← Quay lại trang sách

Chương 8

Boyd Fitzwater, mái tóc hoa râm và bụng phệ, ngồi lì bên bàn. Ông ngừng mổ cò trên bàn phím máy tính khi Brooks bước vào.

“Cô Crew có đến đấy. Đúng như cậu dự đoán, cái mắt thâm tím đêm qua chỉ là một tai nạn. Lần này cô ta rất sáng tạo. Nói rằng cô ta trượt ngã trên thảm và Ty cố gắng đỡ cô ta.”

“Cho nên cô ta ngã trúng vào nắm đấm của anh ta chứ gì?”

“Đúng những gì cô ta nói đấy. Còn anh ta thì có hơi chếnh choáng, nên anh ta tính toán nhầm khi cố đỡ cô ta.”

“Và hàng xóm gọi chúng ta đến là vì cô ta bán khỏa thân chạy ra khỏi nhà và la hét à?”

“Chuyện đó?” Cố nín cười, Boyd lắc đầu. “Cô ta trông thấy một con chuột, và không phải thứ trên mắt cô ta[13]. Phản ứng thái quá, và lẽ ra hàng xóm không nên làm phiền chúng ta. Mà cậu khỏi phải hỏi, lý do cô ta nói Ty động chân động tay với cô ta tối qua là cô ta nhầm lẫn. Bởi vì đúng là anh ta có như vậy, nhưng chỉ là tìm cách đỡ cô ta khỏi ngã thôi.”

“Anh để gã đi rồi à?”

“Nếu không còn biết làm gì được.”

“Không, nhưng chuyện vớ vẩn này sẽ chấm dứt thôi. Lần sau chúng ta được gọi tới chỗ họ, tôi muốn bất kỳ ai trực thì cũng gọi cho tôi. Tôi muốn xử lý việc này.”

“Rất hoan nghênh sếp. Tôi cũng đã thử rồi, Brooks. Thậm chí còn bảo Alma nói chuyện với cô ta, cứ nghĩ có thể cô ta chịu nghe một phụ nữ khác khuyên bảo tôi.”

“Ôi dào, cô ta chẳng nghe đâu.” Alma Slope từ phòng giải lao bước vào. Hôm nay bà vừa sơn móng tay màu cam cho hợp với chuỗi hạt to quanh cổ. Túm tóc quăn màu vàng kim của bà ấy được giữ chặt ra sau bằng một dải lụa hoa màu da trời.

Bà hớp một ngụm cà phê trên tay, để lại một vệt son đỏ đậm rất rõ trên vành cốc. Đôi mắt màu lục nhạt, thứ duy nhất nhạt ở Alma, nhìn ra từ phía sau cặp kính gọng mắt mèo khảm kim cương giả.

Khuôn mặt bà ấy, với những đường nét thanh tú, thể hiện rõ vẻ khó chịu trong khi một nắm tay tì vào hông chiếc quần bò phai hiệu Levis.

Alma phải đến sáu mươi, nhưng bà ấy phải đến sáu mươi từ trước khi Brooks lên Little Rock rồi, cho nên anh không tài nào đoán được tuổi thật nhân viên trực máy của mình nữa. Anh cũng chẳng dám chắc Alma có biết tuổi mình không nữa.

“Tôi đưa cô ta vào phòng giải lao, bảo cô ta ngồi xuống và nói chuyện tâm tình với cô ta. Cô ta bắt đầu khóc, cho nên tôi nghĩ mình nên tránh đi đâu đó. Nhưng cô ta nói cô ta rất yêu Tybal, và anh ta chỉ hơi xấu tính lúc say rượu thôi. Và đây mới là chuyện. Rằng mọi chuyện sẽ ổn thỏa nếu như cô ta có thai.”

“Lạy Chúa.”

“Cô ta nói cô ta đang thực sự rất cố. Một khi họ có con, Ty sẽ bình tâm tĩnh trí ngay thôi.”

“Tôi muốn được thông báo khi đến lúc đó,” Brooks nhắc lại. “Cảm ơn chị đã cố gắng, Alma. Anh có thể đi tuần, Boyd. Tôi có mấy công việc giấy tờ phải xử lý.”

“Tôi sẽ làm ngay.”

“Cậu có muốn cà phê không, sếp?” Alma hỏi anh.

“Cảm ơn chị.”

“Tôi sẽ lấy cho cậu. Đang rảnh mà. Hôm nay khá yên ổn.”

“Hy vọng sẽ tiếp tục như vậy.”

Anh đi vào văn phòng, khởi động máy tính, nhấc cái lò xo đồ chơi Slinky cũ trên mặt bàn mình lên. Đi tới bên cửa sổ, anh di chuyển hai tay lên xuống để các vòng lò xo chạy rào rạo. Anh rất thích thứ tiếng này, cảm thấy nó thật nhẹ nhàng, như một tấm chăn cũ hay một đôi chân trần trên cỏ ấm.

Anh tự nhận mình - và được những người biết anh nhìn nhận - là mẫu đàn ông điềm đạm. Một số người nói còn hơi có phần lạnh lùng. Cho nên anh thấy ngạc nhiên vì sự việc với Abigail Lowery lại khiến anh khó chịu đến vậy.

Nhắc đến con chó. Một chàng chó đẹp, nhưng chắc chắn nếu anh cử động sai lầm, hoặc cô ấy chỉ ra hiệu, chàng chó điển trai đó sẽ cắn ngập hàm răng của nó vào người anh ngay.

Brooks không ngại những tình huống rối rắm, bởi vì anh thích giải quyết chúng, tìm ra câu trả lời hoặc giải pháp. Làm việc, đem lại sự bình yên. Nhưng anh rất khó chịu khi phải thất thế trước một phụ nữ có vũ khí cùng con chó vệ sĩ to lớn của nàng.

Không có vi phạm pháp luật, anh nghĩ. Không hề. Và chưa hề.

Có một số người bẩm sinh đã không thân thiện. Anh chẳng bao giờ hiểu được loại người ấy, nhưng anh đã biết họ, đã đối phó với họ. Còn tệ hơn với người phụ nữ này kia. Hơn rất nhiều.

Anh nhận thấy ở cô một sự pha trộn rất lạ lùng và thú vị giữa tự tin và kích động, thẳng thắn và kín đáo. Ngữ điệu miền Bắc, anh nhận ra như vậy. Vẫn chưa đầy ba mươi, theo mắt đánh giá của anh, và trừ Alma ra, thường thì anh luôn đánh giá đúng.

Nhìn nhận đơn giản thì vậy, nhưng ở đây vẫn có điều đáng chú ý. Xinh đẹp, mặc dù cô ấy không hề trang điểm, và trang phục của cô ấy giản dị. Giày cao cổ loại tốt, mòn đều. Không đồ trang sức, không sơn móng, không màu sắc sặc sỡ.

Theo như anh thấy, cô ta muốn nói rằng đừng có nhìn tôi. Đừng chú ý đến tôi.

“Chuyện gì khiến cậu bồn chồn thế?” Alma bước vào, đặt cà phê của anh lên bàn. “Cậu còn đang nghịch món đồ chơi của mình nữa chứ,” bà ấy nói thêm khi anh quay lại.

“Chỉ đang suy nghĩ.”

“Chuyện gì đó liên quan đến cô gái mua khu Skeeter cũ phải không?”

“Dạo này chị lại biết cả bói toán nữa cơ à?”

“Tôi dành cái đó cho con gái mình.”

“Caliope thế nào?” Con gái Alma biết đọc bài tarot, chỉ tay và khí sắc - và là một người bạn rất thân thiết của mẹ anh.

“Đêm trước con bé phục vụ một tiệc đính hôn. Nhờ buổi đó lại có thêm luôn ba cuộc hẹn nữa.”

“Tốt quá rồi.”

“Kiếm sống thôi mà. Tôi nghe nói cậu đã làm được những gì được coi là một cuộc trò chuyện với cô gái Lowery ở chỗ mua đồ ăn.”

“Cô ấy không phải người hay chuyện.” Anh ngồi xuống, nhấc ly cà phê lên, gác giày lên bàn. Một hình thức mời Alma ngồi lại. “Chị biết gì nào?”

“Không nhiều, nhưng cũng khiến tôi thấy bứt rứt. Những gì tôi moi được từ Dean McQueen, vì anh ta chuyên bán nhà cửa, là cô ta liên hệ với anh ta qua email. Xem hàng trên mạng, đặt vài câu hỏi, cảm ơn anh ta rất lịch sự. Vài ngày sau, cô ta gửi email lần nữa để trả giá. Không phải là giá chào, nhưng Dean bảo tôi có cao hơn một chút so với mức giá anh ta hy vọng bán được, và cô ta trả bằng tiền mặt.”

“Tiền mặt.”

“Đúng vậy. Trả ngay tức thì. Dân Skeeter xôn xao. Chậc, sếp biết Dean đấy, anh ta là dân kinh doanh, và anh ta thích nói vống lên. Anh ta nói anh ta không thu được gì nhiều từ cô ấy ngoài những từ có và không. Cô ta chuyển khoản tiền đặt cọc từ một ngân hàng ở Kansas City. Lái xe tới cùng với con chó của mình để thanh toán hết, kéo theo cả một xe thùng U-Haul. Ký giấy tờ, trao séc rút tiền, lần này thì từ một ngân hàng ở Fairbanks, Alaska. Dean muốn mời cô ta ăn trưa để ăn mừng, nhưng cô ta gạt phắt ngay. Muốn dẫn cô ta đến khu nhà, hướng dẫn qua cho cô ta, và lại bị gạt phắt lần nữa. Cô ta cầm giấy tờ, chìa khóa, cảm ơn tất cả mọi người và chỉ có vậy.”

“Đúng là một câu đố,” Brooks lầm bầm.

“Mọi người ai sống thế nào thì sống phải không? Như tôi thấy thì họ có sống mãi được đâu.” Bà đứng lên khi bộ đàm khu vực điều phối vang lên. “Sẽ rất thú vị nếu nắm được thóp của cô ta.”

“Đúng vậy,” Brooks tán thành. Khi Alma đi ra để trả lời bộ đàm, điện thoại của anh vang lên. “Sở cảnh sát Bickford, Cảnh sát trưởng Gleason nghe đây.” Lúc này, anh tạm gác nàng Abigail Lowery lại.

Anh xử lý giấy tờ, các cuộc điện thoại, rồi bách bộ đi tuần, nghe chủ một cửa hàng gốm than phiền việc người chủ cửa hàng kế bên lại đỗ xe chắn mất lối vào giao hàng của ông ấy.

Và rồi lại phải nói chuyện với người bị kêu ca.

Anh chọn một suất bánh mì kẹp thịt hun khói kèm pho mát, và trong khi dùng bữa trưa muộn màng của mình tại bàn làm việc, anh bắt đầu giải quyết câu đố.

Anh lục tìm dữ liệu của cô trong lúc nhai suất bánh kẹp của mình. Anh đọc ngày sinh của cô, nhận ra rằng cô mới hai mươi tám, như vậy là anh đã đúng.

Giấy phép của cô không hề bị hạn chế gì. Cô còn là người hiến tạng với hồ sơ lái xe rất sạch.

Anh truy cập vào cơ sở dữ liệu và tìm lý lịch hình sự của cô.

Không tiền án tiền sự.

Thế là đủ rồi, anh tự nhủ. Theo dữ liệu, cô ấy là một công dân tuân thủ pháp luật chưa hề có lấy dù chỉ một vé phạt chạy quá tốc độ.

Nhưng...

Tò mò, anh tìm trên Google về cô. Anh có vài trường hợp trùng tên, nhưng không trường hợp nào là nàng Abigail Lowery của anh.

Anh tiếp tục sục sạo. Anh đã có tên, địa chỉ, ngày sinh, dữ liệu giấy phép lái xe của cô. Vì anh biết cô có giấy phép mang vũ khí, anh bắt đầu tìm kiếm phần đăng ký súng ống.

Khi dữ liệu xuất hiện, anh ngồi nán lại.

“Chà, cả một kho súng cơ đấy,” anh lầm bầm.

Ngoài khẩu Glock 19, cô còn có giấy phép sử dụng một khẩu Glock 36, một khẩu Glock 26, một khẩu Beretta 9mm, một khẩu Sig tầm xa, một khẩu Colt Defender 9mm và một khẩu Smith & Wesson 1911, cùng một cặp Walther P22.

Người phụ nữ này cần nhiều súng ống như vậy để làm gì chứ? Anh là một cảnh sát, ơn trời, và ngoài vũ khí công vụ, anh cũng chỉ được dùng hai khẩu nữa. Cô là hạng người nào vậy?

“Này, Brooks.”

Quả bom tóc vàng đứng tạo dáng ngay ngưỡng cửa phòng anh. Mái tóc của Sylbie xõa thành từng lọn óng ánh xuống hai bờ vai chiếc áo sơ mi đăng ten trắng thắt lưng hờ phía trên chiếc quần bò trông giống như một lớp sơn mỏng phủ trên cặp chân dài. Cô ta có đôi mắt gợi cho anh nhớ đến một con hổ, vàng nâu và hơi hoang dã.

Hồi còn học trung học, anh chết mê chết mệt cô. Và khi anh có được cô, cuộc sống của anh trở thành cái bập bênh giữa hạnh phúc và sự chịu đựng.

Như một phản ứng tự động, anh ẩn màn hình làm việc đi. “Tình hình sao rồi, Sylbie?”

“Ôi, em ổn mà. Em làm việc suốt từ lúc bình minh, nên em cho phép mình giải lao một chút.” Cô đi như lướt vào phòng trên đôi chân dài miên man kia, ngồi vắt vẻo lên một góc bàn anh, người tỏa ra mùi nước hoa đầy quyến rũ. “Em nghĩ em nên ghé qua gặp anh, và xem xem liệu anh có muốn tối nay gặp nhau không.”

“Anh còn rất nhiều việc phải làm ở đây.”

“Nếu cảnh sát trưởng còn không rảnh buổi tối thì ai rảnh được chứ?”

“Luật pháp luôn phải cẩn trọng mà.”

Cô bật cười, hất cái bờm tóc xinh xắn kia. “Thôi nào, Brooks. Em nghĩ em sẽ mua một chai vang ngon đấy.” Cô nghiêng người tới. “Và anh có thể lợi dụng em.”

Dù không cảm thấy ra dáng đàn ông cho lắm, nhưng anh phải thừa nhận rằng trong những lần ít ỏi họ bên nhau kể từ khi anh trở về nhà, anh luôn có cảm giác mình là người bị lợi dụng.

Anh không bận tâm vào thời điểm ấy. Nhưng sau đó...

“Lời mời hấp dẫn đấy, Sylbie, nhưng tối nay anh phải làm việc.”

“Tới muộn cũng được.”

“Anh không nghĩ vậy.”

“Anh đang làm em tổn thương đấy.”

“Anh không muốn như vậy.” Nhưng anh cũng chẳng muốn điên vì yêu lần nữa. Họ đã cách xa thời trung học, khi cô chiếm trọn trái tim anh, sau đó hủy hoại nó - và mới đây thôi, cô lại vừa ly dị lần hai.

“Nếu anh không muốn để tâm,” cô nói và tụt xuống khỏi bàn.

“Anh không như vậy.” Cô sẽ luồn vào lòng anh ngay nếu anh không đứng lên. “Xem nào, Sylbie.”

Khi anh trông ra cửa, anh thấy Abigail bước vào, nhìn thấy ngay vẻ bối rối của cô.

“Cô Lowery,” anh nói, khi cô chưa kịp quay người.

“Tôi xin lỗi vì xen ngang, tôi sẽ quay lại sau.”

“Không, không sao. Anh sẽ nói chuyện với em sau, Sylbie.”

“Em sẽ mua chai rượu vang đó,” cô nói khẽ, và mỉm cười với anh. Cô quay đi, hơi nghiêng đầu để soi xét Abigail. “Cô là người phụ nữ sống ở khu Skeeter.”

“Vâng.”

“Tất cả mọi người đều thắc mắc mình cô làm gì ở chỗ đó.”

“Họ chẳng nên như vậy.”

“Làm người ai chẳng tò mò. Điều đó cũng tự nhiên thôi. Tôi là Sylbie MacKenna.”

“Một thợ gốm trong vùng. Cô làm rất khéo. Tôi đã từng mua bát của cô.” Abigail lại nhìn Brooks. “Tôi có thể nói chuyện với anh sau, cảnh sát trưởng Gleason.”

“Giờ cô đã ở đây rồi. Sylbie phải đi rồi.”

“Trịnh trọng quá. Anh ấy không hay như vậy đâu.” Cô ta nhìn Abigail mỉm cười ranh mãnh. “Em sẽ gặp anh sau, Brooks.”

“Cô ấy rất quyến rũ,” Abigail nhận xét.

“Luôn như vậy mà.”

“Tôi xin lỗi xen ngang. Cái người phụ nữ, nhân viên...”

“Nhân viên trực máy?”

“Vâng. Bà ấy nói lẽ ra tôi nên quay lại sau.”

“Không sao. Mời cô ngồi.”

“Tôi đóng cửa được không?”

“Vâng.”

Sau khi làm vậy xong, và ngồi xuống chiếc ghế dành cho khách, cô im lặng mất một lúc.

“Tâm trí cô vướng bận chuyện gì ư?” anh hỏi cô.

“Vâng. Tôi nhận ra tôi xử lý sai việc... của chúng ta sáng nay. Lúc ở siêu thị, và khi anh đến nhà tôi. Tôi chưa được chuẩn bị.”

“Cô phải chuẩn bị tinh thần cho một cuộc trò chuyện cơ à?”

“Tôi không phải là người quảng giao, cho nên tôi không dám trò chuyện nhiều, đặc biệt với những người tôi không biết. Lúc ở siêu thị, tôi cảm thấy không thoải mái khi anh quan tâm đến những gì tôi mua.”

“Việc tôi quan tân đến những gì cô mua chỉ là mánh để gợi chuyện thôi.”

“Vâng.”

Mọi thứ ở cô ấy đều điềm đạm, anh nghĩ, và bình tĩnh. Anh nhận thấy cô giống như cực đối lập với Sylbie, người luôn sôi nổi, và dường như luôn hoạt động.

“Chúng ta sống trong một thị trấn nhỏ, cô Abigail. Một thị trấn nghỉ dưỡng nhỏ, toàn những tín đồ trào lưu Tân Kỷ nguyên[14] và những người hippy cũ, những hippy thế hệ thứ hai, các nghệ sĩ. Chúng tôi rất thân thiện.”

“Tôi thì không được vậy. Tôi rất xin lỗi nếu tôi có phần thô lỗ nhưng đó là thực tế. Tôi không phải người thân thiện, và tôi chuyển đến đây để được sống yên tĩnh, được tĩnh mịch. Khi anh đến nhà ngay sau lúc ở siêu thị, việc đó khiến tôi lo lắng, và bực bội. Tôi có những lý do riêng để phải mang theo súng. Tôi không có nghĩa vụ phải nói rõ những lý do đó. Tôi chẳng làm gì sai cả.”

“Rất mừng được biết như vậy.”

“Tôi rất thích căn nhà của mình, và vùng đất quanh nó. Tôi cũng thích thị trấn này. Ở đây tôi cảm thấy thoải mái. Tôi chỉ muốn được một mình.”

“Những gì Sylbie nói về chuyện tò mò là sự thật. Điều đó cũng hết sức tự nhiên thôi. Cô càng bí ẩn, mọi người càng thắc mắc.”

“Tôi không bí ẩn.”

“Cô là một sự bí ẩn di động.” Anh đứng lên, vòng qua bàn. Lúc làm vậy, anh thấy cô rất gắng gượng, đầy cảnh giác, thậm chí khi anh ngả người dựa vào mặt trước chiếc bàn.

Anh muốn hỏi ai làm cô tổn thương, ai làm cô sợ. Nhưng anh sẽ mất cô nếu anh làm vậy.

“Cô là một phụ nữ thực sự hấp dẫn nhưng lại sống một mình - với một chú chó to, lực lưỡng - biệt lập hẳn bên ngoài thị trấn. Chẳng ai biết rõ cô từ đâu đến, tại sao cô lại đến đây, cô làm gì để sống. Bởi đây là miền Nam, nên chẳng ai biết gốc gác của cô. Cô là dân miền Bắc, nên mọi người sẽ tò mò về cô. Quanh dây, chúng tôi đều thích sự lập dị, điều đó rất hợp với cộng đồng này. Nếu mọi người xác định cô là người lập dị, họ sẽ thôi không thắc mắc nữa.”

“Theo những tiêu chí nhất định thì tôi là người lập dị. Tôi có thể còn lập dị hơn nếu điều đó khiến mọi người hài lòng.”

Anh cười tươi với cô, không nén được. “Cô hoàn toàn khác. Cô làm gì để sống, Abigail? Nếu đó không phải là một bí mật, hoặc vấn đề an ninh quốc gia, cô có thể nói cho tôi biết. Và điều đó cũng là cuộc trò chuyện rất đơn giản.”

“Tôi lập trình máy tính và thiết kế phần mềm, làm tự do. Tôi cũng thiết kế các hệ thống an ninh, và cải tiến hoặc thiết kế lại các hệ thống hiện có, chủ yếu cho các công ty.”

“Thú vị quá! Nghe kể thì có vẻ dễ dàng.”

“Công việc của tôi có nhiều khía cạnh rất nhạy cảm. Tất cả đều phải bí mật nữa.”

“Tôi hiểu. Hẳn cô rất thông minh.”

“Tôi rất thông minh.”

“Cô học ở đâu?”

Cô chăm chú nhìn anh, điềm tĩnh, bình thản, tự chủ. “Anh biết đấy, khi anh hỏi tôi tất cả những câu hỏi này, không có cảm giác giống nói chuyện cho lắm. Giống như thẩm vấn mới đúng.”

“Ồ, vâng. Vậy hãy đặt câu hỏi cho tôi đi.”

Cô cau mày nhìn anh chằm chằm. “Tôi chẳng có câu hỏi nào cả.”

“Nếu cô thông minh như vậy, cô có thể nghĩ ra câu hỏi.” Anh rời khỏi bàn, đi tới bên chiếc tủ lạnh to tướng và lấy ra hai lon Coke. Anh đưa cho cô một lon, bật nắp lon thứ hai. “Có gì đó không ổn ư?” anh hỏi, trong khi cô cứ trân trân nhìn lon nước trên tay mình.

“Không. Không. Không sao, một câu hỏi đây. Tại sao anh lại làm trong ngành hành pháp?”

“Đó, một câu hỏi rất hay.” Anh chỉ tay vào cô vẻ tán đồng, rồi lại tựa vào chiếc bàn, những thay đổi sau lưng anh hiện rõ bên ngoài ô cửa sổ. “Tôi thích giải quyết vấn đề. Tôi tin vào rất nhiều điều. Cũng không tin nhiều thứ, nhưng một trong những điều tôi tin là có những chuyện đúng và có những điều sai. Không phải ai cũng phân biệt được đúng sai như nhau. Chuyện nhìn nhận sẽ mang tính chủ quan. Khi cô là một cảnh sát, đôi khi đây là vấn đề đen và trắng, và đôi khi cô phải quyết định - trong tình huống này, với những người này, chuyện đó là sai ư, hay chỉ là có vấn đề cần giải quyết?”

“Có vẻ rất khó hiểu.”

“Không hẳn. Chỉ là chuyện giải quyết vấn đề, và cách duy nhất thực sự giải quyết được chúng là sử dụng cái đầu của mình. Và cả khí phách của mình nữa.”

“Trí tuệ là tiêu chí đánh giá chính xác hơn tình cảm. Trí tuệ xử lý được dữ kiện. Còn tình cảm hay thay đổi và không đáng tin cậy.”

“Và rất nhân văn. Luật pháp còn gì tốt đẹp nếu chúng không nhân văn?”

Anh đặt lon Coke của mình xuống và cầm lấy lon của cô. Anh mở nó và đưa lại cho cô. “Cô có cần cốc không?”

“Ồ. Không. Cảm ơn anh.” Cô uống một ngụm nhỏ. “Cảnh sát trưởng Gleason.”

“Brooks. Cô không định hỏi tôi làm sao tôi lại có cái tên Brooks à?”

“Tưởng đó là họ anh.”

Anh lại chỉ vào cô. “Cô nghĩ sai rồi. Nào, cô không tò mò ư?”

“Tôi... Có, chỉ một chút thôi.”

“Brooks Robinson.”

“Tôi chưa hiểu?”

“Tôi biết mà. Bóng chày, cô Abigail. Brooks là một trong những vệ thủ số ba cừ nhất từng bảo vệ góc hiểm. Mẹ tôi là người ở Baltimore, nơi ông ấy chơi. Mẹ tôi, bà rất mê bóng chày. Thậm chí khi bà chuyển về đây, suốt từ hồi cuối thập niên 1970, bà vẫn theo đuổi môn bóng chày, và tôn thờ đội Baltimore Orioles. Theo lời bà, khi bà xem Brooks đoạt danh hiệu năm 1970, qua mặt đội Cincinnati Reds, bà đã thề khi sinh con trai, bà sẽ đặt tên con là Brooks.”

“Chắc mẹ anh mê bóng chày dữ lắm.”

“Ồ, vâng. Thế còn cái tên Abigail xuất xứ từ đâu?”

“Chỉ là một cái tên thôi.”

“Tôi thích Abigail. Một cái tên truyền thống.”

“Cảm ơn anh.” Cô đứng lên. “Tôi phải đi rồi. Hôm nay tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi xin lỗi khi có phần mất lịch sự sáng nay, hy vọng tôi đã giải thích rõ ràng.”

“Tôi đánh giá cao việc cô tới đây. Những gì tôi nói sáng nay vẫn vậy. Nếu cô cần bất kỳ điều gì, xin cứ gọi.”

“Tôi sẽ không gặp chuyện gì đâu, nhưng cảm ơn anh về lon Coke và cuộc trò chuyện.” Cô trả lại lon nước cho anh. “Chào anh.”

Khi cô đi khỏi, anh mân mê cái lon. Những gì nó nói với anh, anh tự hỏi, và anh đang nghĩ đến việc gửi nó đi để xét nghiệm DNA và dấu tay

Có vẻ không hay lắm, ở vài khía cạnh, anh quyết định như vậy. Nhưng anh vẫn cầm lon nước ra nhà tắm, đổ hết những gì bên trong xuống bồn. Trở lại văn phòng mình, anh nhét chiếc lon rỗng vào một túi đựng chứng cứ, và cất nó vào ngăn kéo dưới cùng. Phòng khi cần.