Chương 4 (tt)
Elizabeth tỉnh lại với vẻ hãi hùng, nhìn sững người phụ nữ có gương mặt khả ái và mái tóc đen vấn ngược ra sau thành một túm đuôi ngựa.
“Xin lỗi. Tôi không định làm em giật mình. Tôi là thanh tra Griffith. Đây là cô Petrie từ Cục Trẻ em. Đồng nghiệp của tôi sẽ vào đây ngay. Anh ấy nghĩ có thể em muốn ăn một ít bỏng.”
“Em đã ngủ quên. Bao lâu...” Cô nhìn đồng hồ của mình. “Trời ạ. Đã gần sáng rồi. Julie...”
“Xin chia buồn về trường hợp bạn em.”
“Đó là lỗi của em. Lẽ ra bọn em không nên đi. Em biết đó là sai lầm. Em chỉ muốn... em đã làm giả bằng lái xe.”
“Tôi đã nghe nói rồi. Tôi xem của em được không?”
“Vâng.” Elizabeth lấy bằng lái từ trong ví.
Griffith xem xét tấm bằng, lật ngược lại, đưa lên ngang mày, rồi nhìn Elizabeth. “Em vừa bảo tôi chính em đã làm thứ này à?”
“Vâng. Em đang thử nghiệm xem mọi việc ra sao. Rồi Julie muốn đi tới Warehouse 12, thế là em làm cho cô ấy. Em biết như thế là phạm pháp. Chẳng có lý do biện minh nào cả. Em bị bắt phải không?”
Griffith liếc nhìn Petrie, rồi quay sang Elizabeth. “Tôi nghĩ chúng ta tạm chưa nói đến chuyện đó. Em có quen với Alexi Gurevich từ trước buổi tối qua không?”
“Không. Anh ta tự đến bàn bọn em. Bọn em cùng uống Cosmos.” Cô đưa tay bưng mặt. “Trời đất, sự thật là đây sao? Em đã tìm hiểu về vũ trường trên Internet trước khi bọn em đến đó. Em chưa bao giờ đến một hộp đêm cả. Em đọc được vài bài báo nói rằng người ta nghi ngờ chủ của vũ trường có dính đến mafia Nga. Nhưng em chẳng hề suy nghĩ - khi anh ta tiến lại, Ilya ấy...”
“Ilya à? Có phải Ilya Volkov không?”
“Vâng. Bọn em nhảy với họ, rồi vào một ô ghế ngồi nghỉ, rồi anh ta hôn em. Trước đó chưa có ai từng hôn em cả. Em muốn biết cảm giác đó như thế nào. Anh ta rất lịch thiệp với em, và rồi...” Cô ngừng lời, ánh sợ hãi lại hiện lên trong mắt cô khi cánh cửa mở ra.
“Elizabeth, đây là cộng sự của tôi, thanh tra Riley.”
“Chú lấy cho cháu một lon Coke. Con gái chú không thể sống mà thiếu Coke vào buổi sáng.”
“Cảm ơn chú. Cháu không định uống...” Elizabeth hơi bật cười. “Thật ngu ngốc, phải không ạ? Cháu đã uống rượu cho tới khi say mèm. Cháu đã chứng kiến hai người bị giết. Vậy mà giờ cháu không muốn làm trái lời mẹ khuyên về chuyện uống nước ngọt.” Cô mở lon nước, rót ra một chiếc cốc nhựa. “Cháu cảm ơn,” cô nói lại lần nữa.
“Elizabeth.” Griffith chờ đợi đến khi Elizabeth chú ý trở lại. “Có phải em, Julie, Gurevich và Ilya Volkov rời Warehouse 12 và đi về nhà của Gurevich không?”
“Không. Chỉ có ba bọn em. Ilya phải giải quyết chuyện gì đó ở vũ trường. Anh ta bảo sẽ đến - và đúng là như vậy, nhưng muộn hơn. Đến sau.”
“Có phải Ilya Volkov giết Gurevich và Julie?”
“Không. Là một gã có tên Yakov Korotkii. Em có thể miêu tả gã, hoặc vẽ phác lại, hoặc làm việc với một họa sĩ của cảnh sát. Em vẫn nhớ mặt gã. Em nhớ rất rõ. Em có trí nhớ hình ảnh rất tốt. Em không quên. Em không hề quên,” cô nhắc lại, giọng cao lên, cơ thể run bắn.
“Các vị,” bà Petrie lên tiếng. “Elizabeth đã trải qua một tổn thương nghiêm trọng, quá đủ cho một đêm rồi.”
“Không. Không. Cháu cần giúp đỡ. Cháu cần làm gì đó.”
“Chúng tôi đã được mẹ cô bé cho phép hỏi cô bé,” Griffith tuyên bố.
“Mẹ em?”
“Bà ấy đã được thông báo mọi chuyện. Bà ấy sẽ bay về vào sáng mai.”
Elizabeth nhắm mặt lại. “Được rồi.”
“Elizabeth. Việc này rất quan trọng. Làm sao em biết người giết Gurevich và Julie là Yakov Korotkii?”
“Alex gọi anh ta bằng họ tên khi hai người nói chuyện. Julie... chắc cô ấy ở trong phòng tắm. Em đã thiếp ngủ một lúc, bên ngoài hiên trời. Tiếng của họ - Alex và hai người đàn ông - làm em tỉnh giấc.”
“Hai người.”
“Người kia to con hơn, vạm vỡ hơn. Korotkii gọi hắn là Yegor. Korotkii nói Alex đã ăn cắp của chú anh ta. Alex gọi người đó - ông chú ấy - là Sergei. Anh ta chối, nhưng anh ta nói dối. Em có thể nhận ra anh ta nói dối. Korotkii, gã đúng là... Các chị đã nhìn thấy một con rắn hổ mang giết một con chuột chưa? Cách nó nhìn, rất kiên nhẫn. Làm sao nó lại có vẻ thích thú cái khoảnh khắc trước những cú mổ cũng như thích chính những cú mổ thế chứ? Đúng y như thế. Alex rất tùy tiện, cứ như thể anh ta là người đứng đầu. Nhưng anh ta không hề đứng đầu. Korotkii mới đứng đầu. Và Alex sợ hãi thấy rõ khi Korotkii nói họ biết anh ta hợp tác với cảnh sát. Rằng Sergei biết. Anh ta van xin. Các chị có cần biết họ nói gì với nhau không?”
“Chúng ta sẽ quay lại tình tiết đó.”
“Gã đàn ông vạm vỡ đạp Alex quỳ xuống. Sau đó Korotkii rút một khẩu súng ở thắt lưng ra. Chắc anh ta có bao súng. Em không hề nhìn thấy. Gã bắn anh ta ở chỗ này.” Elizabeth chạm ngón tay lên trán. “Gã gí súng vào trán anh ta, và gã bắn anh ta. Một tiếng nổ nhỏ thôi. Sau đó gã bắn anh ta thêm hai phát nữa. Ở đây. Em đã suýt thét lên. Em phải đưa tay bịt miệng để không thét lên. Korotkii gọi Alex là một... Đó là một từ chửi rất tục tĩu trong tiếng Nga.”
“Em nói được tiếng Nga?”
“Không trôi chảy lắm. Em chưa bao giờ nghe cách diễn đạt này trước đó, nhưng em hiểu nghĩa ngay. Em chỉ nhắc đến nó bởi vì mọi việc diễn ra quá nhanh. Gã gọi Alex, mặc dù anh ta đã chết rồi, bằng một cái tên. Rồi... Julie bước vào, từ phía nhà bếp. Có một phòng vệ sinh ở phía bếp. Cô ấy nói, ‘Anh Alex, em cảm thấy không khỏe. Chúng ta nên...’ Tất cả chỉ có vậy. Korotkii quay lại, và gã bắn cô ấy. Cô ấy ngã xuống. Em nhìn rõ cô ấy chết, nhưng gã vẫn bắn thêm. Và gã còn chửi thề bằng tiếng Nga. Em không nghe được lúc đầu. Trong đầu em có những tiếng gào thét. Em không tài nào nghe được. Rồi em nghe thấy tiếng Ilya. Em nghĩ bọn kia cũng sẽ giết anh ta. Em muốn báo cho anh ta, giúp anh ta. Thế rồi...”
“Cứ bình tĩnh.” Riley dịu dàng nói với giọng điệu mà Griffith biết rõ vốn không phải là giọng nói cố tình dịu dàng mà là sự quan tâm rất chân thành. “Cháu cứ bình tĩnh mà kể.”
“Họ nói bằng tiếng Nga, nhưng cháu vẫn hiểu được hết - hoặc gần hết - những lời ấy. Ilya rất giận dữ, nhưng không đến mức khiến Alex phải chết.”
Cô nhắm mắt lại, hít một hơi, và nhớ lại những đoạn đối thoại cô nghe rõ từng lời.
“Rất chính xác,” Riley nhận xét.
“Cháu có trí nhớ thị giác rất tốt mà. Cháu bỏ chạy, bởi vì Ilya biết cháu đến ngôi nhà đó. Cháu biết anh ta hỏi về cháu. Cháu biết chúng cũng sẽ giết cháu. Cho nên cháu bỏ chạy. Cháu không để ý mình chạy đi đâu - cháu chỉ biết chạy thôi. Cháu vứt giày lại. Đi giày thì cháu không chạy được, do gót giày, cho nên cháu vứt lại chỗ hiên trời. Cháu chẳng kịp nghĩ. Cháu chỉ phản xạ thôi. Nếu suy tính, cháu đã mang giày theo. Chắc chắn bọn chúng đã tìm thấy giày. Cho nên chúng biết cháu nhìn thấy. Chúng biết cháu đã nghe thấy.”
“Bọn tôi sẽ bảo vệ em, Elizabeth.” Tôi hứa với em Griffith vươn người, đặt một tay lên tay Elizabeth. “Chúng tôi sẽ bảo vệ em an toàn.”
Griffith bước ra khỏi phòng cùng với Riley, hai tay ôm đầu. “Trời đất, Riley, đúng là trời giúp mình. Anh có biết chúng ta có được gì không?”
“Chúng ta có một nhân chứng có trí nhớ như một máy tính, lại nói được tiếng Nga. Chúng ta nắm được thằng Korotkii chó chết, thằng Ilya Volkov khốn kiếp. Và nếu Chúa phù hộ, chúng ta sẽ tóm được Sergei. Nếu cô bé ổn, cô bé sẽ cho bọn Volkov đi đời.”
“Cô bé sẽ ổn.” Ánh mắt đanh lại và sáng quắc, Griffith nhìn về phía khuôn cửa. “Riley, chúng ta phải gọi người đưa cô bé lánh đi. Chúng ta sẽ cần đến Cục Cảnh sát Tư pháp[10] đấy.”
“Thôi mà.”
“Không thì họ sẽ giành mất vụ này. Nếu có lời trước, chúng ta sẽ vẫn được tham gia.”
“Mẹ kiếp, cô phán chuẩn. Cứ bắt tay làm thôi. Cô có biết tôi còn nhận ra điều gì về nhân chứng không?”
“Gì nữa nào?”
“Cô bé trông mệt mỏi với việc mẹ mình sẽ xuất hiện chẳng kém gì lúc phải xoay xở với những chuyện khác của vụ này.”
“Tôi nghĩ con bé lo lắng việc sẽ bị phạt.”
***
Elizabeth thấy mắt mờ đi. Họ đưa cô đi đâu không quan trọng. Cô chỉ muốn ngủ. Cho nên cô ngủ ngay trong xe cùng với hai thanh tra và bà Petrie. Khi xe dừng lại, cô bước ra mà chẳng hề than vãn gì, cứ gà gật vào một ngôi nhà nhỏ xây bằng ván ghép. Cô nhận chiếc áo phông và quần chẽn vải bông mà thanh tra Griffith đưa cho, rồi cố thay quần áo ngay trong gian phòng ngủ nhỏ xíu có một chiếc giường đơn hẹp. Cô sợ những giấc mơ của mình nhưng thấy bất lực trước tình trạng kiệt sức.
Cô nằm xuống giường, dùng chiếc chăn của cảnh sát đắp lên người. Cô cảm thấy nước mắt rịn qua những hàng mi lúc cô nhắm mắt lại.
Rồi cô chẳng cảm thấy gì nữa.
Cô tỉnh lại lúc đã nửa ngày, khát khô và đói cồn cào.
Cô không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Suốt đời mình, cô luôn biết chính xác những gì được định sẵn cho cô, đúng như kỳ vọng. Nhưng giờ không hề có danh sách, lịch trình để dựa vào đó.
Cô thấy xấu hổ vì đói, thèm cà phê, thèm được tắm, thèm một cái bàn chải đánh răng. Những việc hằng ngày, những việc thông thường. Julie thì sẽ chẳng bao giờ còn biết đói hay làm những việc bình thường được nữa.
Nhưng cô ngồi dậy, hơi nhăn mặt khi hai bàn chân đau nhức chạm xuống sàn. Cô bị đau khắp người, cô nhận ra như vậy. Cô đáng bị đau, cô tự nhủ. Cô đáng phải chịu sự hành hạ.
Rồi cô nhớ đến mẹ. Mẹ đang về, mà có khi về rồi. Cô biết đó sẽ là sự trừng phạt còn hơn cả đau đớn và đói khát.
Muốn bị phạt, cô mở cửa. Lắng nghe.
Cô nghe thấy những giọng nói - chỉ là những tiếng rì rầm - ngửi thấy mùi cà phê. Ngửi thấy mùi mình, cô nhận ra như vậy với một cái nhăn mặt nữa. Cô muốn bị trừng phạt nhưng lại mong được tắm rửa trước khi đối mặt với nó.
Cô bước ra, đi về phía có những tiếng nói.
Và cứng đờ người.
Một người lạ mặt đứng trong gian bếp nhỏ sơn màu vàng trong. Một người đàn ông cao lớn, chẳng khác một tay đầu gấu, ông ấy đang rót cà phê từ một chiếc bình vào cái ca màu trắng dày dặn. Ông ấy ngừng lại, mỉm cười với cô.
Ông ấy mặc quần bò, áo trắng - và đeo bao súng ở vai.
“Chúc buổi sáng tốt lành. Ồ chiều chứ nhỉ. Chú là sĩ quan Cảnh sát Tư pháp John Barrow. Không sao đâu, Elizabeth. Bọn chú ở đây để bảo vệ cháu an toàn.”
“Chú là cảnh sát Tư pháp.”
“Đúng vậy. Một lát nữa, bọn chú sẽ đưa cháu tới nhà an toàn khác.”
“Thanh tra Griffith có ở đây không ạ?”
“Lát nữa cô ấy sẽ đến. Cô ấy đi lấy cho cháu quần áo, một vài thứ.” Ông ấy ngừng lại một lúc nữa trong khi Elizabeth chỉ đăm đăm nhìn ông ấy. “Cháu đã đưa cô ấy chìa khóa, bảo cô ấy cứ việc tới nhà cháu, lấy cho cháu một ít quần áo, bàn chải đánh răng, mấy thứ như vậy.”
“Vâng. Cháu nhớ.”
“Chú cá là cháu có thể uống một chút cà phê, một ít thuốc aspirin.”
“Cháu... cháu muốn tắm, nếu được.”
“Chắc chắn rồi.” Ông ấy lại mỉm cười, đặt cái bình và cốc xuống. Ông ấy có đôi mắt xanh lơ nhưng không giống mắt mẹ cô. Mắt ông ấy sâu hơn, và ấm áp. “Chú sẽ đi lấy túi đồ của cháu. Chú ở đây cùng sĩ quan Theresa Norton. Chú muốn cháu cảm thấy an toàn, Elizabeth - người ta gọi cháu là Liz phải không?”
Mắt cô lại ngân ngất nước. “Julie gọi cháu là Liz. Julie gọi vậy.”
“Chú rất lấy làm tiếc về chuyện bạn của cháu. Chắc cháu đã rất khổ tâm về chuyện đó, Liz. Cô Theresa và chú sẽ cảnh giới cho cháu.”
“Chúng sẽ giết cháu nếu chúng tìm ra cháu. Cháu biết điều đó.”
Đôi mắt xanh ấm áp kia nhìn thẳng vào cô. “Chúng sẽ không thể tìm ra cháu. Và chú sẽ không để chúng làm tổn thương cháu.”
Cô muốn tin lời ông ấy. Ông ấy có gương mặt phúc hậu. Xương xương, giống như cả người ông ấy, trông rất tri thức. “Cháu sẽ phải ẩn náu bao lâu?”
“Hiện tại thì tạm thời là một ngày. Chú sẽ đi lấy đồ của cháu?”
Cô vẫn đứng nguyên ở vị trí của mình cho tới khi ông ấy quay lại, mang theo chiếc túi du lịch hiệu Pullman của cô.
“Chú đi chuẩn bị ít thức ăn trong lúc cháu tắm rửa nhé,” ông ấy gợi ý. “Chú nấu ăn giỏi hơn cả Terry đấy. Điều đó cũng chẳng nói được gì nhiều, nhưng mà chú không làm cháu ngộ độc đâu.”
“Cảm ơn chú. Cháu xin phép.”
“Cứ tự nhiên nhé.”
“Cháu xin lỗi. Cháu không biết phòng tắm ở đâu.”
“Lối này.” Ông chỉ tay. “Rồi rẽ phải.”
Ông nhìn theo cô đi khuất, rồi lại nhấc bình cà phê, đăm đăm nhìn nó. Ông lại đặt cái bình xuống vừa lúc cộng sự của ông từ phía ngoài đi vào.
“Con bé tỉnh rồi,” ông nói. “Ôi trời, Terry, trông nó giống đứa mười hai hơn là hai mốt. Lẽ ra nó đừng bao giờ xuất hiện ở cái vũ trường đó.”
“Anh nhìn thấy cái căn cước con bé chế xem. Con bé có thể kiếm ra tiền.” Nhỏ nhắn, rắn rỏi, xinh xắn như một đóa cúc, Terry nhìn bình cà phê. “Tình trạng con bé thế nào?”
“Lì như đá, nếu cô hỏi tôi thì là như vậy. Và lịch thiệp chắc cỡ bà cố của cô.”
“Bà cố của tôi mà còn thì chắc cũng lọm khọm trên xe lăn rồi.”
“Con bé không hề hỏi gì đến mẹ. Nó hỏi về Griffith, nhưng không hề nói về mẹ mình. Điều đó đáng để cô lưu ý đấy. Tôi đi lấy cho con bé một ít thịt nguội và trứng.”
Ông mở tủ lạnh, lấy ra những thứ mình cần.
“Anh có muốn tôi liên lạc với bên Công tố không? Anh biết là ông ấy muốn nói chuyện với con bé càng sớm càng tốt mà.”
“Để cho con bé có thời gian nhét một ít vào bụng đã. Ừ, nhưng tốt hơn cả là để cho ông ấy gặp con bé ở đây trước khi chúng ta đưa nó đi. Và tốt hơn là con bé nên có một chút thời gian trước khi nó nhận ra có thể phải sống trong nhà an toàn hàng tháng trời.”
“Có lẽ hàng năm ấy chứ. Làm sao một người có thừa thông minh để vào học Harvard - ở tuổi mười sáu, không hơn không kém - lại vướng phải lũ Volkov chứ?”
“Nhiều khi mười sáu tuổi cũng đã đủ rồi.” John cho thịt muối vào chảo rán, khiến chảo kêu xèo xèo.
“Tôi đi gọi điện. Bảo họ có hai giờ - để con bé có thời gian thay đồ, ăn và nghỉ ngơi.”
“Kiểm tra luôn thời gian dự kiến hạ cánh của mẹ con bé nhé.”
“Được rồi.”
Chú thích:
[10] Cục Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ (U.S. Marshals Service) là một cơ quan thực thi pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Đây là một bộ phận của ngành hành pháp chính phủ Hoa Kỳ và cũng là bộ phận thực thi pháp luật của hệ thống Toàn Liên bang Hoa Kỳ, đảm bảo hiệu quả điều hành của bộ máy tư pháp. Cục đảm nhận nhiệm vụ hỗ trợ an ninh tòa án, chịu trách nhiệm chính trong việc truy nã các đối tượng đang chạy trốn, cung cấp các chương trình bảo vệ cho tòa án liên bang, vận chuyển tù nhân, bảo vệ nhân chứng quan trọng của liên bang và quản lý tài sản bị niêm phong.