← Quay lại trang sách

Chương 4

Cô chạy cuống cuồng, mắt mở to thẫn thờ, hơi thở thoát ra khỏi phổi cô thành những tiếng hổn hển và nức nở. Cô không thể bật ra tiếng kêu thét đang vít chặt lấy cổ họng. Bọn chúng có thể nghe thấy. Nếu bọn chúng nghe thấy, nếu bọn chúng tóm được cô, chúng sẽ giết cô. Giống như Julie.

Cô gắng kiềm chế bản năng để không chạy ra phố. Bọn chúng có thể còn người, những kẻ giống như Ilya. Làm sao cô nhận biết được chiếc xe hơi cô vẫy lại không phải là xe của bọn chúng. Làm sao cô biết được nếu cô gõ cửa một nhà nào đó, lại không phải là một kẻ trong số chúng ra mở?

Cô phải chạy, tránh được càng xa càng tốt. Cô phải ẩn náu.

Nếu gặp một hàng rào, cô sẽ trèo qua. Còn nếu có một bờ rào, cô sẽ tìm cách vạch lối chui qua. Khi nền đất cào xước đôi chân trần của cô, cô phải cố nén những tiếng kêu đau đớn. Cô tránh ánh trăng sáng, quờ quạng như một con chuột chũi trong những chỗ tối tăm.

Một con chó sủa điên cuồng khi cô chạy băng qua một khoảnh sân.

Đừng để chúng nghe thấy, đừng để chúng tìm đến. Đừng nhìn lại.

Có gì đó cứa vào sườn cô. Trong khoảnh khắc hãi hùng khi cô lao về phía trước, cô nghĩ mình đã bị bắn. Nhưng cô nằm trên mặt đất, co hai gối lại, tiếng thở khò khè khiến họng cô đau rát.

Chuột rút, chỉ là chuột rút. Nhưng cùng với nó là một cơn buồn nôn dữ dội. Chống hai tay vào đầu gối lên, cô ọe, nức nở, rồi lại ọe, vật vã vì những đợt nôn khan.

Sốc, cô tự nhủ mình trong khi hai hàm răng va lập cập. Vừa vã mồ hôi lại vừa rùng mình, chóng mặt, nôn mửa, mạch đập nhanh. Cô bị sốc, và cô cần suy nghĩ.

Để làm ấm cơ thể, cô xoa xoa hai tay thật nhanh lên cánh tay trong khi cố thở chậm lại. Cô lật người để tìm lại cái ví đã văng khỏi tay lúc cô ngã. Cô cố giữ chặt cái ví trong suốt chuyến đi, cho nên cô an ủi mình rằng cô vẫn đang suy nghĩ ở mức độ nào đó.

Cô cần gọi cho cảnh sát, cô cần giúp đỡ.

“Lấy điện thoại ra,” cô thì thào, tự chỉ dẫn mình. “Bấm nút nhớ 1. Báo cho họ biết... báo cho họ...”

“911 đây, cô gặp tình huống khẩn cấp gì?”

“Cứu tôi. Xin cứu tôi?”

“Tình trạng khẩn cấp của cô là gì?”

“Hắn đã bắn họ.” Nước mắt trào đầy hai mắt cô, khiến giọng cô như chìm đi. “Hắn bắn họ, và tôi bỏ chạy.”

“Thưa cô, cô đang báo về một vụ nổ súng phải không?”

“Hắn đã giết họ. Hắn giết Julie. Tôi bỏ chạy.”

“Tôi sẽ cử người tới giúp. Cho tôi biết vị trí của cô.”

“Tôi không biết mình đang ở đâu.” Cô đưa tay bưng miệng, cố không để mình gục xuống. “Tôi chạy. Tôi chỉ biết chạy. Tôi nghĩ tôi ở gần đường Lake Shore. Đợi đã. Đợi tôi được chứ? Xin đừng bỏ đi.”

“Tôi vẫn ở đây. Tên cô là gì?”

“Tôi là Elizabeth. Tôi là Elizabeth Fitch.”

“Elizabeth, cô có nhận ra được gì không? Một dấu mốc, một địa chỉ chẳng hạn?”

“Tôi sẽ cố tìm. Tôi ở sau một căn nhà. Một căn nhà bằng đá xám có tháp.” Cô tập tễnh đi về phía căn nhà, giật bắn mình khi cô bước vào cả quầng đèn an ninh chói chang. “Nó có... nó có một lối chạy xe lát gạch, và một ga ra rất lớn. Có các sàn và... nhiều vườn.”

“Cô có đi ra phố được không?”

“Tôi có. Tôi có thể nhìn thấy đường phố. Có đèn đường. Nếu tôi ra chỗ có ánh sáng và chúng đến, chúng sẽ nhìn thấy tôi mất.”

“Cứ giữ liên lạc. Cứ giữ điện thoại của cô, Elizabeth. Chúng tôi đang dùng tín hiệu của cô để tìm cô?”

“Tôi nhìn thấy một địa chỉ rồi. Tôi nhìn thấy con số.” Cô đọc lên.

“Cảnh sát đang trên đường tới. Trợ giúp đang tới, Elizabeth. Cô có bị thương không?”

“Không. Không, tôi chạy. Tôi ở ngoài khi chúng xông vào. Tôi ở ngoài hiên trời. Chúng không biết. Chúng không nhìn thấy tôi. Hắn bắn họ. Hắn giết Julie.”

“Thật thương tâm. Vụ việc xảy ra ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi không có địa chỉ. Nó nằm trên đường Lake Shore. Lẽ ra chúng tôi không nên đến đó. Chúng tôi không nên đến ngôi nhà đó. Julie chết rồi.”

“Julie là ai, cô Elizabeth?”

“Julie Masters. Julie là bạn tôi. Có một chiếc xe đang chạy đến. Tôi phải núp đã.”

“Là xe tuần tra đấy. Trợ giúp đấy.”

“Anh có chắc không?” Tâm trạng hoảng loạn bóp nghẹt ngực cô, như chặn hết không khí. “Anh có chắc không?”

“Giờ họ đang giữ liên lạc bộ đàm, tiếp cận địa chỉ đó. Tôi sẽ bảo họ bật đèn nháy. Cô sẽ nhìn thấy.”

“Vâng. Vâng. Ơn trời. Tôi thấy rồi.” Cô loạng choạng chạy tới ra hẳn chỗ sáng. “Cảm ơn anh.”

“Giờ cô an toàn rồi, Elizabeth.”

Họ muốn đưa cô tới bệnh viện, nhưng khi thấy cô chỉ càng lo lắng, họ liền đưa cô về đồn. Cô co ro dưới tấm chăn một sĩ quan choàng lên vai cô, và tiếp tục rùng mình ở ghế sau chiếc xe tuần tra.

Họ đưa cô vào một gian phòng có bàn và mấy cái ghế tựa. Một sĩ quan ở lại cùng cô trong khi người kia đi lấy cà phê cho cô.

“Kể cho tôi biết chuyện gì xảy ra nào.”

Anh ấy nói với cô tên của mình, cô vẫn còn nhớ. Sĩ quan Blakley. Anh ấy có gương mặt lạnh lùng và đôi mắt mỏi mệt, nhưng anh ấy lại là người mang chăn cho cô.

“Chúng tôi đến vũ trường. Julie và tôi, chúng tôi tới vũ trường?”

“Julie tức là Julie Masters.”

“Vâng.”

“Vũ trường nào?”

“Warehouse 12. Tôi...” Cô phải kể sự thật. Không được nói dối nữa. “Tôi đã làm căn cước giả cho chúng tôi.”

Gương mặt anh ấy thoáng vẻ ngạc nhiên khi ghi vào cuốn sổ tay của mình. “Cô bao nhiêu tuổi?”

“Mười sáu. Tháng Chín này tôi sẽ được mười bảy.”

“Mười sáu,” anh ấy lặp lại, quan sát cô, giọng nói và ánh mắt không biểu lộ gì. “Cha mẹ cô đâu rồi?”

“Chỉ có mẹ tôi thôi. Bà ấy rời khỏi thành phố đi dự một hội nghị y tế.”

“Sẽ phải thông báo với bà ấy.”

Elizabeth chỉ biết nhắm nghiền mắt. “Vâng. Mẹ tôi là bác sĩ Susan L. Fitch. Bà ấy nghỉ ở khách sạn Westin Peachtree Plaza, tại Atlanta.”

“Được rồi. Và cô đã giả mạo giấy tờ để lọt vào Warehouse 12.”

“Vâng, tôi xin lỗi. Các anh có thể bắt tôi, nhưng các anh phải tìm những kẻ đã giết chết Julie.”

“Cô nói các cô đã ở trong một ngôi nhà, không phải vũ trường.”

“Chúng tôi gặp Alex ở vũ trường. Chúng tôi tới nhà anh ta. Lẽ ra không nên như vậy. Chúng tôi uống rượu. Lẽ ra không nên làm vậy. Tôi say, rồi tôi ra ngoài vì...” Nước mắt lại thi nhau tràn xuống hai gò má của cô. “Tôi ra ngoài, và có hai gã đàn ông vào. Họ bắn Alex, sau đó khi Julie bước vào phòng, họ bắn luôn cô ấy. Tôi bỏ chạy.”

“Cô không biết căn nhà này ở đâu à?”

“Tôi có thể tìm ra nó. Tôi có thể chỉ cho các anh, hoặc vẽ cho các anh một tấm bản đồ. Nhưng tôi đã không nhìn địa chỉ. Thật ngu ngốc. Tôi thật ngốc. Làm ơn, chúng ta không thể bỏ lại cô ấy ở đó.”

“Cô có tên đầy đủ của anh chàng Alex này không?”

“Tôi... Có!”

“Ơn Chúa!”

“Alex, nhưng gã giết anh ta gọi anh ta là Alexi. Alexi Gurevich.”

Blakley im phắc, và ánh mắt anh ấy đanh lại. “Cô nói với chúng tôi rằng cô đã tới nhà Alexi Gurevich, và chứng kiến một vụ giết người kép?”

“Vâng. Vâng. Vâng. Làm ơn.”

“Đợi một phút.” Anh ấy đứng lên khi viên sĩ quan thứ hai bước vào cùng với cà phê. Blakley nói nhỏ với người này. Anh ta nói gì đó khiến người đồng nghiệp nhìn nhanh Elizabeth rồi vội vã bước ra khỏi phòng.

“Xét theo tuổi của cô,” Blakley nói với cô, “chúng tôi sẽ thông báo với Cục Trẻ em. Một thanh tra sẽ có mặt ở đây để nói chuyện với cô.”

“Nhưng còn Julie. Liệu tôi dẫn các anh tới ngôi nhà trước được không. Tôi đã bỏ lại cô ấy. Tôi vẫn còn bỏ cô ấy lại đó.”

“Chúng tôi biết Gurevich sống ở đâu.”

Anh ấy để cô lại một mình, nhưng chỉ mười lăm phút sau, có người bước vào và đưa cho cô một cốc xúp gà mua từ máy bán hàng tự động. Cô không nghĩ mình có thể ăn nổi, nhưng chỉ một hớp đầu tiên, cái dạ dày kiệt quệ của cô đã đòi thêm nữa.

Dù đã ăn và uống cà phê, phản ứng cơ thể cô vẫn là tình trạng mệt mỏi rã rời. Không dừng được, Elizabeth gục đầu lên bàn, nhắm mắt lại.

Phía bên ngoài, thám tử San Riley bước lại chỗ tấm gương hai chiều bên cạnh cộng sự của mình. “Vậy kia là nhân chứng của chúng ta.”

“Elizabeth Fitch, tuổi mười sáu, con gái bác sĩ Susan L. Fitch, trưởng khoa ngoại, Silva Memorial.” Brenda Griffith uống ly cà phê Starbucks một lúc lâu. Cô làm cảnh sát đã mười sáu năm, cho nên những cuộc gọi lúc nửa đêm là chuyện cơm bữa. Nhưng cà phê giúp giảm bớt căng thẳng. “Người của Cục Trẻ em đang đến.”

“Chúng ta xác minh chưa?”

“Gurevich bị một phát vào trán, hai phát phía sau tai. Cỡ nòng nhỏ, tầm bắn gần. Nạn nhân nữ - căn cước của cô ta để tên Julie Masters - hai mốt tuổi, nhưng theo lời nhân chứng, đó là tuổi giả. Các sĩ quan ở hiện trường cho biết cô ta bị bắn hai phát vào đầu.”

“Mãi mãi tuổi mười sáu.” Riley, một cựu binh hai mươi năm mắc chứng đau lưng mãn tính và có mái tóc nâu lưa thưa, lắc lắc đầu. “Con bé rất may mới còn sống được.”

“Đúng thế, chúng ta hãy xem cô ta biết được gì.” Brenda bước ra. “Để tôi làm trước, nhẹ nhàng thôi. Nếu một nửa những gì cô ấy khai là đúng thì quả là cô ấy đã có một buổi tối địa ngục. Bên Cục Trẻ em đến rồi đấy.”

“Tôi đi lấy cho con bé một lon Coke hoặc gì đó,” Riley nói. “Cả hai chúng ta đều sẽ khởi đầu thật nhẹ nhàng.”