Phần II - Chương 7 1213-Arkansas, 2012
Sống trước hết - phải là chính mình.
Điều đó phải luôn vậy, như đêm tiếp theo này.
Đừng bao giờ lẫn mình là ai khác.
— William Shakespeare.
*
Làm cảnh sát trưởng ở một thị trấn nhỏ nép mình trong dãy Ozark như một con mèo ngái ngủ nằm gọn trong khuỷu tay nhiều khi cũng rất tệ.
Chẳng hạn, việc bắt giữ một gã bạn đã từng cùng chơi bóng hồi ở trung học chỉ vì lớn lên gã thành một tên khốn. Mặc dù Brooks xem việc trở thành một tên khốn là một cái quyền trời định chứ không phải một tội hình sự. Còn cái gã Tybal Crew hiện vẫn ngủ li bi vì đã nốc quá nhiều thứ whiskey hiệu Rebel Yell. Brooks coi việc bê tha trong whiskey, thỉnh thoảng, là một cái quyền trời định nữa. Nhưng khi sự bê tha lúc nào cũng khiến cho một người đàn ông ngả nghiêng về nhà và khiến vợ gã có thêm vài vết bầm giập trên mặt thì lại thành vượt quá ranh giới và phạm tội rồi.
Và việc đó tệ. Rất tệ.
Tình hình càng tệ hại đến không chịu nổi như hoa cúc lại nở vào mùa xuân, khi Missy Crew - cựu đội trưởng đội cổ động trường trung học Bickford - sẽ lao bổ vào đồn lúc gần trưa, báo rằng Ty không hề đánh cô, ôi không. Cô ấy chỉ là đã va cả vào cửa, vào tường, trượt cả trên cầu thang.
Trò chuyện, cảm thông, bực bội, dụ dỗ, đe dọa cũng không thuyết phục được cô ấy - hay gã kia - rằng họ cần giúp đỡ. Họ hôn nhau và vui vẻ với nhau như thể Ty đã ra trận cả năm trời, sắp về nhà và sẽ quấn lấy nhau một cách điên cuồng vậy.
Chỉ một hoặc hai tuần nữa, Ty sẽ lại vớ lấy một chai Rebel Yell, và rồi tất cả mọi việc lại đâu vào đấy.
Brooks ngồi trong quầy mà anh ưa thích tại quán Lindy’s Café and Emporium, nghiền ngẫm về tình hình trong khi ăn bữa sáng.
Không ai rán trứng, thịt xông khói cùng thịt rán được như Lindy, nhưng mỡ và món nghiền cũng chẳng làm Brooks phấn khởi.
Sáu tháng trước anh trở lại Bickford để nhận nhiệm vụ cảnh sát trưởng sau khi cha anh bị đột quỵ. Ông Loren Gleason - người đã cố gắng dạy Ty và Crew, và gần như tất cả những học sinh trung học khác những điều kỳ bí của môn đại số - đã phục hồi. Và với chế độ dinh dưỡng và tập luyện mà mẹ của Brooks đặt ra cho người đàn ông tội nghiệp, ông ấy đã khỏe hơn hẳn so với trước.
Thế nhưng, biến cố cũng khiến Brooks bàng hoàng, và cần đến gia đình. Vậy là sau một thập niên ở Little Rock, một thập niên làm việc ở Sở cảnh sát Little Rock, năm năm nữa với tư cách thanh tra, anh đã gác lại công việc chuyên môn và chấp nhận vị trí cảnh sát trưởng mới bị bỏ trống gần đây.
Đáng nói là được về nhà cũng rất tốt. Anh không hề biết rằng mình nhớ nhà nhiều đến thế nào cho tới khi anh chuyển hẳn về đó. Anh cũng nghĩ rằng có lẽ anh sẽ nói điều tương tự về Little Rock, nếu có dịp quay lại đó, nhưng giờ thì Bickford rất hợp với anh. Rất tuyệt diệu. Thậm chí khi công việc chán chết.
Anh rất thích ngồi ăn sáng một hoặc hai lần mỗi tuần tại quán Lindy, thích cảnh núi đồi bên ngoài cửa sổ văn phòng và sự ổn định của công việc.
Anh thích thị trấn, những nghệ sĩ, những thợ gốm, thợ dệt, nhạc sĩ - những nhà du già, đồng cốt, và tất cả các cửa hàng, tiệm ăn và quán rượu thu hút du khách đến để thử các sản phẩm.
Những thanh niên hippie đến và định cư ở đây từ những năm sáu mươi - Chúa mới biết tại sao mẹ anh, người đổi tên của mình từ May Ellen thành Sunshine, hay còn gọi là Sunny, đại từ Pennsylvania, phiêu bạt đến đây khoảng một thập niên sau đó. Và rồi Sunshine đã bỏ bùa hoặc cám dỗ - tùy vào ai là người kể lại câu chuyện - một anh giáo dạy toán năm thứ nhất trẻ măng.
Họ cùng nhau thề non hẹn biển bên bờ sông, và xây dựng tổ ấm. Một vài năm sau với hai đứa con ra đời, Sunny đã phải chấp nhận cái áp lực nhẹ nhàng nhưng liên tục mà chỉ có cha anh mới tạo ra được, và làm cho điều đó trở thành hợp pháp.
Brooks rất thích trêu chọc các chị của mình rằng anh là người duy nhất của nhà Gleason được sinh trong giá thú. Họ phản bác rằng anh cũng là người duy nhất nhà Gleason phải mang súng bên người để làm việc.
Anh trở lại với cốc cà phê của mình, bình tâm bước vào ngày mới bằng việc ngắm mọi người qua lại bên ngoài cửa sổ.
Vẫn còn quá sớm nên hầu hết các cửa hàng chưa mở cửa, nhưng The Vegetable Garden thì đã đưa biển hiệu ra ngoài. Anh cố gắng thành khách quen của các cửa hàng quanh đây nên thỉnh thoảng có ghé vào đó ăn xúp, nhưng anh vốn quen ăn thịt, và không thấy có gì ý nghĩa ở những thứ kiểu như đậu phụ giả làm thịt cả.
Cửa hàng bánh - hiện tại, họ đang có một ít khách. Còn tiệm Cup O’ Joe chắc chắn chật kín. Tháng Hai ngấp nghé sang tháng Ba đến nơi, nhưng du khách từ tít miền Bắc thường la cà xuống ngay từ đầu năm để tránh cái rét nghiệt ngã nhất của mùa đông. Lê ở Bradford đã chớm nở. Chỉ một tuần nữa, chúng sẽ thỏa sức khoe sắc. Thủy tiên thì ken dày trong các chậu trên hè, sắc vàng rực như màu bơ tươi.
Chiếc xe tải của Sid Firehawk nổ pành pạch khi chạy ngang qua. Brooks thở dài, lưu ý trong đầu sẽ nhắc nhở Sid một lần nữa nhớ thay cái bộ giảm thanh chết tiệt của anh ta ngay đi.
Những vụ say rượu đánh vợ và những thứ gây ô nhiễm tiếng ồn, Brooks nghĩ thầm. Cả một chặng đường cách rất xa nghiệp vụ điều tra trộm cướp giết người. Nhưng nó lại rất hợp với anh. Thậm chí khi rất chán ngán.
Cả khi không như vậy, anh nghĩ, ngồi thẳng trên ghế để nhìn rõ hơn.
Anh phải thừa nhận với chính mình rằng anh đã mọc rễ ở cái ghế này từ rất sớm, vừa đúng thời điểm cô ấy đến thị trấn.
Abigail Lowery có mái tóc màu nâu ấm áp, cặp mông hiếm có và hơi hướng bí ẩn. Đôi mắt mèo quyến rũ, anh nghĩ thầm, mặc dù chủ yếu cô giấu đôi mắt ấy đằng sau cặp kính râm.
Cô có dáng đi quả quyết. Cô chẳng bao giờ la cà, bách bộ hay vơ vẩn ra ngoài. Cô ấy chỉ vào thị trấn vài tuần một lần, đi mua sắm tạp phẩm. Lúc nào cũng từ rất sớm trong ngày nhưng không bao giờ vào cùng một ngày cụ thể. Những dịp hiếm hoi hơn, cô ấy tới một trong những cửa hiệu khác, giải quyết nhanh việc của mình.
Anh thích điều đó ở cô. Quả quyết, nhanh nhẹn. Anh nghĩ mình có thể còn thích cô nhiều hơn nữa, nhưng cô giữ mình theo cái cách làm cho một nhân vật sống ẩn dật điển hình cũng thành người rất quảng giao.
Cô lái một chiếc SUV màu đen, khá lớn, đồ sộ, nhưng không phải vì cô ấy rất hay chạy quanh quẩn mới khiến anh chú ý.
Theo anh được biết cho đến giờ, cô ấy sống trên mảnh đất của mình, đẹp như tranh vẽ và lúc nào cũng ngăn nắp đâu ra đấy, theo lời đám nhân viên FedEx và UPS mà anh khôn khéo moi được tin tức.
Anh biết cô trồng cả một vườn rau và vườn hoa vào mùa xuân, lại có hẳn nhà kính và nuôi một con ngao bull có bộ da nâu đốm mà cô gọi tên là Bert.
Cô ấy độc thân - ít nhất cô ấy không có ai ngoài Bert sống cùng, và không đeo nhẫn. Đám nhân viên chuyển phát nói cô ấy rất lịch sự và hào phóng, cho tiền thưởng vào dịp Giáng sinh, nhưng hơi khó gần.
Hầu hết dân thị trấn nói cô ấy kỳ cục.
“Tôi chế thêm cho cậu nhé?” Kim, nhân viên phục vụ, mang bình cà phê tới.
“Vâng, rất cảm ơn.”
“Chắc cậu phải làm việc. Lúc bước vào trông cậu không được vui, còn bây giờ thì tươi rồi.” Kim vỗ nhẹ lên má anh.
Kim luôn có phong cách như người mẹ, làm anh chỉ biết cười tươi hơn, mặc dù Kim chỉ hơn anh có năm tuổi. “Tôi đang nhập cuộc mà.”
“Còn cô ta thì nhập cuộc rồi đấy.” Kim hất cằm về phía Abigail khi cô tiến và siêu thị ngay góc gần đó. “Khả ái, ai cũng thấy như vậy, nhưng cô ta là người lạ lùng. Cô ta sống ở đây gần một năm rồi, vậy mà chưa một lần bước chân vào đây, hay bất kỳ tiệm nào khác. Cô ta cũng gần như chẳng bén mảng đến bất kỳ cửa hiệu nào. Hầu như đặt hàng mọi thứ qua mạng.”
“Tôi cũng nghe vậy.”
“Mua sắm qua Internet không có gì xấu. Tôi cũng làm vậy. Nhưng ngay ở thị trấn này chúng ta cũng có nhiều thứ mà. Tuy vậy cô ta cũng chẳng mấy khi mở lời. Lúc nào cũng nhã nhặn, nhưng rất kiệm lời. Gần như lúc nào cũng chỉ ở nhà cả ngày. Một mình.”
“Không ồn ào, lịch thiệp, thu mình. Dễ cô ấy là kẻ giết người hàng loạt.”
“Brooks.” Kim khịt mũi và bước sang bàn tiếp theo, lắc lắc đầu.
Anh cho thêm chút đường vào cà phê, hờ hững khuấy trong khi mắt hướng về siêu thị. Anh quyết định, không có lý do thì anh không tiến tới được. Anh biết cách la cà. Có lẽ kiếm vài chai Coke mang về đồn hoặc... anh sẽ nghĩ ra gì đó.
Brooks nhổm người lấy ví, móc ra mấy tờ tiền rồi nhét vào quầy.
“Cảm ơn, Kim. Hẹn gặp lại, Lindy.”
Ông già cò hương với bím tóc bạc dài đến tận mông hầm hừ gì đó, huơ huơ cái bay làm bếp của mình.
Anh bước ra ngoài. Anh thừa hưởng chiều cao của cha, và với chế độ ăn trước khi Loren bị đau tim, họ còn chung nhau vóc người lêu nghêu nhưng gầy gò. Mẹ anh nói anh có mái tóc đen như mực của vị chiến binh da đỏ Algonquin, người đã bắt bà cao tằng tổ - và có lẽ còn xa nữa - của anh về làm vợ.
Thêm vào đó, mẹ anh thường xuyên có những việc khó chịu, và cũng thường do chủ ý. Đôi mắt nâu pha lục của anh có khả năng chuyển màu từ xanh lục sang hổ phách hoặc có khi biêng biếc. Mũi anh hơi lệch sang trái, kết quả của một cú đánh bóng chày vào gôn số ba, lỡ trớn và tính sai thời gian. Thỉnh thoảng anh lại bảo với một phụ nữ, nếu cô ta hỏi, rằng anh bị như vậy trong vụ đánh nhau đầu tiên.
Rất nhiều lúc anh gây khó chịu, y như mẹ mình.
Siêu thị cao cấp có những loại thực phẩm tuyệt vời với mức giá tuyệt vời. Anh rất thích mùi các loại rau thơm tươi, thích màu sắc sống động của hàng hóa, những chai lọ lấp loáng đựng đầy các loại dầu đặc sản, và thậm chí cả những dụng cụ làm bếp sáng choang anh chẳng mảy may biết sử dụng như thế nào.
Trong suy nghĩ của anh, đàn ông biết sử dụng một vài loại dao, bay rán và muôi xẻ rãnh là đủ. Còn bất cứ thứ gì khác đều chỉ là thể hiện.
Trong bất kỳ trường hợp nào, khi anh cần phải đi mua thực phẩm - một công việc anh ghét chẳng kém thuốc chuột - anh hay lủi tới tiệm Piggly Wiggly.
Anh nhìn ngay thấy cô lúc cô chọn một chai dầu đắt tiền, tiếp đến là một chai dấm khá lạ.
Và mặc dù không dễ nhận ra, nhưng anh đoán chắc cô có mang theo vũ khí bên hông ngay dưới chiếc áo choàng có mũ.
Anh cứ men theo lối đi ngắn, suy tính.
“Cô Lowery.”
Cô quay đầu, và lần đầu tiên anh được ngắm kỹ mắt cô. To và xanh lục, giống như lớp rêu dưới bóng râm của một cánh rừng.
“Vâng.”
“Tôi là Brooks Gleason. Tôi là cảnh sát trưởng.”
“Vâng, tôi biết.”
“Tôi xin phép mang giỏ giúp cô được không? Chắc chắn rất nặng.”
“Thôi, cảm ơn anh. Không sao đâu.”
“Tôi chẳng bao giờ hình dung nổi mọi người làm gì với những món đồ kia. Dấm mâm xôi,” anh nói thêm, vỗ tay lên các chai trong giỏ hàng của cô. “Dường như không giống một cuộc hôn nhân khả thi.”
Trước ánh mắt không bộc lộ cảm xúc của cô, anh cố nở nụ cười tươi tắn nhất. “Quả mâm xôi, dấm. Theo suy nghĩ của tôi thì hai thứ không hợp nhau lắm. Ai lại nghĩ ra những thứ như thế nhỉ?”
“Những người nấu nướng. Nếu anh không phiền, tôi...”
“Còn tôi, tôi là loại cứ chém to kho mặn thôi.”
“Vậy thì anh chẳng có nhu cầu dùng dấm mâm xôi. Xin phép anh. Tôi phải trả tiền hàng.”
Mặc dù theo kinh nghiệm của anh, nụ cười nhìn chung dễ làm phụ nữ thay đổi, nhưng anh không muốn cảm thấy nản lòng. Anh chỉ theo cô đi đến quầy thanh toán. “Cô sinh hoạt ở khu Skeeter cũ ổn chứ?”
“Rất ổn, cảm ơn anh.” Cô rút một chiếc ví mỏng ra khỏi ngăn túi có khóa kéo.
Anh để ý thấy cô cầm nghiêng ví, khiến anh không thể liếc thấy bên trong được.
“Tôi lớn lên ở đây, chuyển tới Little Rock một dạo. Tôi chuyển lại về đây sáu tháng sau khi cô tới đây. Điều gì đã đưa cô tới Bickford?”
“Xe hơi của tôi,” cô đáp, và khiến cho nhân viên thu ngân phải cố nín cười.
Không dễ xơi, anh nhận định, nhưng anh đã từng gặp những đối tượng còn khó nhằn hơn kia. “Xe đẹp thật. Nhưng ý tôi là điều gì thu hút cô tới cái xó của rặng Ozark này kia?”
Cô lấy tiền ra trả khi nhân viên thu ngân cho biết con số tổng cộng. “Tôi thích địa thế. Tôi thích sự tĩnh lặng.”
“Thế ở ngoài kia cô không được một mình sao?”
“Tôi thích sự yên tĩnh,” cô nhắc lại, và nhận tiền thối.
Brooks tựa vào quầy thu ngân. Cô ấy lo lắng, anh nhận thấy điều đó. Nó không thể hiện trên nét mặt cô ấy, mắt cô ấy, ngôn ngữ cơ thể của cô ấy. Nhưng anh cảm nhận được nó. “Ở ngoài kia cô làm gì nhỉ?”
“Sống thôi. Cảm ơn,” cô nói với nhân viên thu ngân khi anh này xếp hàng hóa vào túi đi chợ mà cô mang theo.
“Rất hân hạnh, cô Lowery. Hẹn gặp cô lần sau.”
Cô vác chiếc túi đi chợ lên vai, đeo kính râm lên, và đi ra mà chẳng nói thêm một lời.
“Không nhiều chuyện để nói, cô ấy là như vậy phải không?” Brooks nhận xét.
“Đúng là không. Lúc nào cũng rất lịch thiệp, nhưng cô ấy không nói nhiều.”
“Cô ấy luôn trả bằng tiền mặt à?”
“À... Hình như vậy, anh nói tôi mới để ý.”
“Chậc. Giờ anh làm việc đi.”
Brooks nói vọng lại trong khi đi ra xe. Thiếu kỹ năng trò chuyện chỉ là một chuyện. Vũ khí đeo bên mình lại càng khả nghi. Rất nhiều người anh biết có súng ống, nhưng không nhiều người trong số họ giấu súng dưới áo khi ra ngoài mua dấm mâm xôi.
Có vẻ cuối cùng anh cũng có lý do để phóng xe tới chỗ cô.
Anh ghé vào đồn trước. Dưới quyền anh có ba cảnh sát làm việc toàn thời gian thay phiên nhau trực, hai người làm bán thời gian, một nhân viên trực máy toàn thời gian và một người nữa làm bán thời gian. Vào mùa hè, khi không khí nóng nực như trong lò nung, anh sắp xếp những người làm bán thời gian vào làm toàn thời gian để giúp xử lý những đối tượng nóng tính, hiện tượng phá hoại tài sản công do rảnh rỗi quá, và cả những du khách chú ý tới cảnh quan hơn cả đường sá.
“Ty đúng là thằng cha phiền phức.” Anh Hyderman, anh chàng sĩ quan trẻ nhất của anh, than phiền tại bàn làm việc. Dịp mùa đông, anh ta đã cố nuôi một bộ râu dê mà không gặp may lắm, thế nhưng vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Anh ta trông như vừa bôi bẩn môi trên và cằm bằng kem bơ đường vậy.
“Tôi đã mang bữa sáng cho gã như sếp dặn. Gã hôi như một ả điếm rẻ tiền vậy.”
“Sao cậu biết mùi một ả điếm rẻ tiền như thế nào, Ash?”
“Thì tôi cứ tưởng tượng thôi. Tôi định về nhà, được chứ, Brooks? Tôi đã gánh trọn ca đêm kể từ lúc chúng ta tóm cái gã Ty hôi hám ấy. Mà cái giường chết tiệt kia làm gãy lưng anh mất thôi.”
“Tôi cần ra ngoài một chút. Boyd sắp đến trực bây giờ. Anh ấy có thể tiếp quản. Alma cũng đến trực. Họ đến đây là có người thay chúng ta thôi.”
“Anh đi đâu vậy? Có cần hỗ trợ không?”
Brooks nghĩ Ash không mong gì hơn là có một lũ khùng gào rú trong thị trấn, đập phá mọi thứ. Như vậy anh ta có thể đóng vai trò hỗ trợ.
“Tôi chỉ muốn kiểm tra chút việc thôi. Không lâu đâu. Tôi sẽ liên lạc bộ đàm nếu có chuyện gì. Dặn Boyd tìm cách nói chuyện có tình có lý với Missy khi nào cô ta đến kêu rằng Ty có bao giờ dám chạm đến cô ta đâu. Chẳng ích gì, nhưng anh ấy vẫn nên thử xem.”
“Vấn đề là, Brooks, tôi nghĩ chắc chắn cô ta thích như thế?”
“Chẳng ai thích bị đấm vào mặt cả, Ash. Nhưng việc đó có thể riết thành quen. Cả hai vợ chồng họ. Tôi giữ liên lạc bộ đàm,” anh nhắc lại, rồi đi ra.
*
Abigail cố gắng kiềm chế tâm trạng lo lắng, mất bình tĩnh, bực bội khi có công việc cô đặc biệt thích thú nhưng lại bị phá hỏng bởi một tay cảnh sát trưởng lắm mồm chẳng làm được gì hơn là quấy nhiễu cô.
Cô chuyển tới cái góc Ozark xinh xắn này chính xác bởi cô không muốn có hàng xóm, người lạ, hay bị gián đoạn trong bất kỳ chu trình này mà cô tự lập ra.
Cô lái xe dọc theo con đường riêng uốn khúc chạy về căn nhà của cô trong rừng. Phải mất hàng tuần để nghĩ ra thiết kế cho các thiết bị cảm biến, những thứ sẽ không kích hoạt nếu một con thỏ hay sóc tiến đến gần ngôi nhà. Cần thêm thời gian để lắp đặt thiết bị và máy quay, rồi kiểm tra.
Nhưng kể ra cũng bõ công thật. Cô yêu căn nhà bằng gỗ súc đẽo thô và có hiên kín này. Lần đầu tiên trông thấy nó, cô đã nghĩ ngay về một mái ấm như trong truyện cổ tích.
Một sự nhầm lẫn, cô biết như vậy. Cô đã ngăn bản thân mình trước mọi cảm xúc quyến luyến, nhưng cô lại “gục ngã” trước địa điểm này. Tĩnh lặng đến mức cô có thể nghe được tiếng khe suối rì rầm. Riêng tư và khuất nẻo trong rừng sâu. Lại an toàn nữa.
Đích thân cô xem xét vấn đề an ninh, và cô không tin tưởng một ai khác. Phải vậy, cô nghĩ thầm, khi đỗ xe lại. Trừ Bert.
Chú chó to lớn ngồi ở hiên trước của ngôi nhà gỗ hai tầng. Tấm thân đầy vẻ cảnh giác, cặp mắt sáng quắc. Khi cô bước ra khỏi xe, cô ra hiệu cho nó bình tĩnh lại. Nó nhảy chồm lên cô, toàn bộ trọng lượng ngót sáu chục cân của nó cuống quít mừng rỡ.
“Cậu bé đáng yêu của chị. Chú chó tuyệt vời nhất thế giới. Khôn lắm. Cứ khôn như vậy nhé.” Cô vuốt ve nó rồi mới cầm lấy chiếc túi đi chợ. “Em sẽ không tin được buổi sáng nay của chị đâu.”
Cô lấy chìa khóa ra trong lúc họ cùng tiến về phía căn nhà men theo lối đi hẹp rải đá. “Đang tập trung vào việc của chị, đang mua đồ thì tay cảnh sát trưởng mò vào siêu thị tra hỏi. Em nghĩ việc đó thế nào?”
Cô mở hai lượt chốt cửa, cùng với thanh chặn cửa, rồi mới bước vào trong để tắt hệ thống báo động bằng mật mã cứ ba đến năm ngày cô lại đổi một lần.
“Chị cũng nghĩ như vậy.” Cô khóa cửa, chèn thanh chặn. “Gã thật bất lịch sự.”
Cô đi qua phòng khách được cô bài trí phục vụ mục đích thư giãn. Cô rất thích ngồi thu mình ở đây, với một bếp lửa lách tách, Bert nằm ngay dưới chân. Đọc sách hoặc xem một đĩa DVD. Và cô chỉ việc bấm nút là có ngay hình ảnh của các máy quay an ninh xuất hiện trên cái màn hình phẳng loại lớn.
Cô đi vào bếp, nơi có hẳn khu vực làm việc phụ mà cô bố trí thay cho phòng ăn.
Theo thói quen, cô kiểm tra các khóa cửa hậu, những chỗ đánh dấu cô để trên các cửa sổ. Nhưng ở đây cô không thấy sợ. Cô tin tưởng, rốt cuộc, cô cũng tìm được một nơi cô không thấy sợ hãi. Nhưng thận trọng vẫn không bao giờ là thừa. Cô bật màn hình TV trong bếp để hiện hình ảnh từ các máy quay an ninh. Cô để chỗ hàng hóa sang bên - tất cả những thứ cô mua được trước khi bị quấy rầy - và kiểm tra một vòng.
Cô cho Bert ăn loại thức ăn riêng hảo hạng của nó mà cô để trong một hộp thiếc. Cô luôn tin rằng nó có khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa thức ăn ấy với món bánh quy dành cho chó chất lượng kém hơn.
Là vệ sĩ của cô, nó xứng đáng được hưởng thứ ngon nhất.
“Chị có vài việc phải làm sau đây. Chị phải lấy khoản phí của chị trên tài khoản Bosto. Rồi chúng ta sẽ ra ngoài, tập tành một chút. Cho chị một tiếng, sau đó...”
Cô im bặt, còn Bert đầy vẻ cảnh giác khi có tín hiệu cảnh báo xe vang lên.
“Chúng ta làm gì có ai giao hàng hôm nay.” Cô đặt tay vào khẩu súng đeo bên hông. “Có lẽ là ai đó rẽ nhầm đường. Lẽ ra chị nên bố trí cổng, nhưng chúng ta có rất nhiều người đến giao hàng.”
Cô cau mày khi nhìn thấy chiếc xe hơi tiến đến, rồi chạy về phía màn hình, hiện to dần.
“Ôi trời. Hắn muốn gì không biết?”
Giọng nói của cô khiến Bert khe khẽ gầm gừ trong họng. “Gối đầu.” Khẩu lệnh ám chỉ đứng im giúp chú chó bình tĩnh lại nhưng vẫn dõi theo cô xem có hiểm nguy gì không. “Gối đầu,” cô nhắc lại, rồi ra hiệu cho nó đi theo cô.
Bert có cách đuổi khách rất thành công.
Cô tắt hệ thống báo động, mở khóa cửa trước và bước ra hiên khi anh chàng cảnh sát trưởng đỗ xe đằng sau chiếc SUV của cô.
Điều đó khiến cô thấy khó chịu. Anh ta không chặn ngay sau xe cô, cũng không cản cô lên xe. Cô có thể lánh anh ta nếu cần. Nhưng ý đồ thì đã rành rành, và cô không thích điều đó.
“Cô Lowery.”
“Sếp Gleason. Có chuyện gì à?”
“Chà, buồn cười là cô lại hỏi trước, bởi lẽ đó phải là câu hỏi của tôi mới đúng. Trước khi hỏi, cho phép tôi nói rằng con chó bự thật đấy.”
“Đúng vậy.”
Tư thế đứng nghênh nghênh, tay đút trong túi áo trước, ngôn ngữ cơ thể của anh ta rất thoải mái và tự nhiên. Nhưng đôi mắt của anh ta, Abigail nhận thấy như vậy, rất sắc bén và tinh tường. Rất quyền uy.
“Liệu nó có xé tan họng tôi nếu tôi bước lại đó không?”
“Không, trừ khi tôi ra lệnh.”
“Vậy cô đừng ra lệnh nhé. Sao chúng ta không vào trong nhà nhỉ?”
“Tại sao chúng ta lại phải vào?”
“Như thế sẽ thân thiện hơn. Nhưng ở ngoài này cũng được. Nơi này trông rất ổn. Ổn hơn hẳn so với trước đây.” Anh gật gù nhìn về một khoảnh đất cô đã dọn sạch và phủ bằng chất dẻo màu đen. “Định trồng hoa hay rau vậy?”
“Hoa. Nếu anh bỏ công đến tận đây chỉ để hỏi có chuyện gì không thì tôi cũng chỉ nói với anh rằng không. Ở đây không có chuyện gì cả.”
“Vậy tôi hỏi tiếp nhé. Tại sao cô mang theo súng?”
Cô biết mình đã thoáng tỏ ra ngạc nhiên, và ước sao mình có đeo kính râm. “Tôi sống một mình. Tôi không biết anh, và anh không mời mà đến, cho nên tôi phải có súng và chó để phòng thân. Tôi có giấy phép đấy.”
“Cô có thì tốt rồi. Vấn đề là, cô mang theo cả khẩu súng đó khi cô đi mua dấm. Tôi không nghĩ cô cần phòng thân ở siêu thị thực phẩm.”
Sắc bén và tinh tường, cô lại nghĩ, và thầm trách mình không mang theo thứ vũ khí nhỏ gọn hơn. “Tôi được phép mang vũ khí kín. Tôi làm đúng các quyền của mình thôi.”
“Tôi sẽ đề nghị được xem giấy phép, cảm phiền cô.”
“Tôi thấy phiền đấy. Tại sao người ta lại cứ phải nói vậy khi họ biết rất rõ cái người mà nghe họ nói vậy chắc chắn sẽ thấy phiền nhỉ?”
“Thì cũng chỉ cho có thôi, tôi đoán vậy.” Anh nói rất vui vẻ, kiên nhẫn - cô nghĩ khả năng đó chính là một biệt tài, và một vũ khí nữa.
“Tôi rất muốn xem giấy phép, chỉ để nắm được mọi việc - cô Abigail, được không?”
Cô quay đi không nói gì, móc chìa khóa ra. Cô cảm thấy anh bám theo cô lên đến hiên. “Tôi sẽ mang ra.”
“Cô biết không, cô khiến tôi thắc mắc tại sao cô nhất mực chặn tôi ở bên ngoài. Cô có phòng bào chế ma túy, nhà chứa, kho súng ống, chế tạo chất nổ gì chăng?”
“Tôi chẳng hề làm mấy chuyện đó.” Mái tóc cô, một dải tóc màu vàng nâu xõa đến vai, bay tung khi cô xoay lại. “Tôi không hề biết anh.”
“Brooks Gleason, cảnh sát trưởng.”
Đúng, cô quyết định, bất kỳ ai có thể châm chọc bằng cái giọng kéo dài vui vẻ và nụ cười dễ dàng như vậy, đều rất có nghề.
“Tên tuổi và nghề nghiệp không thay đổi được thực tế là tôi không biết anh.”
“Đã hiểu. Nhưng cô có một con chó khủng ở kia cứ luôn để mắt đến tôi vì nó biết cô khó chịu và tôi chính là lý do. Chắc nó phải nặng ngót nửa tạ.”
“Hơn sáu mươi cân.”
Brooks nhìn Bert rất lâu. “Tôi nặng hơn nó chục cân, nhưng nó lại có hàm răng sắc bén hơn và cô thì có súng.”
“Anh cũng vậy mà.” Cô đẩy cửa mở ra, và khi Brooks dợm bước vào, cô giơ một tay ra. “Tôi muốn anh đợi ở đây. Tôi sẽ bảo nó canh chừng. Nó sẽ kìm chân anh nếu anh không chịu ở đây. Anh không có quyền sục sạo trong nhà tôi.”
“Được rồi.”
“Bert. Giữ.” Cô xoay về phía cầu thang, đi lên.
“Tức là ‘kìm chân’ đây.”
Gần như mất kiên nhẫn - tay cảnh sát trưởng có vẻ hơi quá đà - cô dừng lại, gắt, “Cứ ở nguyên tại chỗ của anh và anh sẽ không phải thấy cảnh đó đâu.”
“Được rồi, đành vậy.” Anh thở hắt ra khi cô biến mất trên gác.
Anh và chú chó nhìn nhau chằm chằm. “Này, Bert, chú mày làm gì ở đây để khuây khỏa hả? Không nói chuyện, phải không? Địa điểm đẹp đấy.” Rất thận trọng, Brooks vẫn đứng yên, chỉ ngó ngoáy đầu. “Gọn gàng, ngăn nắp.”
Ba ổ khóa, một thanh chặn, cửa sổ chắc chắn, hệ thống báo động tối tân. Abigail Lowery là nhân vật quái quỷ nào vậy, và cô ta sợ điều gì - hay sợ ai nhỉ?
Cô đã đi xuống, tay cầm một tờ giấy, đưa cho anh.
“Một khẩu Glock 19 à? Đó là loại súng đáng gờm đấy.”
“Súng nào cũng đáng gờm cả.”
“Cô nói không sai.” Anh trả lại giấy phép cho cô, nhìn thẳng vào mắt cô. “Và cô nói không sai rằng cô không biết tôi. Tôi có thể nói với cô tên đội trưởng cũ của tôi ở Little Rock. Tôi thuộc lực lượng cảnh sát ở đó suốt mười năm trước khi tôi chuyển về quê. Tôi là một cảnh sát tốt, cô Abigail. Nếu cô cho tôi biết cô đang gặp rắc rối gì, tôi sẽ cố gắng giúp cô.”
Cảnh sát trưởng Gleason không phải là người duy nhất có nghề, cô nhủ mình. Ánh mắt và giọng nói của cô vẫn hoàn toàn đều đặn và không thay đổi. “Tôi không gặp chuyện gì cả. Tôi chỉ đang sống cuộc sống của mình. Tôi có việc để làm, và tôi tin chắc anh cũng có việc phải làm. Tôi rất muốn giờ anh về đi.”
“Được thôi. Nếu cô đổi ý.” Anh rút một tấm danh thiếp ra, đặt lên chiếc bàn cạnh cửa trước. “Số di động của tôi trên đó. Nếu cô cần giúp đỡ, cô cứ gọi.”
“Tôi không cần giúp đỡ.”
“Cô có hẳn một thanh chắn và ba ổ khóa hạng nhất ở cửa trước, chấn song an toàn lắp ở cửa sổ, và một hệ thống báo động còn tốt hơn cả ngân hàng của tôi. Tôi không nghĩ tất cả những thứ đó chỉ để giữ cho chú chó kia không chạy ra ngoài.”
Anh mở cửa trước, xoay lưng lại để nhìn cô. “Cô có thích trò ghép hình không?”
“Có, nhưng tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì.”
“Tôi cũng thích. Hẹn gặp cậu, Bert.” Anh đóng cửa lại.
Abigail bước qua bên, khóa cửa lại rồi nhắm chặt mắt, quỳ gục xuống sàn và áp mặt vào cái cổ rắn chắc của chú chó.