Hồi thứ hai Trên đò - Bản tính
Tiếng đọc hoặc ngâm thơ từ trong hậu đài:
“Phía trước không có trước,
Phía sau không có sau.
Kìa mênh mông bể khổ,
Quay lại thấy bến bờ...”
Hồi này của vở kịch kể lại diễn biến của 11 nhân vật trên đò khi đò sang sông. Các xung đột, bản ngã tính cách con người bộc lộ với bao nhiêu chuyện ái, ố, hỷ, nộ, vui buồn, tham si, sân hận.
Sân khấu mở ra với cảnh dòng sông dào dạt. Toàn bộ sân khấu như một con đò phẳng. Nắng mưa sấm chớp xuất hiện tùy theo diễn biến câu chuyện.
Ông giáo: (đọc hoặc ngâm thơ):
“Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo dầu bến mê.
Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu.
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh...”
Nhà thơ: (vỗ tay): Thơ hay quá! Thơ của ai thế bác?
Ông giáo: Thơ này là của người xưa, của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều. Ông này sống ở thế kỷ 18.
Nhà thơ: Thơ hay quá! Cái ông công chức Nguyễn Gia Thiều này nói hộ tâm trạng của cả giới công chức tự cổ chí kim. Quanh đi quẩn lại cũng là miếng cơm manh áo cả thôi, bác nhỉ?
Ông giáo: Cũng không hẳn vậy. Nó còn là việc người đời tưởng nhầm ngộ nhận về chuyện “thế thiên hành đạo” nữa kia... Đi đến giữa sông, ê chề ở chợ Phù Vân, loanh quanh với các thứ lý tưởng phù du, gần hết cả cuộc đời mới chợt nhận ra đời người thật vô nghĩa lý!
Nhà thơ: (cười): Thế là bác già rồi! Có câu rằng: “Ai chán chợ Phù Vân nghĩa là biết mình đã mỏi”. (chỉ đôi thanh niên đang hôn nhau) Cứ như hai cô cậu kia kìa, đời họ lúc nào cũng tươi phơi phới!
Ông giáo: (quay nhìn, lắc đầu): Dục! Dục! Dục! Cũng là oan nghiệt mà thôi!
Nhà sư: Thiện tai! Thiện tai! (chậm rãi) Nam mô A di đà Phật! Dục tính là nhân tính đấy!
Ông giáo: Bạch thầy! Vậy xấu hay tốt?
Nhà sư: Đừng nghĩ thế nào là đúng là sai, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu. Sắc sắc không không, vừa không vừa có...
Nhà thơ: Bạch thầy, giữa dòng đời chảy xiết, nào đã ai hiểu đạo mà thầy giảng đạo?
Nhà sư: Không dám! Không dám! Nam mô A di đà Phật! (lại loay hoay thay mặt nạ khác)
Người mẹ: (với đứa con): Này con! Cẩn thận! Giữa dòng nước xiết không đùa được đâu!
Đứa bé: Con chẳng sợ! Sao mẹ cứ sợ? (vỗ tay reo) Nước trong quá, nhìn thấy cả những con cá thần tiên dưới đáy!
Tướng cướp: (cười): Làm gì có cá thần tiên hả con? Chỉ có ba ba với thuồng luồng thôi!
Nhà thơ: (với đứa bé): Đúng là cá thần tiên đấy, con ạ! Nhìn kìa! (chỉ tay) Có cả nàng tiên cá nữa đấy!
Tướng cướp: (vỗ vai nhà thơ, tìm cớ đi lại gần những chiếc túi của người gầy): Ông anh hay đùal Ông anh đến là mơ mộng. Sao lại phỉnh trẻ con như thế?
Nhà thơ: Sao lại phỉnh? Tôi chỉ muốn nó không phải già nua trước tuổi như chúng ta thôi!
Tướng cướp: (không bằng lòng): Hão huyền! Đúng là mộng tưởng hão huyền! (quay sang hỏi người béo và người gày): Những cái túi này đựng gì đấy hả các bác?
Người gày: (đẩy anh ta ra): Đi ra chỗ khác! Việc gì đến anh mà hỏi?
Tướng cướp: Hỏi chơi vậy thôi! Dạo này đạo tặc loạn lạc có nhiều nên tôi mới hỏi! (rút chiếc côn ra múa).
Người gày: (lấy từ trong cái xắc du lịch to ra một khẩu súng lắp vào rồi giương lên): Không lo! Có súng đây rồi, sợ gì đạo tặc!
Tướng cướp: (lảng ra xua tay): Chà! Chà! Vũ khí nóng thì chịu! Đừng chĩa súng thế! Đừng bắn ẩu nhé! Đúng là chuyên nghiệp có khác!
Đứa bé: (lại vỗ tay): Mẹ ơi! Nước trong quá, nhiều cá quá!
Ông giáo: Nước đục thì mới có cá, con ạ, còn nước trong ắt hẳn chẳng có cá đâu! Chắc con nhầm với con gì đấy!
Người mẹ: Này con, cẩn thận đấy! (với ông giáo) Cháu nó còn dại, bác ạ, có biết gì đâu!
Ông giáo: Cô ở xa về, chắc có nhiều tình cảm đối với quê nhà phải không?
Người me: Vâng, cám ơn bác hỏi, em về lần này cũng muốn làm việc công đức đối với quê hương. Em định hiến tiền làm một cây cầu để bắc qua sông cho quê mình gần với thành phố, cho văn minh hơn!
Người béo: Hay quá! Duyên kỳ ngộ! Tôi là người thu thuế, tôi là nhà thầu nổi tiếng vùng này. Tôi làm những công trình lớn. Hân hạnh làm quen với cô... (bắt tay người mẹ) Ý tưởng làm cầu của cô sẽ làm thay đổi vùng quê này đấy!
Người mẹ: Cám ơn bác. Em cũng mong thế! Được thế thì hạnh phúc quá!
Nhà thơ: (với người béo): Này bác! Bác là chủ nhà thầu thật ư?
Người béo: Vâng, tôi vốn là người có ước vọng “kinh bang tế thế”, tôi thu thuế, tôi là người tổ chức công việc xã hội bên ngoài...
Nhà thơ: (bắt tay): Hân hạnh làm quen với bác... Nhưng quả thực, tôi thấy ngài ngại thế nào... nói thật nhé, ở bác có điều gì rất đáng ngại, rất nguy hiểm... Trách nhiệm ư? Lương tâm ư? Không phải! Cá tính ư? Cũng không phải nốt! Thế là cái gì? Tôi không thể nhìn ra được đấy!
Người béo: (cười, lịch lãm, lõi đời): “Nhân vô thập toàn”, anh bạn ạ! Sao cứ đi xét nét mọi người cho khổ? Người đời thường vẫn nhầm về hình tướng... Tôi chỉ là người thu thuế, tôi không có cá tính, tôi là người anh em trong muôn vàn anh em giữa chúng ta thôi... (chìa tay ra bắt).
Nhà thơ: (lùi lại, lắc đầu, xua tay): Xin lỗi... Rất đáng ngờ... Rất khó hiểu, rất khó hiểu... Tôi không thể hiểu...
Ông giáo: Thôi thôi! “Dĩ hòa vi quý” (đẩy nhà thơ ra rồi nói với người béo): Này bác! Có cây cầu, chắc gì mọi việc ở đây đã tốt hơn xưa?
Người béo: Tốt chứ! Tôi vốn là người lạc quan. Tôi luôn hướng về những giá trị tiến bộ phía trước...
Nhà thơ: Có cây cầu là có đổi thay. Ở tỉnh Đông, từ khi có cầu, dân mất đất, đàn ông ra tỉnh đi làm cửu vạn, làm bồi, con gái ra tỉnh đi làm ca-ve, ma túy với HIV lan tràn, thế là không còn tỉnh Đông như ngày xưa nữa!
Người béo: Nói như chú thì chẳng bao giờ có văn mình cả, chúng ta cứ ăn lông ở lỗ mãi thôi ư?
Nhà thơ: Thế nào là văn minh, cái này cũng cần xem lại!
Người gày: (vẫn cầm súng, gạt nhà thơ ra): Ôi dào! Văn minh đơn giản là sướng, là tiện nghi! Sướng là văn minh, tiện nghi là văn minh! Ăn ngon, được tâng bốc, sex... có đúng không nào? (quay sang người thanh niên) Có phải thế không, có đúng không cậu?
Chàng trai: Ăn ngon: Ô kê! Được tâng bốc: Ô kê! Sex: Ô kê! Tiêu chuẩn văn minh của anh được đấy!
Ông giáo: Phải xem lại đấy! Con bò, con lợn cũng chỉ như vậy. Cũng từng ấy thứ...
Người gày: (chĩa súng vào tướng cướp): Ý kiến ông anh thế nào?
Tướng cướp: Này! Đừng có chĩa súng vào tôi! Tôi còn đang nghĩ... Đấy không biết có phải là tự do không cái đã?
Người gày: Đừng có hoang tưởng! Biết thân biết phận thì có tự do! (quay sang hỏi cô gái): Thế còn cô? Cô thấy thế nào?
Cô gái: Em không biết! Em cũng theo như mọi người thôi...
Người mẹ: Đừng theo mọi người em ạ! Phụ nữ chúng ta cứ theo mọi người thì chỉ trở thành những kẻ phụ thuộc mà thôi. Chị đã phải trả giá đắt cho điều ấy đây! Em còn trẻ, tự tin lên em!
Cô gái: Em không biết, chị ạ, em không biết sẽ phải làm gì. Em cứ làm theo bản năng của mình mà thôi!
Đứa bé: (kéo tay mẹ): Bản năng là gì hả mẹ?
Người mẹ: Mẹ không biết, con ạ, nhưng hình như
nó rất tốt đẹp! (quay sang cô gái) Có phải không cô?
Cô gái: Em không biết! Nó như là máu chảy ở trong người, nó thôi thúc không làm cho lúc nào yên... (bối rối) Thí dụ như bây giờ, bản năng của em trỗi dậy, tự dưng em rất thích nhảy múa chẳng hạn...
Chàng trai: Hay quá! Thế thì em múa đi! Có ai cấm đâu nào! (đứng ra hỏi mọi người) Mọi người có thích cô ấy múa bụng không nào?
Mọi người (tất cả lao xao, thích thú, vỗ tay): Đồng ý! Múa đi! Hay quá! Múa đi nào! Múa bụng
đi nào!
Cô gái: (mạnh dạn cởi áo): Thế em múa nhé! (trở nên khác hẳn, âm nhạc nổi lên, cô gái múa bụng. Chàng trai cũng múa theo. Tất cả chừng 5 phút đến 7 phút. Mọi người đứng vòng tròn vỗ tay theo).
Ông giáo: Tuổi trẻ! Đúng là tuổi trẻ!
Cô lái đò: Thôi thôi! Đò đã đến giữa sông rồi! Sóng to lắm! Dừng lại thôi! Mọi người phải cẩn thận đấy!
Chàng trai: (hôn cô gái): Em múa hay lắm! Cám ơn em!
Cô gái: Em chỉ thích làm theo bản năng của mình thôi mà. Em thích sẽ có nhiều con, rất nhiều con trai, rất nhiều con gái!
Ông giáo: Đúng là phụ nữ! Hoan hô! Hoan hô cô gái! Thế giới này được xây dựng bởi những người mẹ vô tư như thế!
Nhà thơ: (bâng quơ): Những người mẹ vô tư! Những người mẹ vô minh! Những người mẹ xinh xinh! Những người mẹ linh tinh! Những người mẹ hy sinh! Những người mẹ quang vinh!
Một làn khói cuồn cuộn xuất hiện trên sân khấu, sóng rất to, sấm chớp liên hồi. Âm nhạc dữ dội.
Cô lái đò: Cẩn thận! Mọi người cẩn thận!
Mọi người dồn lại, nắm tay nhau. Gã tướng cướp múa côn. Người gày chĩa súng về phía trước. Người mẹ ôm chặt đứa con. Trong làn khói cuồn cuộn bốc lên xuất hiện một con giải to lớn dữ tợn. Sấm chớp. Con giải múa may lăn lộn ở một góc sân khấu rồi biến mất. Tất cả diễn ra trong vài phút. Mọi người xôn xao: “Ghê quá! Sợ quá! Con rồng! Không phải con rồng! Con kỳ lân đấy! Con giải. Đúng con giải đấy!”. Người gày định bắn nhưng người béo gạt đi: “Đừng bắn”.
Cô lái đò: May quá! Nó đi rồi! Mọi người quay lại đò đi!
Ông giáo: Nghe nói con giải không hại người nhưng nó cũng không cứu người. Khiếp quá! (với cô lái đò) Nó có hiện lên thường xuyên không cô?
Cô lái đò: Không biết bác ạ! Cháu nghe nói cứ mỗi lần con giải nổi lên là có điềm xấu hoặc là điềm tốt trên khúc sông này.
Ông giáo: Liệu lần này là điềm xấu hay điềm tốt đây?
Người béo: Chắc là điềm tốt! Chắc nó biết là ở đây sắp có cây cầu!
Nhà thơ: Còn tôi, tôi lại nghĩ đây là điềm xấu!
Người mẹ: (với đứa bé): Con của mẹ, có sợ không con?
Đứa bé: Không! Con chẳng sợ! Con giải ấy thì ăn thua gì với các siêu nhân và người ngoài hành tinh trong chương trình game online. Con chẳng sợ! (mọi người cười)
Tướng cướp: (tán thưởng, xoa đầu đứa bé): Khá lắm! Đừng sợ! Không gì phải sợ!
Đứa bé: (hỏi người gày): Chú đựng cái gì trong này hả chú? Cho cháu xem với!
Người gày: Không được! Đây là bình nhốt quỷ! Không thể xem được!
Đứa bé: (nài nỉ): Cho cháu xem với!
Người gày: (đẩy đứa bé ra): Không được! Đây là đồ cổ mấy nghìn năm nay. Là linh khí, là báu vật bao đời để lại. Nó còn đáng giá gấp cả trăm lần sinh mạng của tao, xem làm sao được?
Nhà thơ: Nếu là đồ cổ lâu đời thì cũng nên cho mọi người xem để mở mang thêm kiến văn chứ! Có đúng không nào?
Tướng cướp: (gian hùng): Đúng thế đấy. Trên đời này chẳng có gì là quý. Chỉ có sinh mạng của mình là quý nhất thôi. Quý vật hơn quý người có ngày mất mạng!
Người béo: Ai bảo anh thế? Như thế có nghĩa là sao?
Tướng cướp: Đời nó bảo thế! Thường thiên hạ chỉ bàn đến chuyện giầu nghèo chứ ít ai bàn đến chuyện sinh tử! Như thế cũng nhầm!
Người mẹ: (bảo người gày): Chú nói đến đồ cổ khiến tôi cũng tò mò. Tôi đã đi năm châu bốn biển, thường tôi chỉ gặp đồ giả thì nhiều chứ còn đồ thật thì hiếm vô cùng!
Ông giáo: Nói đến đồ cổ quý giá tôi cũng chả tin “Người thường bàn chuyện ngu xưa. Mấy ai bàn chuyện bây giờ ngu hơn”...
Người gày: (hỏi người béo): Có nên cho họ xem để họ được mở mang đầu óc ra không anh?
Người béo: Tùy chú!
Người gày: (đeo súng vào vai rồi ra mở chiếc hộp): Thôi được! Các vị mở to mắt ra mà nhìn báu vật linh thiêng nhé! Tôi bảo đảm cả đời các vị chẳng nhìn thấy được vật báu như thế bao giờ!
Tướng cướp: Để xem xem đã!
Người gày: (lấy từ trong chiếc hộp ra một chiếc bình kỳ lạ): Lùi ra xa nào! Lùi ra xa nào! Vật báu này có từ mấy nghìn năm nay! Nó là cả truyền thống lịch sử của bao đời nay đây! Lùi xa nào! Lùi xa nào! (mở nắp bình cổ, chiếc bình tỏa hào quang lấp lánh, từ trong bình một luồng khí màu cuồn cuộn phun ra khiến mọi người hoảng sợ, lùi dạt cả ra).
Mọi người: (xôn xao): Đẹp quá! Lạ nhỉ! Hay quá! Độc đáo quá! Ở đâu ra thế? Kỳ lạ quá! v.v...
Người gày: (hãnh diện): Thưa các vị! Cái bình cổ này có từ thời cổ, nó có niên đại mấy nghìn năm nay, nó có giá trị vô cùng đặc biệt, nó chứa đựng tinh thần của các giá trị lịch sử bao đời. Chủ nhân của nó là người này, (quay sang người béo) quý vật gặp quý nhân. Ông ấy là người biết rõ giá trị của nó hơn ai hết!
Người béo: Chú nói quá! Do số phận thôi! Tôi là người có vận may làm chủ vật này. Đấy là định mệnh Trời cho, cũng là do nhờ phúc tổ tiên để lại...
Ông giáo: (xem xét chiếc bình): Cái bình này quý thật! Tôi biết nó. Chắc là phải mấy nghìn năm. Nó là báu vật trên đời hiếm có. (quay sang nhà sư) Có phải không thầy?
Nhà sư: (xem xét chiếc bình rồi lùi ra): Đúng là báu vật. Nam mô A di đà Phật! (làm lễ chắp tay, cung kính) Bần tăng thành tâm chiêm bái!
Đứa bé: (sờ vào chiếc bình): Cho cháu xem với!
Người gày: Không được! Đừng sờ vào đấy!
Người mẹ: Cẩn thận đấy con! (đứa bé đút tay vào bình, người mẹ vội vàng giữ tay con) Này con! Chết! Sao lại đút tay vào bình! Khéo không rút được tay ra thì khốn!
Đứa bé: (đột nhiên quằn quại): Ôi mẹ ơi! Con không làm sao rút được tay ra nữa rồi! (cuống quýt) Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ cứu con!
Người gày: Đồ quỷ! Nghịch hết chỗ nói!
Đứa bé: Mẹ ơi, chết con rồi! Hình như miệng của chiếc bình bé lại!
Người gày: (xem xét): Đúng rồi, hình như miệng của chiếc bình này đang co lại!
Ngứời béo: (xem xét): Nguy rồi! Chiếc bình này vốn gọi là bình nhốt quỷ. Ngày xưa, nghe nói người ta đã dùng chiếc bình này để nhốt âm binh. Chiếc bình này linh thiêng ghê lắm... Đã đút tay vào là không tài nào rút ra được nữa.
Mọi người xúm lại xem xét: “Làm sao bây giờ? Phải thể nào chứ? Phải cứu chiếc bình! Làm sao cứu được đứa bé bây giờ? v.v..”
Đứa bé: Mẹ ơi! Mẹ cứu con! Con chết mất! Mẹ ơi! Mẹ cứu con đi!
Ông giáo: Cháu xoay cổ tay xem nào!
Đứa bé: (lắc đầu): Không được! Chặt lắm! Cháu không làm sao rút tay ra được!
Người gày: Làm sao bây giờ? Chết thật! Cả một đống tiền, đống của ở đây...
Nhà thơ (đùa): Đút tay vào lịch sử thì phức tạp, lôi thôi ghê lắm, sẽ bị kẹt đấy còn lâu! Chỉ còn cách chặt tay đứa bé để cứu chiếc bình, sau đó lại đập vỡ bình cứu tay đứa bé!
Người gày: (với người mẹ): Chiếc bình này không thể bỏ được, giá trị của nó không thể lường hết! Làm sao bây giờ?
Người mẹ: (mếu máo): Xin các bác, tôi xin các bác... Các bác, các chú cứu con tôi với...
Mọi người: (xúm lại bàn tán): Phải cứu đứa bé! Phải cứu chiếc bình! Con người là quý! Phải cứu đứa bé, cái bình có quý cũng phải bỏ đi v.v...
Người gày: (với người béo): Thưa bác, làm sao bây giờ?
Người béo: Chiếc bình này không thể bỏ được! Không có nó, chúng ta không còn gì cả. Chú hành động đi!
Người gày: (chĩa súng vào người mẹ đang ôm đứa bé, lên cò súng, thái độ tàn nhẫn): Chiếc bình này rất quý! Con cô dại dột, “con dại cái mang”! Cô hãy tính sao thì tính!
Người mẹ: (sợ hãi, bối rối): Xin các bác, các chú hãy cứu con tôi! (cởi bỏ hoa tai, vòng vàng, nhẫn vàng, dây chuyền, tiền bạc) Đây! Đây! (với người béo) Lạy bác! Xin lạy các bác! Tôi xin các bác, cốt sao cứu được con tôi.
Người gày: Những thứ này thì ăn nhằm gì so với giá trị chiếc bình?
Tướng cướp (nhanh nhảu lấy cái túi vải của mình ra để đựng những thứ trên tay người mẹ): Để tôi! Để tôi! Chị đưa đây tôi! (quay ra mọi người, một tay vung côn) Người là quý nhất! Xin các vị góp tiền, góp của để cứu đứa bé! Nó là tương lai! Nó còn cuộc đời phía trước!
Gã tướng cướp lần lượt đi đến từng người một.
Tướng cướp: (với ông giáo): Mời thầy giáo! Xin thầy giáo giúp cho để cứu tính mạng đứa bé! Còn người còn của! Nó còn tương lai phía trước!
B: (mở cặp): Đây! Tôi có ít tiền với cuốn sách rất quý này đây (vội vã mở cặp đưa tiền và sách)!
Tướng cướp: (lấy tiền, trả lại sách): Sách thì chẳng làm gì được. Xin thầy giữ lấy để còn đi dạy học trò...
Ông giáo: Với tôi những cuốn sách này còn quý hơn cả tiền bạc! Nó ghi lại những kinh nghiệm của người xưa đây. Đây này! Toàn là những lời vàng ngọc! Thí dụ câu này, tôi đọc mọi người nghe nhé (mở sách ra đọc). “Tôi thường nói với nghệ sĩ (và tôi còn nói mãi) rằng cùng đích những xung đột trong vũ trụ và loài người chính là nghệ thuật trình diễn kịch và nhân loại chỉ có một nhiệm vụ là làm việc không ngừng để sáng tạo ra những con người cao thượng mà thôi!”. Đấy! Mọi người có thấy đúng không?
Tướng cướp: (gạt ông giáo ra): Chẳng đâu vào đâu! Hão huyền! Rất hay nhưng vô tích sự. Xin lỗi bác! Chữ nghĩa không phải chân lý... (với nhà sư) Bạch thầy! Xin thầy mở lượng từ bi!
Nhà sứ: (lúng túng cởi tràng hạt): Nam mô A di dà Phật! Bần tăng chỉ có vật này là quý... (đưa cho tướng cướp tràng hạt)
Tướng cướp: Bạch thầy! Vật này lúc này vô dụng. Thầy cứ giữ nó! Nó không giá trị với người trần thế! (trả lại tràng hạt)
Tướng cướp: (đến gần đôi thanh niên): Xin hai cô cậu... Thanh niên còn trẻ, hào hiệp lên nào!
Cô gái: (nhiệt tình mở xắc lấy ra hộp nhẫn và ví tiền): Vâng, đây... đây. Đây là tất cả... anh lấy hết đi, lấy hết cả đi!
Chàng trai: (ngăn lại): Chết! Đây là hộp nhẫn dành cho ngày cưới của hai chúng ta! Sao em làm thế?
Cô gái: Không sao anh ạ... Em không cần... Chúng ta không cần. Cứu một mạng người phúc đẳng hà sa...
Chàng trai: (hiểu ra, lại hôn cô gái): Cám ơn em! Anh yêu em!
Nhà thơ: (tán thưởng): Thật tuyệt vời! Tình yêu làm cho con người cao thượng! Chỉ có tình yêu làm được việc này...
Tướng cướp: (kéo chàng trai ra khỏi cô gái): Đấy là của cô ấy... Còn anh? Anh có cái gì?
Chàng trai: (ngơ ngác): Tôi có gì nhỉ? (lúng túng lục các túi nhưng không có gì rồi cởi đồng hồ): À... Tôi có thời gian... Với tôi, thời gian trước mắt của tôi còn nhiều, thời gian là thứ của cải vô tận, nó là quý nhất... Có phải không nào?
Tướng cướp: (xem xét chiếc đồng hồi): Thôi được! (lấy đồng hồ, quay sang nhà thơ): Thế còn bác?
Nhà thơ: Tôi không có gì. Tôi chỉ có thơ! (lùi lại, bối rối lấy ra tập thơ, đánh rơi xuống đất) Thơ là giá trị của tâm hồn tôi...
Tướng cướp: (nhặt tập thơ lên xem xét): Thật nực cười! Xin hãy giữ lấy cho mình. Đây là thứ xa xỉ bậc nhất, vô dụng bậc nhất, hão huyền bậc nhất! (cáu kỉnh giúi vào ngực nhà thơ)
Trên sân khấu có nhiều làn khói bốc lên mù mịt, sấm chớp vang rền. Con giải lại xuất hiện, hung dữ hơn trước, chồm về phía mọi người. Âm nhạc nổi lên có phần dữ dội.
Cô lái đò: Mọi người cẩn thận! Mọi người cẩn thận!
Mọi người co cụm lại sợ hãi. Con giải chồm về phía mọi người.
Ông giáo: (với tướng cướp): Nó đòi lễ vật! Kìal Hãy đưa cái này cho nó! (chỉ cái túi đựng tiền bạc) Hãy dâng tiền bạc của cải cho nó! Nó đang đòi đấy! Không chết hết cả bây giờ!
Tướng cướp: (giữ cái túi): Không được! Không thể thế được!
Ông giáo: Đưa đây cho tôi! (giằng lấy cái túi trên tay tướng cướp rồi tiến ra quỳ xuống dâng cho con giải, con giải đón lấy cái túi rồi mừng rỡ biến mất trong đám khói tan dần. Tất cả mọi người ngỡ ngàng, lặng đi).
Người gày: (chĩa súng vào ông giáo): Này ông! Sao ông làm thế?
Ông giáo: Biết làm sao được. Phải cứu lấy mọi người chứ. Nhiều khi phải biết bỏ của để chạy lấy người...
Người gày: Thật là ngu! Thật là ngu hết chỗ nói!
Tướng cướp: (đẩy người gày): Anh bảo ai ngu?
Người gày: Tôi bảo anh! Tôi bảo tất cả mọi người!
Tướng cướp đẩy người gày ra, múa chiếc côn nhị khúc rồi bổ mạnh vào chiếc bình, chiếc bình gốm vỡ. Âm nhạc nổi lên. Một sự hỗn loạn nhỏ trên sân khấu. Người béo giằng lấy súng trên tay người gày rồi chĩa vào tướng cướp. Người thanh niên đẩy tướng cướp ra, dang hai tay che đạn cho anh ta. Súng nổ. Người thanh niên ngã xuống.
Người mẹ: (ôm đứa con): Con tôi! Con tôi! Trời ơi! Con ơi! Con tôi được cứu thoát rồi!
Cô gái: (quỳ xuống đỡ lấy chàng trai): Trời ơi! Anh! Tỉnh lại đi anh! Anh! Anh không được chết!
Ông giáo: (với cô gái): Bỏ mặt nạ ra cho anh ấy! Bỏ mặt nạ ra!
Cô gái gỡ mặt nạ chằng trai ra. Ngươi béo bỗng vất súng, sợ hãi, gạt mọi người ra, quỳ xuống đỡ lấy chàng trai.
Người béo: (ngạc nhiên, sợ hãi): Trời ơi! Con tôi! Con trai tôi! Tôi giết con tôi mất rồi! Con ơi! Sao con làm thế? Sao con lại đeo mặt nạ khiến cha không nhận ra con?
Chàng trai: (thều thào): Cha! Có phải cha không?
Người béo: (mừng rỡ, lay chàng trai dậy): Con ơi! Cha đây! Cha đây con! Tỉnh lại đi con! Cha của con đây!
Chàng trai: Cha! Cha đeo mặt nạ khiến con cũng không nhận ra được nữa...
Người béo: (gỡ mặt nạ vứt đi): Cha đây! Cha đây con! Cha của con đây! Sao con làm thế hả con?
Chàng trai: Cha! Con cứu người... Điều ấy là tốt, có phải không cha?
Người béo: Con... Cha xin lỗi con... Sao con dại khờ như thế? Trời ơi! Trời hỡi trời! Tôi có tội gì? Con ơi, con biết không, cha đã hại con mất rồi... Không có con, cha sống làm sao?
Chàng trai: (đẩy người béo ra): Cha lui ra đi... Con không cần cha... Tất cả những điều cha làm... Tất cả sự nghiệp của cha, của cải của cha... Vô nghĩa... Tất cả những thứ mà cha xây dựng... Con không cần nó... Con không cần nó, cha lui ra đi...
Người béo: Con ơi! Con có biết không... Tất cả những thứ mà cha làm ra đều giành cho con (kéo những cái túi lại gần), của con cả đấy! Của con cả đấy! Cha rất thương con, cha làm tất cả vì con, con có biết không?
Chàng trai: Cha! Đây là cuộc sống của cha, không phải của con... Con không cần nó... Cha đi đi, con không cần nó, con không yêu nó... (gạt những cái túi ra) Tất cả những thứ như thế nó đã giết con... Cha đi đi, con không cần nó...
Người béo: Con, con yêu của cha, vậy con cần gì, con cần gì ở cha? Con nói đi! Cha phải làm gì đây? Cha phải làm gì đây để cứu được con?
Chàng trai: Con không cần tiền bạc, không cần tình thương của cha, không cần gì hết, con chỉ cần có một điều...
Người béo: (đau khổ, giục giã): Con nói đi, con cần điều gì? Con cần điều gì cha cũng sẽ làm cho hết để cứu được con!
Chàng trai: Con... con cần có sự tôn trọng ở cha!
Người béo: (thất vọng, lảo đảo đứng lên, mọi người xung quanh đỡ lấy ông ta): Trời ơi! Con tôi! Sao con ngu dại thế con? (quay ra hỏi mọi người, như mê sảng) Thưa các ông, thưa các bà... (ngơ ngác) Con tôi... Nó nói cái gì! Nó nói cái gì! Đấy là cái gì?
Ông giáo: (đỡ lấy người béo): Bọn trẻ là thế, ông ạ... Bọn trẻ ngày nay là thế... Nó đòi chúng ta phải tôn trọng nó. Tôi cũng không hiểu thật rõ điều này... Thế ai tôn trọng chúng ta? Thật là nực cười... Đúng là quả báo! Chỉ có chúng ta sai lầm... Cả ông, cả tôi, tất cả chúng ta đều đã sai lầm... Ta càng anh hùng, ta càng cố công xây dựng, con cái sẽ càng căm ghét chúng ta mà thôi!
Nhà thơ: (lắc đầu): Những người cha khốn khổ! Những người cha vô minh! Những người cha hy sinh! Những người cha bất hạnh! Họ không biết rằng con cái sinh ra để chôn chúng ta, (giang hai tay ra) lẽ đời là thế...
Nhà sư: Thiện tai! Thiện tai! Không thiện gặp tai! Nam mô A đi đà Phật! (lại vội vã thay mặt nạ khác)
Cô gái: (nức nở bên chàng trai): Anh! Anh tỉnh lại đi! Anh không được chết! Anh! Anh tỉnh lại đi! Kìa! Đò cập bến rồi! Phải cố lên anh! Anh còn bao nhiêu thời gian phía trước cơ mà?
Người béo lại đỡ chàng trai, luôn miệng lẩm bẩm: “Con, con tôi! Con tôi!” nhưng cô gái đẩy ông ta ra, không để ông ta đỡ chàng trai.
Người mẹ: (với đứa con): Đò cập bến rồi! Đến bờ rồi, đến bờ rồi! Con của mẹ, con có sợ không?
Đứa bé: (lắc đầu): Không, con không sợ! Con chỉ không hiểu những người lớn thôi...
Người mẹ: (quay sang tướng cướp) Cám ơn anh, cám ơn anh đã cứu con tôi!
Tướng cướp: Không... Không phải tại tôi... Ta phải cám ơn anh ấy (chỉ vào chàng trai)
Một màn khói mù mịt trùm trên sân khấu. Mọi người xúm lại nâng xác chàng trai trên một chiếc cáng, từ từ bước ra khỏi sân khấu. Âm nhạc nổi lên. Chớp lóe sáng. Sấm sét. Tiếng đọc kinh “Bát nhã” vang lên như của cả một dàn đồng ca lớn trầm hùng.
Làn khói tan đi. Chỉ còn nhà sư và cô lái đò đứng lại trên sân khấu. Dừng lại vài phút. Chuyển ánh sáng khác.
Cô lái đò: Bạch thầy! Đò cập bến rồi! Đến bờ rồi! Mọi người lên hết cả rồi! Mời thầy lên bờ...
Nhà sư: Cám ơn, cám ơn thí chủ! (đi lùi lại) Tôi nghĩ lại rồi, tôi không đi nữa, cho tôi quay về...
Cô lái đò: Bạch thầy! Về bên kia sông con không đi nữa...
Nhà sư: Không sao! Muốn đi là được! Ngày xưa từng có cả vị đại sư sang sông trên một cọng cỏ cơ mà... Nam mô A di đà Phật!
Cô lái đò: (chắp tay, cùng với nhà sư): Nam mô A di đà Phật!
Tiếng đọc kinh “Bát nhã” lại vang lên. Trời xanh bao la, không còn sấm sét nữa. Bỗng có một tiếng súng đơn độc nổ vang lên ở phía trong hậu đài sân khấu. Khói lại trùm lên sân khấu che lấp cô lái đò và nhà sư đang theo chiếc đò biến vào trong màn không hư ảo.
Màn hạ