tôi chỉ là một trong số các phi thuyền của Hạm đội Thuyền Lớn mà thôi. Các anh thấy đấy, chúng tôi là Thuyền Lớn ‘B’. Xin lỗi, phiền anh vặn hộ tôi ít nước nóng được không?”
Arthur giúp ông ta một tay, và một dòng nước đầy bọt hồng chóe xả vào bồn. Cơ trưởng thở dài một tiếng vẻ khoan khoái.
“Cảm ơn anh rất nhiều, anh bạn thân mến. Các anh cứ tự nhiên dùng thêm đồ uống đi.”
Ford nốc cạn ly của mình, lấy cái chai từ trên khay của cơ phó và đổ đầy ly đến tận miệng.
“Thuyền Lớn ‘B’ là cái gì?” anh ta hỏi.
“Cái này đây này,” cơ trưởng đáp, vui vẻ đưa con vịt cao su lên khuấy làn nước đầy xà phòng.
“Vâng,” Ford nói, “nhưng mà…”
“Chuyện là thế này, anh biết không,” cơ trưởng nói, “hành tinh của chúng tôi, thế giới từ đó chúng tôi ra đi, có thể gọi là diệt vong đến nơi.”
“Diệt vong đến nơi?”
“Phải đấy. Vì thế ai nấy đều nghĩ là, hãy xếp sắp toàn bộ dân số lên mấy phi thuyền khổng lồ và đến định cư trên một hành tinh khác.”
Kể chuyện đến đó, ông ta ngồi ngả ra với một tiếng ậm ừ vẻ hài lòng.
“Ý ông là một hành tinh đỡ có nguy cơ diệt vong hơn ấy à?” Arthur nhắc.
“Anh nói gì, anh bạn thân mến?”
“Một hành tinh đỡ có nguy cơ diệt vong hơn. Các ông đã sẽ định cư ở đó.”
“Sẽ định cư ở đó, vâng. Vì vậy họ quyết định xây dựng ba tàu bay, anh thấy đấy, ba Thuyền Lớn để đi qua Vũ Trụ, và… tôi không làm các anh chán đấy chứ?”
“Không, không,” Ford cam đoan, “nghe hay lắm.”
“Anh biết không, thật là tuyệt,” cơ trưởng trầm ngâm nói, “được nói chuyện với người nào khác cho thay đổi.”
Mắt Số Hai lại điên cuồng lia quanh phòng rồi nhìn lại vào gương, như một cặp ruồi thoáng bị sao nhãng khỏi miếng thịt ươn một tháng ưa thích của chúng.
“Rắc rối khi đi một hành trình dài như thế này,” cơ trưởng nói tiếp, “đó là cuối cùng ta toàn phải nói chuyện một mình, mà như thế thì đâm ra rất chán, vì phân nửa thời gian ta đã biết trước là mình định nói gì.”
“Chỉ phân nửa thời gian thôi sao?” Arthur ngạc nhiên hỏi.
Cơ trưởng ngẫm nghĩ một hồi.
“Phải, khoảng phân nửa thời gian, tôi đoán vậy. Mà này - miếng xà phòng đâu ấy nhỉ?” Ông ta mò mẫm xung quanh và tìm thấy miếng xà phòng.
“Thôi, quay lại chuyện cũ,” ông ta tiếp tục, “ý tưởng là phi thuyền đầu tiên, phi thuyền ‘A’, sẽ bao gồm các nhà lãnh đạo tài năng, các nhà khoa học, các nghệ sĩ vĩ đại, anh biết đấy, những người thành công nhất; rồi trong phi thuyền thứ ba, phi thuyền ‘C’ thì sẽ gồm những người làm việc thực sự, những người chế tạo ra các thứ và làm mọi thứ; còn ở trong phi thuyền ‘B’ - là chúng tôi đấy - thì sẽ là những người còn lại, những người ở giữa, các anh thấy đấy.”
Ông ta vui vẻ mỉm cười với họ.
“Và chúng tôi được gửi đi trước,” ông ta kết thúc, và khẽ ngâm nga một bài ca đi tắm.
Bài ca đi tắm này, được sáng tác cho ông ta bởi một trong những nhạc sĩ viết nhạc quảng cáo thú vị và năng suất nhất trên hành tinh của ông ta (người này hiện đang ngủ trong khoang ba mươi sáu, sau lưng họ chừng chín trăm mét), đã giúp lấp đầy một khoảng lặng khó xử. Ford và Arthur đổi chân liên tục và cố hết sức tránh nhìn vào mắt nhau.
“Ờ…” một lát sau Arthur nói, “chính xác thì hành tinh của ông bị làm sao?”
“Ồ, nó sắp bị diệt vong, như tôi đã nói đấy,” cơ trưởng đáp. “Hình như nó sắp đâm vào mặt trời hay sao ấy. Hay là mặt trăng sẽ đâm vào chúng tôi. Đại loại thế. Dù là gì thì cũng rất khủng khiếp.”
“Ơ,” cơ phó đột nhiên lên tiếng, “em tưởng là hành tinh sắp bị xâm lấn bởi một đàn ong ăn thịt khổng lồ mỗi con dài ba mét rưỡi chứ. Không phải thế ạ?”
Số Hai quay ngoắt lại, mắt rừng rực một ánh sáng lạnh lẽo rắn đanh chỉ có thể có được sau một thời gian dài khổ luyện.
“Tôi không được nghe như vậy!” hắn rít. “Sĩ quan chỉ huy của tôi bảo cả hành tinh sắp bị nuốt chửng bởi một con dê sao đột biến khổng lồ!”
“Thật thế à…” Ford Prefect nói.
“Phải! Một con quái vật từ tận đáy địa ngục với hàm răng nhọn như lưỡi hái dài hàng chục ngàn cây số, hơi thở có thể nấu sôi cả đại dương, những móng vuốt có thể xé toạc các lục địa, hàng ngàn con mắt cháy rực như mặt trời, bộ hàm đầy dãi rộng đến cả triệu cây số, một con quái vật mà các người chưa bao giờ… chưa bao giờ… chưa bao giờ…”
“Và họ đã tìm cách chắc chắn gửi các vị đi trước hả?” Arthur hỏi.
“À phải,” cơ trưởng nói, “tất cả mọi người đều nói, mà tôi thấy như vậy là rất tử tế, rằng muốn tinh thần phấn chấn thì điều quan trọng là họ biết mình sẽ đến một hành tinh nơi đầu tóc họ sẽ được sửa sang đẹp đẽ và điện thoại đều được vệ sinh sạch sẽ.”
“À ừ,“Ford đồng tình, “tôi có thể hiểu điều đó hẳn là rất quan trọng. Còn hai phi thuyền kia, ờ… họ đã đi theo sau các vị chứ?”
Cơ trưởng không nói gì hồi lâu. Ông ta cựa quậy trong bồn tắm và ngoái nhìn qua chiều rộng khổng lồ của phi thuyền về phía trung tâm Ngân Hà sáng rực. Ông ta nheo mắt nhìn vào khoảng cách xa xôi không tưởng đó.
“À, ờ, cũng lạ là anh lại hỏi thế,” ông ta nói và tự cho phép mình nhíu mày với Ford Prefect một cái, “vì thật kỳ cục, chúng tôi chưa hề nghe tin tức gì của họ kể từ khi ra đi năm năm trước… Nhưng chắc họ phải ở đâu đó sau chúng tôi.”
Ông ta lại nhìn vào khoảng không.
Ford nhìn theo ông ta và nhíu mày vẻ trầm tư.
“Tất nhiên, đó là trừ phi họ đã bị con dê ăn mất…” anh ta khẽ nói.
“À phải…” cơ trưởng đáp lại với một thoáng ngần ngừ trong giọng nói, “con dê…” Ông ta đưa mắt nhìn hình thù chắc đặc của những thiết bị và máy tính nằm dọc đài chỉ huy. Chúng chớp mắt nhìn lại vẻ ngây thơ vô tội. Ông ta nhìn ra không gian đầy sao, nhưng chúng chẳng nói gì. Ông ta nhìn cơ phó thứ nhất và cơ phó thứ hai, nhưng họ như đang bận bịu với suy tư của riêng mình. Ông ta liếc nhìn Ford Prefect, anh ta liền nhướn mày lên với ông ta.
“Cũng lạ thật, anh biết không,” cuối cùng cơ trưởng nói, “nhưng giờ khi tôi kể chuyện này cho người khác nghe thì… ý tôi là, cậu có thấy nó kỳ cục không, Số Một?”
“Ờờờờờờờ…” Số Một nói.
“Thôi,“Ford lên tiếng, “tôi có thể thấy các vị có rất nhiều chuyên cần bàn, vì thế, cảm ơn đã mời rượu, và nếu các vị có thể thả chúng tôi xuống hành tinh nào đó gần đây nhất…”
“À, chuyện đó thì hơi khó, anh thấy đấy,” cơ trưởng nói, “vì đường đi của chúng tôi đã được lập trình sẵn trước khi chúng tôi rời Golgafrincham, tôi nghĩ một phần là vì tôi không giỏi số má lắm…”
“Ý ông là chúng tôi bị kẹt trên cái phi thuyền này ấy à?” Ford kêu lên, đột ngột mất kiên nhẫn với toàn bộ màn kịch này. “Khi nào thì ông mới đến được nói gọi là hành tinh mới để định cư?”
“Ô, tôi nghĩ là chúng tôi gần đến nơi rồi,” cơ trưởng nói, “chỉ vài giây nữa thôi. Thực ra có lẽ đã đến lúc tôi ra khỏi cái bồn tắm này rồi đấy. Ờ, nhưng mà tôi cũng không biết nữa, sao lại ngừng đúng lúc tôi bắt đầu thấy thích thú chứ nhỉ?”
“Tức là chúng ta sẽ hạ cánh trong một phút nữa thật à?” Arthur hỏi.
“À, không hẳn là hạ cánh, không hẳn thế, không… ờ…”
“Ông nói gì thế?” Ford giật giọng hỏi.
“Ờ,” cơ trưởng đáp, chọn từng từ thật cẩn thận, “tôi nghĩ theo như tôi nhớ thì chúng tôi được lập trình để đâm xuống đó.”
“Đâm ấy à?” Ford và Arthur đồng thanh hét lên.
“Ờ, phải,” cơ trưởng nói, “phải, tôi nghĩ đó là một phần của kế hoạch. Có một lý do rất hợp lý cho việc đó, nhưng mà bây giờ thì tôi không nhớ nổi. Nó liên quan gì đó đến việc… ờ…”
Ford nổ bùng.
“Các người là một lũ rồ dại vô tích sự!” anh ta hét tướng.
“A phải rồi, chính thế đấy,” cơ trưởng cười toe, “đó chính là lý do đấy.”