← Quay lại trang sách

Chương 5 1

Mười tám giờ 32 phút tối ngày 12 tháng 9, tại khu Tường Hinh Uyển.

Buổi chiều cuối hạ, trời vẫn còn chưa tối hẳn. La Phi đến trước một tòa nhà khu cư dân, anh nhìn lên tấm biến ở lưng tòa nhà: tòa 12.

Đúng rồi, chính là ở đây.

Nơi sẽ đến là đơn nguyên 406. La Phi không vội lên lầu, anh bước tới một chỗ đất trống gần đó. Đây là vị trí trung tâm của cả khu, cũng là sân chơi của cư dân.

Tường Hinh Uyển là một khu tái định cư, các hộ dân ở đây phần lớn đều vốn là dân làng Phương Hồ ở ngoại ô phía đông thành phố, nên họ biết rất rõ về nhau. Sau khi La Phi, một người ngoài bước vào khu vực này, lập tức thu hút sự chú ý của mấy người hay hóng chuyện. Họ cứ nhìn anh và thầm đoán ý định của vị khách không mời này.

La Phi không để ý đến điều đó. Anh dừng bước, đưa mắt nhìn mấy lượt như muốn tìm ai đó để nói chuyện. Đúng lúc đó, có người chủ động hỏi: “Anh tìm ai?” Người hỏi câu đó là một phụ nữ chừng 60 tuổi, bà ta đang ngồi trên chiếc ghế đá ở cạnh bồn hoa hóng mát với vẻ nhàn tản.

La Phi bước tới ngồi xuống đầu ghế bên kia, chào và hỏi: “Chào bác, chắc bác ở đây lâu rồi phải không?”

“Đúng thế.” Người phụ nữ nhìn La Phi chăm chú một lượt, mắt ánh lên vẻ tự hào là chủ nhân ở đây, sau đó hỏi bằng vẻ cảnh giác: “Chắc anh không phải người trong khu này?”

La Phi rút tấm thẻ ngành đưa đến trước mặt người phụ nữ và giới thiệu: “Tên tôi là La Phi, tôi là cảnh sát.”

“Cảnh sát?” Người phụ nữ hơi ngây người, rồi lập tức trở nên nghiêm nghị, “Khu của chúng tôi xảy ra chuyện gì à?”

“Bác đừng căng thẳng, không có chuyện gì đâu.” La Phi mỉm cười, rồi hỏi: “Tên bác là gì ạ?”

“Tôi họ Vương.”

“À, bác Vương…”, La Phi đưa mắt nhìn tòa nhà phía trước bên trái sân chơi. “Tôi đến đây là muốn tìm hiểu một chuyện trước đây. Là chuyện xảy ra ở khu này, từ hồi lâu rồi.”

“Chuyện gì, anh hỏi xem.” Bà Vương ngồi thẳng dậy, vẻ đầy tự tin, “Chỉ cần là chuyện của khu này, tôi khẳng định là nhớ được. Anh đừng thấy tôi lớn tuổi, trí nhớ của tôi vẫn tốt lắm!”

La Phi đưa tay chỉ: “16 năm trước, trong tòa nhà ở trước mặt kia…”

“Tòa 12?” sắc mặt của bà Vương đột nhiên thay đổi, dường như chợt nhớ ra điều gì đó: “Ý anh muốn nói tới hai đứa bé đó?”

“Vâng, hai đứa bé đó…” Nói đến từ “đứa bé”, La Phi chợt thấy lòng nặng trĩu.

“Sao lại nói đến chuyện đó? Thảm lắm… Rất thảm.” Bà Vương lắc đầu than thở như không muốn nhớ lại chuyện cũ đó.

“Đúng là rất thảm…”, La Phi im lặng một lúc, rồi quay lại hỏi: “Bác có nhìn thấy hai đứa bé đó không?”

Bà Vương thở dài: “Có nhìn thấy.”

La Phi gật đầu, anh mở túi tài liệu mang theo, lấy một tấm ảnh từ bên trong ra, “Bác nhìn xem, đứa bé này là đứa lớn phải không?”

Bà Vương đón lấy tấm ảnh, rồi ghé đến chỗ có đèn đường nhìn kỹ một hồi. Trong bức ảnh là một bé gái mặt mày thanh tú chừng ba, bốn tuổi. Sau khi xem xong, bà Vương nói với vẻ đắn đo: “Có phần hơi giống, nhưng không nói chính xác được. Một là thời gian lâu quá rồi, hai là cô bé trong ảnh mặt mũi sạch sẽ, còn khi tôi nhìn thấy đứa bé ấy, thì nó không còn ra hồn người nữa. Vì vậy, thật sự không dễ nhận ra.”

“Không còn ra hồn người nữa?” La Phi đoán: “Là khi cuối cùng đứa bé được cứu ra phải không ạ?”

Bà Vương lắc đầu: “Lần đó tôi không nhìn thấy, ý tôi nói đến lần trước đó.”

“Trước đó còn có lần nữa?” Chuyện này nằm ngoài điều mà La Phi biết.

“Đúng vậy. Trước đó hai đứa bé này cũng đã từng bị nhốt một lần rồi. Lần đó là tự đứa lớn mở cửa chạy ra, đi tha thẩn trong khu. Một cô bé xinh xắn mà trông hệt như một đứa ăn mày. Hôm đó trời còn lạnh, chúng tôi đều mặc áo len, thế mà đứa bé ấy không mặc áo, chỉ mặc một chiếc quần bông, trên quần còn dính đầy phân và nước đái, tóc tai cũng rối bù lên.” Bà Vương tả một hồi, sau đó nói tiếp: “Chúng tôi nhìn thấy thương nên đến gần hỏi: Này, con cái nhà ai thế? Sao lại không có người trông thế này? Con bé nói mẹ không có nhà, sau đó chỉ gào lên là đói. Mọi người đưa nó đến chỗ bảo vệ, còn mua mấy chiếc bánh bao nhân thịt cho nó ăn. Nó ăn ngấu nghiến, hệt như chưa bao giờ được ăn một bữa no.”

La Phi nhíu mày, hỏi: “Lần đó mấy đứa trẻ bị nhốt mấy ngày?”

“Nghe nói hai, ba ngày gì đó. Nếu dài hơn nữa thì chắc bọn trẻ không trụ nổi.”

La Phi “vâng” một tiếng rồi hỏi: “Sau đó thì sao ạ?”

Bà Vương nói: “Sau đó chị Đặng của tòa 20 đến phòng bảo vệ, nhận ra đứa bé ấy ở cùng đơn nguyên với mình và ở tầng trên. Chị Đặng nói, nhà đó có lẽ còn có một đứa bé nữa. Mọi người nghe vậy đều hoảng, vội chạy đến tòa 20. Kết quả phát hiện ra cửa bị khóa, đứa lớn khi ra khỏi cửa đã tiện tay sập lại. Thế là mọi người gọi điện báo cảnh sát, cảnh sát mang theo thợ khóa đến mở cửa ra. Chúng tôi vào bên trong thì thấy quả nhiên còn một đứa bé nữa, lúc đó nó đang nằm úp mặt vào bồn xí, không động đậy, toàn thân toàn là phân. Lúc đầu, mọi người tưởng là đứa bé đã chết, nhưng khi kêu tên thì nó ngẩng đầu lên nhìn. Chị Đặng vội chạy về nhà pha một bát sữa bột mang sang. Đứa bé vừa ngửi thấy mùi sữa, bèn há mồm đòi uống. Uống hết bát sữa, nó bắt đầu cất tiếng khóc oang oang. Lúc đó mọi người mới thở phào và biết là đã cứu được đứa bé.”

“Lần đó bác có nhìn thấy mẹ của đứa bé không?”

“Không. Sau đó cảnh sát đưa hai đứa bé đến bệnh viện để điều trị, nên tôi không đi theo. Nghe nói tối hôm đó mẹ của chúng cũng đến bệnh viện nhưng tôi không nhìn thấy.” Bà Vương ngừng một chút, rồi nói tiếp: “Thực ra, tôi vẫn rất muốn nhìn thấy người đàn bà đó, xem rút cục làm mẹ kiểu gì mà có thể để cho con của mình ra nông nỗi ấy. Đáng tiếc là, tôi chưa bao giờ gặp chị ta ở khu này cả. Chỉ có sau này mới nhìn thấy trên tivi.”

La Phi vốn định nói chuyện với bà Vương về người phụ nữ đó, nhưng vừa nghe nói vậy liền biết là không còn chuyện để nói, bèn đổi sang mục tiêu khác: “Vừa rồi bác nói đến chị Đặng, vậy chị ấy còn sống ở đây không?”

“Có. Anh muốn nói chuyện với chị ấy à?” Bà Vương nói với vẻ vui vẻ: “Anh không cần tìm chị ấy đâu, trước 7 giờ rưỡi, chị ấy nhất định sẽ xuống sân này.”

“Thế ạ. Bác chắc chắn như thế chứ?”

“Tất nhiên rồi. Buổi tối hàng ngày sẽ có một nhóm chị em lớn tuổi thường tập nhảy múa ở đây. Chị Đặng rất mê môn này, nên dù mưa gió cũng xuống tập!”

Bà Vương nói quả không sai, hơn 7 giờ, các chị em lớn tuổi lần lượt xuống tập hợp ở sân. “Chị Đặng” mà La Phi muốn gặp cũng ở trong số đó.

“Chị Đặng” năm nay đã 65 tuổi, thân hình hơi béo, mặt mũi phúc hậu, vừa nhìn đã biết là người rất nhiệt tình. Sau khi biết thân phận của La Phi, bà nhận lời yêu cầu của La Phi rất thoải mái. Hai người tìm một chỗ tương đối yên tĩnh nói chuyện.

“Đúng vậy, nhà đó ở trên tầng nhà tôi, nên chuyện của họ từ chân tơ kẽ tóc tôi là người hiểu hơn ai hết. Nói theo lời của các cụ thì đúng là tạo nghiệp!” Cho dù là ai, khi nhớ lại chuyện cũ đó thì cũng đều kèm theo một tiếng thở dài nặng nề.

La Phi đi thẳng vào vấn đề: “Cho nên bác cũng rất biết về người đàn ông của nhà đó đúng không ạ?”

“Biết chứ. Trước đây ở cùng một làng mà. Tên cậu ta là Lý Quân, chúng tôi đều gọi là Tiểu Quân Tử.”

“Anh ta là người như thế nào?”

“Thằng bé đó bản chất không xấu, đáng tiếc chỉ vì kết bạn lung tung nên mới vậy.”

“Nói cụ thể ra thì là những người bạn như thế nào ạ?”

“Thì là những tên du côn trong xã hội ấy. Hồi còn nhỏ, Tiểu Quân Tử học không tốt, nên chưa hết cấp hai thì đã bỏ học đến làm thợ học việc trong xưởng sửa chữa xe, kể từ đó dần dần tụ tập cùng với những người bạn xã hội đen. Sau đó, cả bọn cùng đi ăn trộm đồ, bị bắt và giam trong tù một năm.”

“Hồi đó mọi người chưa chuyển đến đây, đúng không?”

“Chưa, hồi đó còn ở làng. Chuyển đến khu tái định cư là chuyện sau khi Tiểu Quân Tử ra tù. Hồi đó nhà họ được phân hai căn, nhưng bán đi một căn. Vì lúc đó bố của cậu ấy bị ung thư, ngoài ra việc hoàn thiện nội thất cũng phải cần đến tiền.”

“Bị ung thư? Vậy thì khó chữa khỏi được lắm.”

“Thì không chữa khỏi mà. Không hiểu nhà họ phong thủy không tốt hay là có vấn đề gì mà cả bố mẹ Tiếu Quân Tử đều bị ung thư, cố gắng cầm cự được một hai năm, tiền tiêu hết mà người thì vẫn không cứu được. Tiểu Quân Tử chỉ còn lại một mình. Bởi vì cậu ta từng ngồi tù, hàng xóm láng giềng cũng chẳng mấy quan tâm. Anh nghĩ mà xem, cả ngày cậu ta cô đơn như vậy, liệu tâm trạng có tốt được không? Thế là lại tụ tập với đám bạn xã hội ấy. Không chỉ ăn trộm đồ, còn hút hít ma túy nữa. Mà, ma túy thì ai cũng biết, không nên dính vào, nếu dính vào thì là hỏng cả đời.” “Chị Đặng” vừa nói vừa lắc đầu, vẻ rất buồn và lấy làm tiếc.

Tình hình về Lý Quân coi như cũng đã hiểu được không ít, La Phi bắt đầu chuyển sang một góc độ khác: “Bác hãy nói về người phụ nữ ấy đi ạ. Chị ta tên là Tần Yến đúng không? Chị ta và Lý Quân đã quen nhau như thế nào?”

“Cũng là quen ở bên ngoài, quá trình cụ thể tôi không biết, chỉ thấy đưa về đây. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ta là vào mùa đông, nên mặc rất nhiều quần áo, nhưng cái bụng thì phình ra, nhìn qua là biết ngay đang có bầu. Hai người cũng chẳng làm thủ tục gì mà ở với nhau luôn. Thanh niên bây giờ mà, nên tôi cũng chẳng chú tâm đến những chuyện đó. Đến mùa hè năm sau thì đứa bé ra đời, là con gái, trông xinh xắn. Tiểu Quân Tử đặt tên nó là Lý Mộng Nam. Nhìn vẻ phấn khởi của cậu ta cứ như thể nó là con đẻ không bằng.”

La Phi ngắt lời bà. hỏi: “Sao thế a? Đứa bé đó không phải là con đẻ của anh ta?”

“Không phải, khi hai người quen nhau Tần Yến đã có bầu rồi.”

“Vậy, đứa bé đó là con của ai?”

“Chị Đặng” lập tức nói ngay ra hai từ: “Không biết.” Từ ngữ khí của bà mà suy đoán thì không chỉ là bà nói bà không biết, mà còn ý nói: “Không có ai biết.”

La Phi “ồ” một tiếng, cảm thấy rất ngạc nhiên.

“Chị Đặng” giải thích: “Trước đó Tần Yến làm việc ở phòng trà, qua lại với không ít đàn ông. Sau đó, bụng to rồi thì không đi làm nữa và mới theo Tiểu Quân Tử về đây. Đứa bé đó rút cục là con ai đến cả cô ta cũng không biết chính xác.”

“Chuyện này bác nghe ai nói vậy?”

“Tiếu Quân Tử nói mà.” “Chị Đặng” biết La Phi có phần bán tín bán nghi, nên càng nói với giọng chắc chắn hơn, “Chuyện này khẳng định là không sai! Anh nghĩ mà xem, một người đàn ông đã trưởng thành, có ai lại vô duyên vô cớ tự cắm sừng cho mình như vậy?”

Nếu là Lý Quân tự nói ra thì đúng là không sai fôi. La Phi lắc đầu bất lực, anh cũng có thể coi là người quen nhiều hiểu rộng, nên không thể không thấy ái ngại trước kiểu sinh sống như vậy. Sau đó anh lại hỏi: “Còn đứa bé sau này thì là con của Lý Quân chứ?”

“Chẳng lẽ đứa nào cũng không phải là con đẻ được sao?” “Chị Đặng” nhìn La Phi một cái, ý như muốn nói: anh cũng suy diễn quá rồi đấy!

La Phi mỉm cười tự chế giễu, còn “chị Đặng” thì nói tiếp: “Tiểu Quân Tử tâm thiện, thích trẻ con. Nhưng đứa lớn không phải là con đẻ của cậu ta, cậu ta có phần không cam tâm, nên hai năm sau đòi đẻ đứa thứ hai. Lần này cũng lại là con gái, còn xinh hơn cả đứa lớn. Tên cũng là do Tiểu Quân Tử đặt, là Lý Mộng Kiều.”

“Nhà đã có hai đứa con, họ làm thế nào để nuôi chúng?”

“Tiểu Quân Tử làm bảo vệ ở bên ngoài, lương tháng một ngàn tệ, cố gắng chắt bóp để sống qua ngày. May mà cũng còn có cái nhà nên mới cầm cự được.”

“Tần Yến không đi làm à?”

“Ôi dào!” “Chị Đặng” thở dài một cái rồi hỏi lại bằng giọng không vừa lòng: “Cô ta thì có thể làm được gì? Mẹ của hai đứa con rồi, chả nhẽ lại đến phòng trà làm tiếp tân?”

“Cũng phải, nếu đã không tìm được công việc phù hợp thì thà là ở nhà trông con còn hơn.”

“Chị Đặng” càng lắc đầu: “Anh còn mong chờ cô ta chăm sóc bọn trẻ ư? Nếu cô ta biết chăm sóc bọn trẻ thì đã không xảy ra chuyện như thế rồi.”

“Vậy, ai chăm sóc bọn trẻ?”

“Tiểu Quân Tử. Cậu ta vừa làm cha vừa làm mẹ. Không những đi làm ở ngoài, về đến nhà lại cơm nước, giặt giũ.” Chị Đặng ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp với giọng kết luận: “Nếu không có cậu ấy cầm cự thì cái nhà đó đã tan rồi.”

La Phi lặng lẽ thở dài. Thực ra, ngay từ 16 năm trước, hiện thực đã dùng cách thức tàn khốc nhất để chứng minh cho nhận xét của “chị Đặng”.

Năm đó, cuộc sống của cả một gia đình gắng gượng qua ngày nhờ sự cố gắng của Lý Quân. Nhưng sau đó xảy ra một chuyện đã phá tan sự cân bằng mong manh đó.

Khoảng hai tháng trước khi Lý Mộng Kiều ra đời, một người bạn của Lý Quân đưa một người đến ở nhờ nhà anh ta, những người này đã sử dụng ma túy trong suốt ba ngày liền. Sau đó, hai người kia đã gây chuyện ở quán bar sau khi sử dụng xong ma túy và bị cảnh sát bắt. Bọn họ đã khai ra là sử dụng ma túy tại nhà Lý Quân. Thế là cảnh sát đến đưa Lý Quân đi. Do Tần Yến sắp đến ngày lâm bồn nên Lý Quân được tạm tha chờ xét xử.

Sau khi về nhà, Lý Quân tưởng chuyện đó coi như là xong. Không ngờ, một năm sau, anh ta bất ngờ nhận được triệu tập của tòa án. Chuyện thật ra không lớn, có thể nộp tiền phạt để được xét xử tạm giam trong thời gian ngắn hoặc là quản chế. Nhưng Lý Quân không có tiền, cuối cùng tòa xử phạt giam có thời hạn trong 6 tháng với tội danh chứa chấp người sử dụng ma túy.

Trước khi đến, La Phi đã nghiên cứu các tài liệu có liên quan, nên không hỏi thêm về quá trình Lý Quân vào tù nữa. Điều mà anh quan tâm là chuyện khác.

“Bác hãy nói về chuyện sau khi Lý Quân ra tù đi a.” Giọng của La Phi trở nên trầm xuống, “Tôi vừa nghe nói, Lý Mộng Nam đã từng có lần chạy ra khỏi nhà mình.”

“Đúng vậy, lần đó nếu nó không chạy ra ngoài thì có lẽ cả hai đứa đều đã chết rồi.”

“Chuyện đó đã xảy ra một lần rồi, làm sao lại còn có thể xảy ra lần thứ hai?”

“Chà, có cách nào đâu? Người làm cha đã vào tù, còn người làm mẹ thì chẳng quan tâm, chăm sóc, như thế liệu có thể không xảy ra chuyện được không?” Giọng của “chị Đặng” lộ vẻ bất lực.

La Phi lắc đầu, thực ra là anh muốn hỏi tại sao mọi người lại không giúp hai đứa bé ấy? Nhưng, nếu vậy thì lại có vẻ chất vấn, nên anh đành tìm cách nói uyển chuyển hơn.

“Chị Đặng” cũng đã thấy được ý của La Phi, bèn chủ động nói: “Thực ra, tôi cũng đã giúp chúng.”

“Vậy à?” La Phi tỏ vẻ muốn nghe chi tiết.

“Chị Đặng” nói: “Sau khi xảy ra chuyện lần đầu, tôi đã chủ động gặp Tần Yến, tôi đề nghị cô ta lần sau có đi vắng thì đừng khóa cửa, như thế hàng xóm mới có thể trông giúp bọn trẻ. Kết quả, Tần Yến nói ngay là cháu gửi bác một chiếc chìa khóa. Tôi nghĩ, thế cũng được, nên đã cầm một chiếc chìa khóa từ cô ta. Buổi chiều, trước khi chuẩn bị đi, Tần Yên nói với tôi: cháu ra ngoài một chút, cháu sẽ về trước 6 giờ tối. Đến hơn 5 giờ, tôi mang bát cơm sang cho bọn trẻ ăn, mở cửa ra nhìn thì thấy Tần Yến đã về. Lúc đó, tôi đã lấy làm mừng, nghĩ bụng, ít ra cũng còn chút lương tâm của người mẹ. Nhưng, tiếc là chuyện đó chẳng kéo dài được bao lâu, lần thứ hai cô ta ra ngoài, cũng nói là một lát sẽ về, cuối cùng mấy ngày trời cũng không thấy đâu. Mấy ngày đó, ngày ngày tôi mang cơm cho bọn trẻ ăn, mệt một chút cũng không sao, có điều áp lực trong lòng thì quá lớn, đêm nào tôi cũng không ngủ được.”

La Phi gật đầu, tỏ ý thông cảm. Lần đi đó của Tần Yến chẳng khác gì đổ trách nhiệm sang cho đối phương. Hai đứa trẻ còn nhỏ như vậy, nếu có mệnh hệ nào thì “chị Đặng” đúng là khó mà gánh vác nổi.

“Vì thế mà sau này bác không tiếp tục nữa?”

“Đúng thế, chờ Tần Yến về, tôi trả lại chìa khóa cho cô ta. Không phải là tôi không muốn quan tâm đến hai đứa trẻ đó, mà là không quan tâm được.”

La Phi đưa mắt nhìn về tòa 20 phía xa, tưởng tượng ra cảnh tượng bi thảm đã từng xảy ra ở đó. Đối với hai đứa trẻ, điều bất hạnh lớn nhất là có một cặp cha mẹ không đáng trông cậy. Còn người ngoài, cho dù có cố gắng thế nào cũng khó mà thay đổi được số phận bi thảm của chúng.

Lát sau, La Phi lại lên tiếng, anh giữ lại câu hỏi quan trọng nhất vào lúc sau cùng: “Bác có biết Hắc Oa không?”

“Hắc Oa?” “Chị Đặng” ngây người một chút, không nghĩ ngay ra câu trả lời.

“Đúng. Tôi nghe nói Lý Mộng Nam rất sợ Hắc Oa, nhưng tôi không biết Hắc Oa là ai.”

“À….” chị Đặng kéo dài giọng, “Tôi nhớ ra rồi! Hắc Oa là con chó mực mà nhà đó nuôi!”

2

Tòa nhà cũ xây từ 20 năm trước, bóng đèn chiếu sáng trong hành lang hình như không thể sáng hơn được nữa. May mà còn có chút ánh sáng chiếu qua cửa thoát khí vào trong, nên hành lang nhỏ không đến mức tối thui.

Không khí ẩm thấp, mùi ẩm mốc xộc vào mũi. La Phi chợt nhận ra cảm giác này đã từng được biết đến, anh nhíu mày suy nghĩ một lát và lập tức biết được cảm giác đó đến từ đâu. Mấy hôm trước, khi đến nhà tìm Lục Phong Bình, nơi ở của anh ta cũng cũ kĩ, rách nát như thế này.

Một người về kinh tế không đến mức eo hẹp sao lại lựa chọn một nơi ở tồi tàn như vậy?

Có lẽ vì nơi đó có một số thứ mà người ta không thể vứt bỏ được chăng?!

Vừa đi vừa nghĩ, La Phi đã lên đến tầng bốn rồi sau đó dừng chân ở phía bên trái.

Trước mặt là một cửa vào bằng sắt. Lớp sơn trên cửa đã hoen gỉ, biển nhà trên khung cửa cũng bám đầy bụi, nhưng vẫn lờ mờ đọc được mấy số “403”.

Chính là cánh cửa này đã từng tạo nên sự cách biệt giữa bên trong với bên ngoài thành hai thế giới. Chỉ một khoảng cách tầm khoảng chục phân mà đã cắt ngang giữa sự sống và cái chết.

La Phi đứng bên cửa một lát, cố nắm bắt lấy một trạng thái đang bồng bềnh giữa quá khứ và hiện tại. Một lát sau, anh đưa tay phải lên, gõ hai tiếng lên cánh cửa.

Trong nhà có tiếng người đáp: “Ra đây.” Nghe tiếng thì thấy người đó ở một chỗ không xa lắm. Quả nhiên, cánh cửa nhà nhanh chóng được mở ra. Một người đàn ông xuất hiện ở sau cửa, anh ta nhìn La Phi rồi ngây người ra, sau đó lại mỉm cười nói: “Ồ, sao anh lại đến đây?”

Người đó chính là Dương Hưng Xuân.

La Phi cũng đáp lại bằng nụ cười nhẹ, nhưng không trả lời câu hỏi của đối phương.

Dương Hưng Xuân nép người về phía sau nhường lối, rồi nói: “Vào nhà ngồi đi.”

La Phi bước vào trong nhà.

Đó là một căn hộ hai phòng kiểu cũ, vừa vào cửa là phòng khách. Trang trí và đồ dùng trong nhà đều mang phong cách cũ, một cảm giác cũ kỹ nhiều năm xộc ngay đến.

Phía đông của phòng khách nối liền với bếp ăn, một chiếc bàn ăn bốn người dựa sát vào tường. Trên bàn ăn bày ba chiếc bát đĩa: một chiếc đĩa đựng khoai tây xào, một bát canh to và một bát cơm nhỏ.

La Phi quay đầu lại hỏi chuyện: “Đang ăn cơm à?”

“Phải.” Dương Hưng Xuân đóng cửa, hỏi lại: “Anh đã ăn chưa?”

La Phi lắc đầu: “Chưa.”

“Vậy thì ăn cùng đi.” Dương Hưng Xuân chạy đến bên bàn ăn, kéo chiếc ghế gập dưới gầm bàn, “Nào, ngồi xuống đây, để tôi làm thêm một vài món.”

La Phi đáp: “Không cần phiền phức thế đâu.”

Dương Hưng Xuân kiên quyết: “Anh đến chỗ tôi mà lại để bị đói à? Có điều, chỗ tôi khá đơn giản, anh đừng có chê đấy.”

Nghe Dương Hưng Xuân nói vậy, La Phi bèn ngồi xuống. Dương Hưng Xuân lấy từ trong tủ lạnh ra một số thứ rồi tất bật bên bếp một hồi. Cũng không phải là món gì cao sang, mà chỉ là một đĩa lạc rang, một đĩa cà chua xào thịt gà và một đĩa lạp xưởng.

Dương Hưng Xuân đưa bát đũa cho La Phi, rồi quay đi lấy một chai rượu trắng đến. Anh ngồi xuống đối diện với La Phi, vừa mở nút chai rượu vừa nói: “Chẳng có rượu ngon đâu, uống tạm loại này.”

“Không, hôm nay tôi không uống rượu được,” La Phi đưa tay ngăn trước chiếc ly thủy tinh.

Chai rượu dừng lại lưng chừng, Dương Hưng Xuân đưa mắt chăm chú nhìn La Phi.

“Đúng là không được uống mà”, La Phi tỏ ra kiên quyết, “Uống là vi phạm kỷ luật.”

Dương Hưng Xuân dường như đã hiểu ra điều gì đó, anh “Ồ” một tiếng, “Có công chuyện à? Vậy thì không được uống rượu thật.”

“Có thể thay bằng nước trà hay gì đó khác cũng được.”

“Được, vậy tôi sẽ uống trà với anh.” Dương Hưng Xuân lại đứng lên vào bếp pha ấm trà. Khi quay lại, tay phải anh cầm ấm trà, tay trái cầm một chiếc túi màu đen. Anh rót trà cho La Phi trước, rồi để chiếc túi màu đen kia ở mép bàn sát tường.

La Phi cầm tách trà trong tay, nói với vẻ cảm khái: “Chúng ta quen nhau đã nhiều năm như vậy mà đây mới là lần đầu đến nhà anh.”

“Nhà ư?” Dương Hưng Xuân lắc đầu, “Không, đây không phải là nhà tôi.” Nói rồi, anh cũng rót cho mình một tách trà.

La Phi thốt lên: “Ố?” Anh cứ đinh ninh rằng chỗ này là nhà của Dương Hưng Xuân, chỉ có điều không biết tại sao đối phương lại phủ định chuyện đó.

Dương Hưng Xuân đưa mắt nhìn quanh một lượt, vẻ buồn bã. Sau đó anh lại thu ánh mắt về nhìn La Phi, giải thích: “Đây chỉ là chỗ ở của tôi. Mà chỉ có chỗ ở thì không được gọi là nhà. Phải có phụ nữ, có trẻ con thì mới gọi là nhà.”

La Phi ngây người, rồi mỉm cười đau khổ vẻ đồng cảm. Bụng thầm nghĩ: thì ra mình cũng là người không có nhà.

Dương Hưng Xuân cầm tách trà lên nhấp một ngụm, hỏi La Phi: “Anh có biết câu nói đó do ai nói không?”

La Phi hỏi lại: “Chẳng phải do anh nghĩ ra sao?”

“Không.” Dương Hưng Xuân đặt tách trà xuống, nhìn La Phi, đáp: “Người nói câu đó là chủ nhân trước đây của căn nhà này.”

“Lý Quân?”

“Phải, là Lý Quân. Anh ta từng là người có nhà, anh ta cũng biết cái tốt của nhà, nên mới nói ra câu đó.” Sau khi ngừng lại một chút, giọng của Dương Hưng Xuân chợt trở nên nuối tiếc: “Đáng tiếc thay, anh ta lại không biết trân quý nó.”

La Phi nheo mắt nhìn Dương Hưng Xuân rồi đột ngột hỏi: “Nên anh đã bắn chết anh ta?”

Dương Hưng Xuân bị câu hỏi của La Phi đâm trúng, mặt anh đanh lại, không biểu lộ. Một hồi lâu sau, anh cố nặn ra nụ cười, rồi mời La Phi với tư thế của chủ nhà: “Sao cứ nói chuyện mà không ăn thế? Nào, nếm thử tài nghệ của tôi đi.”

La Phi cầm đũa lên, gắp một hạt lạc đưa vào miệng, nhai như không nhai. Mắt anh vẫn chăm chú nhìn đối phương.

Chó săn một khi đã cắn được con mồi thì quyết không dễ dàng buông ra.

Dương Hưng Xuân không nhìn lại La Phi nữa, ánh mắt của anh tập trung vào những món ăn trên bàn và anh chỉ chú ý gắp món ăn. Khoai tây thái chỉ xào, lạc, gà xào, lạp xưởng… mỗi món đều thử mấy lần, rồi vừa ăn vừa tự đánh giá.

“Khoai tây chỉ phải thái thật nhỏ, khi ăn thì mới giòn.”

“Lạc là do tôi rang, lửa vừa đủ. Anh biết không, nếu mà không đủ lửa thì lạc sẽ không thơm, nếu quá lửa thì lại bị cháy.”

“Vừa ăn là biết ngay, đây là gà quê chính cống, gà công nghiệp sẽ không cho ra cái vị này đâu.”

“Lạp xưởng là tôi mua ở thị trấn Công Đạo phía đông thành phố đấy, đó là loại lạp xưởng ngon nhất ở Long Châu. Mấu chốt ở đâu có biết không? Ở việc sử dụng nguyên liệu cho tinh tế. Anh nếm thử đi, càng nhai lại càng thấy thơm!”

Cuối cùng, La Phi không nén được nữa, lên tiếng: “Không ngờ, anh cũng nghiên cứu kỹ về cách chế biến món ăn như vậy.” Câu nói đó không lạnh lùng cũng không vồn vã, cũng không biết là có thật lòng khen đối phương hay là cố ý ngắt lời đối phương hay không nữa.

Dương Hưng Xuân ngẩng lên nhìn La Phi, nói: “Người đàn ông biết nấu ăn, thường rất chú tâm đến gia đình.”

La Phi cười khan một tiếng, không trả lời đối phương.

“Tôi biết là anh cười gì.” Dương Hưng Xuân bĩu môi, “Chắc là anh đang nghĩ: đến cả nhà anh cũng không có, thế mà còn nói đến chuyện chú tâm đến nhà gì chứ? Thực ra, không phải là tôi tự khen đâu, mà đó là lời nhận xét của vị hôn thê của tôi.”

“Anh có vị hôn thê à?”

“Có chứ, chuyện nhiều năm trước rồi, cho nên anh không biết.” Dương Hưng Xuân tựa người vào ghế, môi khẽ nhếch lên, “Cô gái đó thực sự rất tốt, người cũng xinh đẹp, tính nết thì nhu hòa. Điều quan trọng nhất là cô ấy rất ủng hộ công việc của tôi. Hồi đó, tôi thường xuyên phải trực đêm, nên ngày nào cô ấy cũng mang đồ ăn đêm cho tôi. Có lúc là cháo trắng, có lúc thì bát mì vằn thắn, có lúc lại là bát mì sợi. Dù cho trời lạnh thế nào thì những món ăn đó khi mang đến cho tôi cũng vẫn còn nóng. Cách nhiệt của bình bảo ôn hồi ấy vẫn còn chưa tốt, cô ấy bèn ôm nó vào lòng, sau đó đạp xe mang đến đồn cho tôi. Ôi, những món ăn đêm nóng hôi hổi đó đưa vào miệng ngon biết bao nhiêu!”

Nghe đối phương nói vậy, La Phi cũng cảm thấy cô gái đó đúng là rất tuyệt. Nhưng một câu thắc mắc chợt nảy ra: “Một cô gái tốt như thế, sau này sao…”

“Suýt nữa thì đã cưới rồi. Nếu hồi đó cưới thì bây giờ tôi cũng là một người có nhà rồi.” Dương Hưng Xuân nhắm mắt lại, chìm đắm trong giấc mơ tốt đẹp, nhưng rồi anh lại mở bừng mắt ra, vẻ buồn bã, “Đáng tiếc, mọi thứ sau đó đều thay đổi.”

La Phi hỏi dồn: “Tại sao?”

“Vì căn nhà này.” Dương Hưng Xuân ngẩng đầu lên từ từ nhìn bốn phía xung quanh, vẻ mặt của anh mỗi lúc một nặng nề thêm, sau cùng anh thở dài, nhìn La Phi rồi nói: “Anh có biết không, nơi đây thực ra là một nấm mồ.”

Đối phương nói với vẻ rất nghiêm túc khiến La Phi bất giác có một cảm giác ớn lạnh. Anh biết, căn nhà này đã từng xảy ra chuyện cũ đáng sợ, nhưng vì thế mà gọi nó là nấm mồ thì hình như có phần hơi thái quá.

Dương Hưng Xuân im lặng một lát, rồi bổ sung một câu: “Nấm mồ của hai gia đình.”

Hai gia đình? Một là chỉ Lý Quân, một gia đình khác có lẽ chỉ chính Dương Hưng Xuân. Câu chuyện của Lý Quân thì anh đã biết, còn Dương Hưng Xuân thì sao? Nhà của anh ấy tại sao lại cũng bị chôn vùi ở đây?

Dương Hưng Xuân cũng đã thấy được những suy nghĩ của La Phi, bèn chủ động nói: “Tôi sẽ kể cho anh nghe chuyện của tôi và căn nhà này.” Vừa nói, anh ta vừa đặt đôi đũa trong tay xuống, cầm tách trà lên nhấp một ngụm.

“Được.” La Phi tỏ vẻ sẵn sàng lắng nghe.

Dương Hưng Xuân nhấp nước trà để làm mềm cổ họng, một hồi lâu sau mới nuốt xuống bụng, câu chuyện mà anh muốn kể đó dài và khá quanh co.

3

Lần đầu tiên tôi biết căn nhà này có lẽ là 16 năm về trước. Lúc đó, tôi vừa rời khỏi quân đội và được điều về làm cảnh sát địa phương ở đồn Cao Lĩnh. Tôi nhớ lúc đó là cuối tháng 3, vừa mới vào xuân, thời tiết vẫn rất lạnh. Hôm đó, tôi nhận được điện thoại điều động của trung tâm chỉ huy, nói rằng trong khu vực quản lý có trẻ nhỏ bị khóa ở trong nhà nên tôi phải tới xem. Chuyện này trước đó tôi cũng đã từng gặp, thường là cha mẹ ra ngoài một lát để làm các việc như đổ rác chẳng hạn, vì vậy không mang theo chìa khóa nên đã nhỡ tay khóa trái cửa lại. Chuyện như thế cũng không có gì phiền phức, chỉ cần gọi một thợ khóa đi cùng, ba đến năm phút sau là sẽ giải quyết được. Đến hiện trường….”, Dương Hưng Xuân giơ tay chỉ về phía cửa, “Chính là bên ngoài cánh cửa kia - thì mới biết tình hình không thông thường như vậy. Có hai đứa bé bị nhốt trong nhà, người lớn thì không biết đi đâu. Sau đó, đứa lớn - một đứa bé gái hơn 3 tuổi mở cửa chạy ra ngoài, nhưng khi nó chạy ra thì lại khóa cửa lại, và trong nhà vẫn còn một đứa bé hơn.”

La Phi gật đầu vẻ đã hơi hiểu ra. Rất rõ ràng là Dương Hưng Xuân đang nói đến chuyện lần đầu tiên Lý Mộng Nam từ trong nhà chạy ra. Chuyện này La Phi vừa nghe bà Vương kể, nhưng anh không biết, người cảnh sát chạy đến hiện trường lúc đó thì ra lại chính là Dương Hưng Xuân.

Dương Hưng Xuân tiếp tục kể: “Lúc đó, đứa bé lớn đứng bên cửa. Trời lạnh như vậy mà nó cởi trần, chiếc áo khoác to đùng trên người, nhìn thì biết ngay là của ai đó tốt bụng mới khoác lên cho. Trên người đứa bé toàn phân là phân, đầu tóc toàn chấy rận, trông không còn ra hồn người nữa. Nhìn điệu bộ ấy thì biết có lẽ nó đã không được chăm sóc nhiều ngày rồi.

Lúc đó tôi cũng không kịp hỏi nhiều, vội bảo thợ khóa mở cửa ra. Người thợ khóa rất giỏi nên chỉ sau vài ba động tác là mở được ngay. Chúng tôi chạy vào nhà tìm đứa bé còn lại. Lúc đầu không thấy đâu, cuối cùng thì cũng đã tìm thấy nó. Anh có biết nó ở đâu không? Ở trong nhà xí! Đứa bé đó nằm sấp trên bệ xí, trong tư thế cúi xuống uống nước trong bồn xí.

Nói đến đây, Dương Hưng Xuân cố ý dừng lại nhìn La Phi một chút. La Phi bất giác thè lưỡi, uống nước ở bồn xí? Chi tiết này lúc trước bà Vương không nhắc đến, bây giờ mới nghe thấy nên anh không khỏi thấy rùng mình.

Dương Hưng Xuân cũng thở dài một cái rồi nói tiếp: “Lúc mới đầu cứ tưởng là đứa bé đó đã chết rồi, nhưng đưa tay sờ thì thấy vẫn còn thở! Tôi vội bế nó lên, đầu tiên cho nó uống chút nước, sau đó có một cô hàng xóm mang sang cho một bát sữa nóng. Đứa bé uống ừng ực hết bát sữa mới dần lấy lại sức sống. Tôi vội gọi xe cấp cứu đưa bọn trẻ đến bệnh viện kiểm tra. Dọc đường, tôi luôn bế đứa bé ấy. Theo lý thuyết thì trẻ hơn một tuổi đã bắt đầu biết lạ, nhìn thấy người lạ sẽ khóc tướng lên đúng không? Nhưng đứa trẻ đó lại đưa bàn tay nhỏ tí xíu của mình ra nắm chặt lấy tay tôi không chịu rời một phút.” Nói đến đây, Dương Hưng Xuân hơi nheo mắt lại, lộ vẻ vô cùng bối rối, anh ta thở dài: “Hôm ấy, tôi mới thực sự hiểu được thế nào gọi là chết đuối vớ được cọc. Đứa bé đó nắm chặt tay tôi, giống như nắm chặt lấy tia hy vọng cuối cùng trong đời. Tôi có thể cảm nhận thấy mong muốn được sống của nó, đó là bản năng nguyên thủy nhất của mọi loài sinh vật.”

La Phi biết tại sao Dương Hưng Xuân lại bối rối, vì đứa bé đó cuối cùng vẫn chưa thoát khỏi kiếp nạn đáng sợ. Còn Dương Hưng Xuân là người đã từng cứu nạn, nên chắc chắn càng có cảm xúc rất sâu về bi kịch đó.

Sau một hồi xúc động, Dương Hưng Xuân trở lại với hồi ức: “Đến bệnh viện, sau khi kiểm tra xong, hai đứa trẻ đều được kết luận là suy dinh dưỡng nghiêm trọng, nhất là một tuổi rồi mà chỉ mới biết bò, mông nó chỉ bằng bàn tay. Đứa lớn cũng không khá gì hơn, phần dưới người nó có nhiều chỗ lở loét, đó là kết quả của việc lâu ngày không được thay tã gây ra.

Tôi nhớ, lúc đó có một hộ lý tắm rửa cho hai đứa bé, cô ấy vừa làm vừa chảy nước mắt. Sau đó, cô ấy nói riêng với tôi rằng: trong miệng của bọn trẻ cũng có phân. Vì là đàn ông, không dễ khóc như phụ nữ, nhưng nghe vậy trong lòng tôi cũng thấy rất thương xót. Nói thật, từ trước đến lúc đó, tôi chưa thấy đứa trẻ nào tội nghiệp đến thế. Tôi thực sự không biết kiểu cha mẹ nào lại có thể để con ra nông nôi ấy.

Sau đó, qua tìm hiểu hàng xóm xung quanh, được biết đứa lớn tên là Lý Mộng Nam, còn đứa bé tên là Lý Mộng Kiều. Bố của bọn trẻ tên là Lý Quân, mẹ là Tần Yến. Lúc đó Lý Quân đang trong trại giam vì tội chứa chấp người sử dụng ma túy, anh ta bị phạt giam 6 tháng. Còn Tần Yến thì mất liên lạc, nghe nói tới hai ba ngày rồi mà chưa thấy có mặt ở khu.

Tôi báo cáo tình hình với đồn, đồn cử người đi thăm dò tin tức của Tần Yến. Đến chiều muộn, cuối cùng thì cũng tìm được cô ta trong một quán net ở đường Thu Vũ. Đồng nghiệp của tôi đưa Tần Yến đến bệnh viện. Người đàn bà đó, nói thế nào nhỉ? Nhìn bề ngoài thì không có vẻ là một người xấu. Ăn mặc cũng bình thường, chỉ có điều mắt chẳng có hồn gì cả, phản ứng cũng có phần chậm chạp. Lúc đó, tôi hỏi Tần Yến, tại sao cô lại bỏ lũ trẻ ở nhà không chăm sóc? Tần Yến trả lời tôi rằng, đến bản thân mình cô ta còn không tự chăm sóc được thì làm sao chăm sóc được cho bọn trẻ?

Sau đó, tôi còn nghe nói người đàn bà đó không biết nấu cơm, không biết giặt quần áo, không biết làm gì cả. Có lần, cô ta xin được của hàng xóm hai quả trứng gà về cho con ăn, loay hoay một hồi không biết luộc thế nào, cuối cùng đành mang trứng sang để hàng xóm luộc hộ cho.”

La Phi lắc đầu tự nhủ: một người phụ nữ mà đến cả luộc trứng cũng không biết thì làm sao có tư cách trở thành mẹ của hai đứa trẻ được nhỉ?

Dương Hưng Xuân cũng mỉm cười bất lực: “Đối với người phụ nữ đó, tôi cũng không biết nói thế nào cho được, đành đưa cô ta đến phòng bệnh thăm bọn trẻ. Nhìn thấy hai đứa trẻ, Tần Yến cũng khóc, một tay bế đứa bé, một tay ôm đứa lớn, xem ra cũng rất đau lòng. Tôi đứng bên thầm nghĩ: dù thế nào thì người làm mẹ cũng vẫn cứ thương con, bây giờ, chủ yếu là cuộc sống không được ổn định, khả năng tự chăm sóc lại kém, sau này có lẽ sẽ khá hơn. Hừ, sự thật sau này chứng minh, tất cả chỉ là những suy đoán trong mơ của tôi mà thôi.

Bệnh viện lẽ ra muốn giữ hai đứa trẻ lại để tiếp tục điều trị, nhưng Tần Yến kiên quyết đòi mang chúng về, vì cô ta là người giám hộ hợp pháp của chúng, nên chúng tôi cũng không có quyền phản đối. Có điều, chuyện bọn trẻ chạy ra ngoài tự cầu cứu lần này khá lớn, nên tổ dân phố và đồn cảnh sát cũng bắt đầu quan tâm. Tối hôm đó, mọi người cùng đưa ba mẹ con cô ta về, tổ dân phố còn đưa tiền để nhờ bốn bà lớn tuổi đến quét dọn trong ngoài nhà một lượt. Bởi vì ở đó toàn cứt đái, chẳng có vẻ gì là nơi ở của con người.

Tất nhiên, sự giúp đỡ của mọi người với ba mẹ con họ không chỉ đơn giản ở việc quét dọn vệ sinh, cân nhắc đến chuyện Lý Quân vẫn đang ở trong tù, gia đình đó hoàn toàn không có nguồn kinh tế, tổ dân phố còn quyết định trợ giúp kinh tế cho họ. Hồi đó, khoản tiền trợ cấp quy định là mỗi tháng 800 đồng” Dương Hưng Xuân ngừng một lát, anh ngẩng đầu lên nhìn La Phi với ý tứ sâu xa, sau đó kể tiếp: “Và nhiệm vụ phát tiền cứu trợ được giao cho tôi.”

“Ồ”, La Phi gật đầu hiểu ý, rồi nói: “Đây là một việc cũng gai góc đấy.”

“Đúng thế.” Dương Hưng Xuân đưa đầu ngón tay, khẽ gõ lên mặt bàn mấy cái, “Nhiệm vụ của tôi không phải đơn giản là phát tiền, điều quan trọng hơn là tôi phải giám sát Tần Yến, đảm bảo rằng số tiền đó được dùng vào sinh hoạt hàng ngày của mấy mẹ con, chứ không phải bị cô ta tiêu linh tinh cho mình.”

“Tất nhiên rồi. Nếu như chỉ là phát tiền, thì trong tổ dân phố có nhiều bà già lớn tuổi như vậy, ai phát mà chẳng được? Cần gì phải giao cho một cảnh sát?”

“Đội trưởng La đúng là rất hiểu người khác!” Dương Hưng Xuân ngừng một chút, rồi nói tiếp: “để hoàn thành nhiệm vụ này, tôi phải cố nghĩ ra một cách cấp tiền đặc biệt, đem khoản trợ cấp cấp làm bốn lần. Cũng có nghĩa là mỗi tuần cấp một lần, mỗi lần 200 đồng. Như vậy, mỗi tuần đến kỳ cấp tiền, tôi lại đến nhà Tần Yến xem một lần, để đảm bảo rằng cuộc sống của bọn trẻ vẫn bình thường. Tôi nghĩ rằng, như thế có thể kiểm soát được Tần Yến, thúc đốc cô ta chăm sóc tốt cho bọn trẻ.”

La Phi tỏ ý tán thành: “Cách đó rất tốt.”

“Nhưng anh biết không, chuyện đó cuối cùng làm tôi đổ bể đấy.” Dương Hưng Xuân hơi nhếch mép lên, để lộ nụ cười đau khổ. Nụ cười đó ẩn chứa sự tự trách và bất lực.

La Phi “ồ” một tiếng, chờ nghe tiếp.

“Thực ra, lúc mới bắt đầu, kết quả cũng khá tốt.” Dương Hưng Xuân tựa người vào ghế, ngước mắt nhìn lên, tỏ vẻ tự an ủi, “Từ tháng 3 đến tháng 6, tổng cộng tôi cấp 11 khoản trợ cấp, tổng số là 2200 đồng. Trong thời gian đó, cuộc sống của ba mẹ con xem ra cũng khá tốt. Mỗi lần tôi đến cấp tiền, cả hai đứa trẻ đều có ở nhà và nhà cũng được dọn sạch sẽ. Sau đó, tôi đưa Tần Yến đi mua những nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống, giúp cô ta mang về nhà rồi mới ra về.”

La Phi xen vào: “Thời gian anh đến cấp tiền đều vào ngày cố định trong tuần à, hay là vào những lúc anh rỗi?”

“Chủ yếu là xem lúc nào tôi rỗi. Vì bình thường công việc của tôi cũng rất bận rồi, không xác định được thời gian chắc chắn, do vậy phải áp dụng cách làm tương đối linh hoạt. Trước lúc tới, tôi đều gọi điện cho Tần Yến. Gần như chúng tôi đã thỏa thuận bảo Tần Yến ở nhà chờ.”

“Nếu như vậy…”, La Phi nhắc Dương Hưng Xuân, “thì tình hình anh nhìn thấy mỗi lần chưa hẳn là trạng thái cuộc sống đích thực của bọn trẻ.”

“Ý của anh là…”, Dương Hưng Xuân trầm ngâm, “vì trước khi đến tôi đều thông báo cho Tần Yến, nên cô ta đã có thể chuẩn bị trước để tạo ấn tượng tốt cho tôi, và có thể lấy được số tiền trợ cấp một cách thuận lợi?”

“Đúng thế. Hơn nữa, trạng thái cuộc sống thực của ba mẹ con ngày thường, có lẽ anh đã không nhìn thấy được.”

“Đúng là tôi đã không để ý đến vấn đề này.” Dương Hưng Xuân thở dài, nói tiếp: “Bây giờ nghĩ lại, thực ra một số việc đã có manh nha, nhưng đáng tiếc là lúc đó tôi lại không coi trọng.”

“Thế sao? Ví dụ?”

“Ví dụ bà ngoại của Tần Yến đã báo cảnh sát, nói rằng cô ta lại nhốt bọn trẻ trong nhà không chăm sóc.”

“Bà ngoại của Tần Yến?” La Phi hơi ngạc nhiên.

“Đúng vậy. Sao thế?”

“Cô ta có người thân à? Tôi cứ tưởng…”

Dương Hưng Xuân hiểu rõ ý của La Phi: “Anh tưởng rằng cô ta là trẻ mồ côi không có người chăm sóc? Không phải đâu. Có điều, cũng chẳng khác gì trẻ mồ côi.”

“Thế à? Nói thử xem.” La Phi thấy hứng thú với gia cảnh của người phụ nữ này.

“Mẹ của Tần Yến có bầu trước khi lấy chồng, bố của cô ta là ai, có lẽ đến cả chính bà ấy cũng không rõ. Sau khi đẻ Tần Yến, bà ta bỏ đi với một người đàn ông khác, bây giờ đã lấy chồng và sinh con ở Tứ Xuyên rồi và hầu như không liên hệ gì với người trong gia đình. Từ nhỏ, Tần Yến đã ở với ông bà ngoại, không biết bố đẻ ở đâu và cũng chưa gặp lại mẹ lần nào. Anh nói xem, như vậy thì có khác gì trẻ mồ côi?”

La Phi khẽ thở dài, rồi nói: “Thảo nào.” Trước đó, anh cứ lấy làm khó hiểu rằng là một phụ nữ mà sao Tần Yến lại thiếu luân lý làm người như vậy? Từ nhỏ, cô ta đã không có được tình yêu thương của mẹ thì làm sao biết dùng tình yêu của người mẹ để quan tâm chăm sóc cho những đứa con của mình?

Thắc mắc này đã được giải đáp, La Phi vội quay lại với vấn đề hiện tại: “Được rồi, anh nói tiếp đi, về chuyện bà ngoại của Tần Yến báo cảnh sát.”

“Bà cụ đó đã báo cảnh sát hai lần, nhưng lần đầu thuần túy là một sự hiểu lầm.” Dương Hưng Xuân nhấp một ngụm trà, rồi kể chi tiết: “Tôi nhớ lúc đó vào tháng 4, bà cụ liên lạc với Tần Yến mấy lần mà không được, không yên tâm, bà đã chạv đến khu Tường Hinh Uyển để thăm các chắt. Gõ cửa một hồi lâu nhưng trong nhà không có ai trả lời. Bà cụ cuống lên, nghi là Tần Yến lại bỏ đi, hai đứa trẻ bị nhốt trong nhà lâu có khi đã xảy ra chuyện. Thế là bà cụ gọi điện đến đồn cảnh sát. Nhận được điện thoại xong, tôi cũng thấy rất lo, vội gọi thợ khóa đến để mở cửa. Chúng tôi tức tốc chạy ngay vào trong nhà, đến khi vào phòng ngủ thì thấy Tần Yến và hai đứa trẻ đang ngủ rất say. Tần Yến tỉnh dậy cứ mắng bà ngoại, trách bà làm mất giấc ngủ của mình. Chúng tôi đứng bên, nghe thấy vậy cũng rất khó chịu. Anh thấy đấy, chuyện đó thật là khó xử.”

“Như vậy… đúng là muốn tốt lại thành ngược lại.” La Phi trầm ngâm một lát rồi nói: “Thực ra, bà cụ cũng có thể cầm một bộ chìa khóa, như thế chẳng phải có thể thường xuyên đến thăm các chắt sao? Sau này, có gặp phải chuyện tương tự cũng không đến nỗi tạo ra kinh động lớn.”

Là hàng xóm, chị Đặng cũng đã từng giữ một bộ chìa khóa để chăm sóc hai đứa trẻ, thì người là cụ càng không nên từ chối việc này mới phải. Hơn nữa, bà cụ là quan hệ máu mủ với bọn trẻ, nên sẽ không phải lo liên lụy giống như chị Đặng nếu như có việc gì xảy ra.

Dương Hưng Xuân chìa tay nói: “Chúng tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng bà cụ lại không chịu.”

“Tại sao?”

“Trước đó bà cụ cũng đã từng giữ một bộ chìa khóa, nhưng sau đó Tần Yến cứ nói thiếu cái này, mất cái kia, rồi cứ trách móc bà cụ. Bà cụ không chịu được oan ức ấy, đem trả lại chìa khóa cho Tần Yến. Khúc mắc ấy chưa được giải quyết, thái độ của cô ta với bà cụ lại tệ hại như vậy thì liệu bà cụ có cầm chìa khóa được không?”

“Như vậy… đúng thật là…”, La Phi nói đến nửa chừng thì không nói nữa, vì anh không biết nên đánh giá thế nào. Ai cũng biết nhà nào cũng có chuyện, nhưng chuyện nhà họ quả là hiếm thấy và khó hình dung. Thôi, hãy đưa câu chuyện trở về với sự việc chính vậy.

“Vì việc báo cảnh sát lần đầu xảy ra hiểu lầm, nên đến lần thứ hai khi bà cụ lại báo cảnh sát, thì các anh không coi trọng nữa, đúng không?” La Phi đoán.

Dương Hưng Xuân gật đầu.

“Anh có đến đó không?”

“Không.” Dương Hưng Xuân im lặng một lát rồi nói: “Nhưng tôi vẫn điều tra.”

La Phi cười khì một tiếng: “Không đến thì điều tra thế nào?”

“Tôi hỏi bà cụ, có nghe thấy tiếng trẻ con đập cửa trong nhà hay kêu khóc gì không. Sau đó, tôi lại hỏi mấy hàng xóm cùng đơn nguyên, thì họ nói mấy ngày đó không thấy tiếng gì khác thường. Tôi thì nghĩ: đứa trẻ đó đã ba, bốn tuổi, nếu gặp phải chuyện chẳng lành nghiêm trọng, hẳn sẽ tạo ra tiếng động trong nhà.”

“Vì vậy, thấy trong nhà không có tiếng động thì anh nghĩ rằng bọn trẻ không có chuyện gì?”

“Đúng thế.” Dương Hưng Xuân giải thích: “Lần trước, Tần Yến nhốt bọn trẻ trong nhà, hàng xóm đã nghe thấy tiếng Lý Mộng Nam đập cửa và kêu khóc. Vì vậy tôi nghĩ: lần này có lẽ mấy mẹ con lại nằm ngủ trong nhà thôi, hoặc là Tần Yến đưa chúng ra ngoài chơi.”

“Phán đoán như vậy cũng phù hợp logic, chỉ có điều…”, La Phi lắc đầu, “Chuyện này liên quan đến an nguy tính mạng của hai đứa trẻ, nếu chỉ dựa trên suy đoán logic e rằng có phần cẩu thả.”

“Anh nói rất đúng.” Dương Hưng Xuân bất giác cúi đầu, như muốn lẩn tránh điều gì đó.

La Phi biết được là đối phương đang tự trách mình, bèn hỏi với vẻ rất nhạy cảm: “Chính là chuyện đã xảy ra trong lần này?”

“Không phải thế.” Dương Hưng Xuân ngẩng đầu lên, tiếp tục nhớ lại, “Thực ra, sau lần thứ hai bà cụ báo cảnh sát, ít nhiều tôi cũng thấy không yên tâm, vì thế mấy ngày sau lại hẹn Tần Yến để đến cấp tiền. Khi tôi đến nhà, thấy người lớn và trẻ con đều khỏe. Vì vậy, việc báo cảnh sát lần thứ hai có lẽ cũng là một lần hiểu lầm.”

“Có thể…”, La Phi nhún vai, cảm thấy rất không vừa lòng với cách dùng tù đó, sau đó anh cố gắng nói: “Dù thế nào, thì nếu lần thứ hai mà anh cũng không tới thì lần thứ ba bà cụ sẽ không báo cảnh sát nữa. Vì vậy, khi mà cuối cùng bọn trẻ gặp chuyện, chúng đã mất đi kênh thông qua cụ ngoại để cầu xin giúp đỡ.”

“Đúng vậy… Chính là vì sự suy đoán chủ quan của tôi nên mới gây ra hậu quả đáng tiếc đó.” Dương Hưng Xuân cười buồn bã thừa nhận. Một lát sau, anh ta nói thêm: “Thực ra, ngòi nổ dẫn đến việc xảy ra chuyện sau đó cũng là do tôi châm lửa.”

“Ồ?” La Phi nheo mắt, nhìn đối phương bằng ánh mắt xem xét.

Dương Hưng Xuân thở dài, chậm rãi nói: “Lúc đó là tháng 6, qua một tháng nữa là Lý Quân mãn hạn tù. Tôi luôn mong ngóng đến ngày đó, bụng thầm nhủ chỉ cần kiên trì đến ngày Lý Quân ra tù, thì trách nhiệm của tôi sẽ được trút bỏ. Nhưng, ông trời lại không chiều theo lòng người. Đầu tháng 6, trong khu vực của chúng tôi xảy một vụ cướp của giết người. Ảnh hưởng của vụ án đó rất xấu, lãnh đạo thành phố ra lệnh phải phá được vụ án đó trong một thời hạn. Loại vụ án không có manh mối kiểu này chắc anh cũng biết, việc phân tích tình hình vụ án cơ bản không có tác dụng, chỉ có thể lấy hiện trường vụ án làm trọng điểm để điều tra loại trừ. Hồi đó, đường phố cũng không có nhiều camera như bây giờ, việc điều tra chủ yếu là dựa vào chiến thuật biển người. Trong hai ngày, tôi đi khắp ba dãy phố, tìm hỏi từng cửa hàng ven đường, từng người qua đường, chân mỏi rã rời tưởng như muốn gãy. Như thế vẫn chưa hết, về đến đồn lại phải chỉnh lý lại hàng chồng bút lục… Tóm lại là mấy hôm đó tôi bận tối mắt tối mũi, thực sự không còn sức đâu mà lo đến những việc khác nữa.”

La Phi hỏi: “Có phải anh đã quên cấp tiền trợ cấp cho Tần Yến không?”

“Chuyện đó thì không. Chỉ là thực sự không có thời gian đến nhà, nên tôi gọi điện cho Tần Yến, bảo cô ta đến đồn để lấy tiền.”

La Phi gật đầu, giải quyết như vậy thì cũng không có gì là không được.

“Sau khi Tần Yến đến, tôi mới hỏi cô ta: bọn trẻ thế nào? Cô ta trả lời: đều ổn, đang ở nhà.” Dương Hưng Xuân im lặng một lát, sau đó mỉm cười tự châm biếm với vẻ lạnh lùng: “Tôi đã tin vào lời của cô ta.”

“Cô ta đã lừa dối anh?”

“Thực ra, đã hai ngày rồi cô ta không về nhà.”

“Thế sao?”

Dương Hưng Xuân nhìn La Phi, cười buồn bã: “Vừa rồi anh nói không sai, tình hình mà tôi nhìn thấy trong mấy lần đến cấp tiền lúc trước đều không thật, đều là do Tần Yến cố tạo ra để tôi thấy. Cô ta vẫn thường xuyên ra ngoài, vứt hai đứa trẻ ở nhà mà không nhòm ngó đến. Mỗi lần biết tôi sắp đến là cô ta lại về nhà dọn dẹp sẵn.”

“Lần đó anh không đến nên cô ta không cần phải về nhà nữa?”

“Đúng thế.” Dương Hưng Xuân ủ rũ, “Chính là vì lần thiếu trách nhiệm này nên cuối cùng mới xảy ra chuyện đó.”

La Phi trầm ngâm một lát, mày hơi nhíu lại, nói: “Tôi vẫn không hiểu lắm… chỉ vì một lần anh không đến nhà mà dẫn đến bi kịch sao? Không lẽ trước đó chỉ khi anh đến thì Tần Yến mới về nhà? Mà mỗi tuần anh cũng chỉ đến có một lần thôi mà. Nếu như vậy thì hai đứa trẻ đã sớm không qua khỏi rồi chứ?”

“Không phải là cô ta một tuần mới về một lần, đại khái vài, ba ngày về một lần. Mỗi lần trước khi đi cũng để lại cho bọn trẻ một ít nước uống và đồ ăn. Điều quan trọng là, tuần nào tôi cũng đến thì trong lòng cô ta cũng có một chút áp lực, nên thỉnh thoảng lại về nhà xem bọn trẻ, nếu không sẽ không biết ăn nói thế nào với tôi. Và, một khi mà tôi không đến thì điều mà cô ta cảm thấy là áp lực sẽ đột nhiên biến mất. Vì vậy, hôm cầm được tiền đó cô ta đã không về nhà, mà là đi chơi đâu đó cho thoải mái.”

Khi Dương Hưng Xuân nói đến hai chữ “thoải mái”, giọng anh đặc biệt nhấn mạnh, dường như muốn nhấn mạnh điều gì đó. La Phi chú ý đến chi tiết này, lập tức tức hỏi dồn: “Thoải mái thế nào?”

Dương Hưng Xuân cười khan, đáp: “Cô ta tới sàn nhảy disco ngầm và dùng số tiền cứu trợ vừa có được mua một ít ma túy…”

Ma túy? La Phi lặng lẽ lắc đầu. Nói chuyện đến đây thì cũng không cần hỏi gì nữa, anh đã nhìn thấy rất rõ số phận bi thảm sắp đến của hai đứa trẻ.

Dương Hưng Xuân cũng im lặng. Anh ta cầm chiếc túi đen ở mép bàn lên, lấy một bao thuốc từ trong túi ra, sau đó đưa mắt nhìn La Phi, dốc hộp thuốc, ý hỏi: có làm một điếu không?

La Phi xua tay: “Tôi không hút.” Tiếp đó, anh nhấc chén trà trước mặt lên, nhấp một ngụm lấy lệ.

Dương Hưng Xuân lấy ra một điếu rồi tự châm lửa. Anh ta rít một hơi dài, giữ lại trong giây lát rồi mới từ từ nhả khói qua mũi. Cùng với làn khói thuốc bay ra là một tiếng thở dài. Xong hơi thuốc đó, anh ta tiếp tục kể.

“Mấy ngày sau, vụ án cướp của giết người phá xong, cuối cùng chúng tôi cũng được xả hơi một chút. Lúc đó, tôi nhớ đến chuyện mấy ngày chưa nhìn thấy bọn trẻ, bèn gọi điện cho Tần Yến, hẹn thời gian đến thăm. Nhưng, điện thoại của cô ta không liên lạc được. Tôi thấy hơi lo, nên hết giờ làm tôi đến thẳng đó. Tôi đứng ngoài gọi cửa một hồi lâu mà cũng không thấy tiếng người trả lời. Sau đó, hàng xóm đối diện đi về, cho tôi biết là đã hàng tuần rồi không thấy Tần Yến. Tôi vừa nghe thì biết là không ổn rồi. Mấy hôm trước, khi đến lấy tiền, Tần Yến đã nói rằng hai đứa trẻ đều ở nhà, còn cô ta thì đã một tuần rồi không thấy bóng dáng, điều đó có nghĩa là gì? Tôi chẳng kịp nghĩ đến chuyện hiểu lầm hay không mà lập tức gọi ngay thợ khóa đến mở cửa.

Cửa vừa bật ra, một mùi hôi thối xộc đến. Tôi chợt thấy lòng nặng trĩu như rơi xuống đáy vực. Lần vào nhà ba