Phần III - Chương 23
Hãy để công lý được thực thi, dù bầu trời có sập xuống.
— Lord Mansfield
*
Roland Babbett làm thủ tục nhận phòng tại khách sạn Quán trọ Ozark vào một chiều xuân nóng nực và ngột ngạt như vào tháng Tám. Trong căn phòng có góc nhìn thẳng ra vùng đồi của mình, anh đặt laptop lên chiếc bàn cũ bóng láng. Anh đánh giá cao các tiện nghi, wifi miễn chê, TV màn hình phẳng, đồ đạc được lựa chọn cẩn thận (anh nghĩ thế), và vòi tắm rất mạnh.
Anh từng nhiều lần phải làm việc tại những nhà trọ tồi tàn có vòi nước són từng giọt và những mẩu xà phòng hôi rình, hoặc trên xe của mình, nơi các tiện nghi chỉ còn là một chiếc lọ thủy tinh để anh có thể chốc chốc tiểu tiện vào.
Đó là cuộc đời của một thám tử tư.
Anh thích vậy, cho dù với những nhà trọ tồi tàn và lọ thủy tinh. Hai năm làm cảnh sát đã dạy anh rằng anh không thể làm việc tốt với những quy định đủ loại. Nhưng anh là một cảnh sát cừ, và nhờ thế dễ dàng chuyển sang làm việc ở công ty thám tử tư Stuben-Pryce. Trong gần mười năm làm việc ở đó, anh đã chứng minh mình là người đáng tin cậy, sáng tạo và lì lợm. Những phẩm chất mà công ty đánh giá cao.
Anh cũng rất thích những khoản tiền thưởng của mình, và hy vọng nhận được một khoản nữa với công việc lần này.
Anh bỏ đồ đạc ra - quần lửng và quần dài, áo phông, áo len, giày cao cổ.
Anh đã chọn trang phục hợp với vỏ bọc của mình là một nhiếp ảnh gia tự do, như thế anh sẽ được lang thang trong thị trấn, vùng ngoại ô, chụp ảnh, trò chuyện với dân địa phương.
Anh không thích tay khách hàng của mình lắm. Roland coi gã Lincoln Blake là một gã khốn hạng nhất, và thằng con của Blake thuộc dạng ung nhọt của xã hội.
Nhưng công việc là công việc, và Blake thì rất chịu chi, một gã khốn hạng nhất lắm mồm, huênh hoang và mưu mô. Khi sếp bảo đi thì Roland lên đường thôi. Đặc biệt vì anh có một đứa con đang theo học trường tư, một đứa nữa sắp nhập học vào mùa thu tới và - rất ngạc nhiên - đứa thứ ba sắp ra đời.
Anh yêu gia đình mình, và khoản lương từ Stuben-Pryce, cộng thêm tiền thưởng, giúp họ có một cuộc sống ổn, bao gồm cả một khoản vay thế chấp kha khá cho căn nhà bốn phòng ngủ mới toanh của họ ở West Little Rock.
Cho nên khốn kiếp hay không thì khách hàng vẫn là thượng đế. Nếu Blake muốn biết tất cả những gì cần biết - đặc biệt những chuyện nhơ nhớp - về một ả Abigail Lowery nào đó, Roland sẽ tìm ra tất cả những điều cần biết ấy. Cũng như vậy với anh chàng Brooks Gleason, cảnh sát trưởng ở Bickford, mà theo lời khách hàng, là người tình của ả Lowery.
Khách hàng nói hai người đó, cùng với nhà Conroy - chủ của cái khách sạn có cảnh quan cùng tiện nghi rất bảnh - đã gài bẫy con trai gã để moi tiền. Blake hầm hầm, và to tiếng, phủ nhận chuyện thằng ôn vật nhà gã đã phá tan hoang một căn phòng cao cấp của khách sạn như lời người ta nói, cũng chẳng hề tấn công Russell Conroy, cũng chẳng vung dao nhằm vào cảnh sát trưởng.
Roland, vốn đâu có ngu ngốc, tin chắc nhưng không thể hiện ra rằng cái nhọt mông kia đã làm tất cả những việc ấy và còn hơn thế. Nhưng anh làm công việc của mình, kiếm tiền cho mình. Và thanh toán các loại hóa đơn của mình.
Anh kiểm tra các thiết bị máy ảnh, máy ghi âm, sổ tay và bộ dụng cụ mở khóa của mình. Sau đó gọi cho vợ bằng điện thoại di động để báo cho cô biết anh đã đến nơi an toàn.
Anh bảo với cô rằng anh rất muốn cô có mặt ở đây. Buồng trọ có hẳn một chiếc giường cỡ lớn. Chuyện mang thai càng khiến cho Jen hấp dẫn trong chuyện chăn gối.
Lúc chuẩn bị đồ đạc để thực hiện chuyến lang thang đầu tiên quanh thị trấn, anh tự hứa rằng sẽ sớm quay lại đây, cùng với Jen, sau khi đứa bé ra đời, và bố mẹ cô vẫn thừa sức chăm nom cả ba đứa trẻ dịp nghỉ cuối tuần.
Anh xốc túi máy ảnh lên vai, choàng chiếc Nikon quanh cổ bằng chiếc quai có trang trí những ký hiệu hòa bình. Mặc chiếc quần lửng nhiều túi, đi đôi giày dã chiến Rockport và mặc chiếc áo phông in hình nhóm nhạc rock R.E.M, anh đeo kính râm lên, nhìn lại mình trong gương.
Sáng hôm đó anh chưa cạo râu, chủ ý như vậy, và nghĩ cứ để cho diện mạo thêm chút râu ria. Anh thích những nét cá tính và, nếu được lựa chọn, thì sẽ giữ những nét ấy gần giống với chính mình. Tự nhiên, dễ dàng.
Anh tự nhận mình là một tay ưa nhìn. Anh có thể trò chuyện với bất kỳ ai về bất kỳ điều gì, một công cụ quan trọng chẳng kém máy tính của anh. Anh không hề khó coi, anh nghĩ thầm trong lúc chụp thêm chiếc mũ Greenpeace cho trọn bộ trang phục.
Mặc dù vậy, anh đang thấy bắt đầu lo lắng về tình trạng hói đầu. Anh trai anh, lớn hơn hai tuổi so với cái tuổi ba mươi tư của Roland, đã lộ một mảng da đầu nhẵn nhụi bằng nắm tay ngay đỉnh đầu.
Anh nghĩ nhanh đến việc lựa một ít thuốc mọc tóc Rogaine - tại sao lại không thử những biện pháp ngăn ngừa trước chứ - lúc đi ra khỏi phòng.
Anh đã phải giành giật một phòng ở tầng trên cùng, mặc cho nhân viên lễ tân đã đề nghị một phòng khác, để khỏi bị tiếng ồn xây dựng làm phiền. Nhưng anh chẳng để tâm đến những cảnh báo và tình trạng bất tiện. Như thế này, anh có thể nhìn được căn phòng mà thằng con trai của gã khách hàng không hề phá phách, nếu như bạn tin vào lời lũ đại gia khốn kiếp.
Anh lững thững xuống sảnh, chú ý đến cánh cửa đóng chặt, một bảng hiệu cáo lỗi vì đã gây ra những bất tiện do việc sửa chữa ngoài ý muốn. Tiếng ồn, đã được chặn bớt, nghe giống âm thanh chạy thử hơn là sửa chữa.
Anh sẽ kiểm tra việc đó sau, khi đội thợ và nhân viên khách sạn không quanh quẩn gần đó.
Còn bây giờ, anh đi bộ xuống cầu thang, vì anh cũng hơi quan tâm đến chuyện sắp mang cái bụng bự của tuổi trung niên, và bước ra ngoài nắng nóng.
Thị trấn nhỏ bé xinh đẹp, anh nghĩ thầm. Jen sẽ thích mê - các cửa hiệu, nghệ thuật. Anh sẽ lựa thứ gì đó cho cô và lũ trẻ, kể cả đứa nhỏ sắp chào đời nữa, trước khi ra về.
Rất đông khách du lịch, anh nhận ra như vậy. Một anh chàng đeo chiếc máy ảnh thật dễ để hòa nhập. Anh tận dụng điều đó, chụp vài bức ảnh về khách sạn, lấy cận cảnh vào các cửa sổ của căn phòng có vấn đề, với những tấm rèm được buông kín.
Anh có con mắt nghệ thuật khá tốt. Anh nghĩ khi đến lúc thôi không làm thám tử tư nữa, anh sẽ thử lấy nhiếp ảnh làm một thú vui công việc. Anh lang thang, chọn cảnh, bấm máy. Một ô cửa sổ hay hay, cận cảnh những bông hoa trồng trong một nửa cái thùng đựng rượu whiskey. Với người bình thường, anh chỉ như ai đó đi vẩn vơ, chẳng có một đích đến cụ thể nào.
Nhưng anh đã có những địa chỉ đáng quan tâm ở trong đầu. Chỗ của Lowery cần phải lái xe đến, nhưng anh có thể đi bộ qua căn hộ của cảnh sát trưởng, và căn nhà nơi bố mẹ anh ta vẫn sinh sống. Chỉ là để có chút cảm nhận về nơi chốn, con người, Roland nghĩ và dành thời gian ngắm nghía những ô cửa sổ căn hộ của Brooks Gleason phía trên một quán ăn đông đúc.
Rèm đều kéo lên, anh nhận ra như vậy. Ở đây chẳng có gì để nhìn. Anh vẩn vơ đi vòng về phía sau, chụp vài bức ảnh những chậu hoa trong khi xem xét lối vào đằng sau.
Những ổ khóa rất tươm tất nhưng chẳng có gì đáng kể, anh cảm thấy rất muốn thăm dò một chút bên trong. Anh cố gắng tránh việc đó, nếu có thể.
Với tấm bản đồ thị trấn trên tay, một món quà của khách sạn, anh thả bộ trên hè.
Và dừng lại, hoàn toàn bị cuốn hút và sững sờ trước ngôi nhà có tranh tường. Anh kiểm tra địa chỉ, và khẳng định thực tế đó chính là nơi ở của bố mẹ tay cảnh sát trưởng. Thông tin đã thu thập được cho anh biết bà mẹ là một họa sĩ, còn ông bố là giáo viên trung học.
Anh nhận định người phụ nữ đầu đội chiếc khăn bảy sắc cầu vồng hiện đang đứng trên giàn giáo trong bộ tạp dề đầy vết sơn chính là mẹ của đối tượng.
Buộc vào chân giàn giáo là một chú cún nằm cuộn khoanh trong bóng râm và ngủ tít.
Vừa như sở thích vừa cho công việc, Roland chụp vài bức ảnh, tiến lại gần hơn. Khi anh đến ranh giới khoảnh sân, chú cún con choàng tỉnh sủa ăng ẳng.
Và người phụ nữ nhìn xuống. Bà ấy hơi hất đầu. “Tôi giúp gì được cậu?”
“Cháu xin lỗi vì làm gián đoạn. Cháu chỉ đang đi loanh quanh, và... chỗ này thật tuyệt. Là bác vẽ toàn bộ đấy à?”
“Vâng. Cậu đang tham quan à?”
“Cháu có vài ngày ở lại thị trấn. Cháu là nhiếp ảnh gia, và cháu đang dành vài tuần ở Ozark. Cháu muốn thực hiện một cuộc triển lãm.”
“Anh sẽ không thiếu chủ đề ở quanh đây đâu. Được rồi, Plato, tao đến đây.”
Bà nhanh nhẹn leo xuống, tháo khóa cho chú cún và nó ngay lập tức chạy xô tới hít ngửi Roland. “Cún ngoan.” Anh cúi xuống vuốt ve chú cún. “Cháu đoán chắc cháu làm nó tỉnh giấc.”
“Nó là một con chó giữ nhà rất chiến, như cậu thấy đấy. Sunny O’Hara,” bà nói thêm, và chìa một bàn tay lấm tấm sơn ra.
“Roland Babbett. Cháu chụp vài bức ảnh nhà mình có được không ạ? Nhà tuyệt lắm.”
“Cậu cứ thoải mái. Cậu từ đâu đến, Roland?”
“Little Rock.”
“Con trai tôi sống ở đó vài năm. Nó là thanh tra cảnh sát. Tên là Brooks Gleason.”
“Chắc cháu không biết anh ấy, nhưng cháu sẽ cố gắng không gây rắc rối.”
Bà ấy cười tươi với anh. “Tốt đấy, bởi vì giờ nó là cảnh sát trưởng ở đây.”
“Đây đúng là một thị trấn tuyệt vời. Cháu hy vọng anh ấy không quá bận rộn.”
“Ồ, lúc nào chả có chuyện này chuyện kia. Mà cậu ở chỗ nào?”
“Cháu đang tận hưởng tiện nghi, vì cháu sẽ chủ yếu cắm trại trong chặng thứ hai của chuyến đi này. Cháu ở Quán trọ Ozark.”
“Không đâu tốt hơn nữa rồi, nơi đó là một trong những báu vật tuyệt nhất trong hòm châu báu của Bickford đấy. Chúng tôi gặp một vài phiền phức ở đó vài ngày trước, khi chuyện xảy ra. Thằng gây rối ở thị trấn cùng mấy đứa a dua a tòng theo nó đã phá hỏng căn buồng Ozark.”
“Hóa ra đúng là có chuyện ạ? Cháu ở ngay trên tầng đó, và người ta nói với cháu rằng sẽ có ồn ào một chút. Việc sửa chữa đang được tiến hành.”
“Rất nhiều chỗ. Có thể cậu muốn chuyển sang tầng khác đấy!”
“Ồ, cháu chẳng vấn đề gì đâu. Cháu có thể ngủ say bất kể chuyện gì.” Rất vô tình và thân thiện, anh để máy ảnh của mình đung đưa trên quai đeo. “Cháu rất tiếc khi nghe nói về vụ phiền toái. Đó thực sự là một khách sạn đẹp. Kiến trúc, đồ đạc. Nó mang cảm giác như nhà mình vậy - rất thuận tiện. Mà sao họ lại phá nó vậy?”
“Chắc một số người thích phá mọi thứ, tôi đoán vậy.”
“Thật xấu hổ. Cháu nghĩ ngay cả các thị trấn nhỏ nhắn xinh đẹp cũng có đám gây rối. Cháu sẽ cố gắng tránh xa cậu ta trong thời gian ở đây.”
“Nó vào tù rồi, và chắc chắn còn ở đó một thời gian. Cậu sẽ thấy hầu hết mọi người sống ở đây đều thân thiện. Chúng tôi dựa vào khách du lịch, và những nghệ sĩ như cậu. Cậu có cái máy ảnh rất khủng đấy.”
“Con cưng của cháu đấy.” Anh vỗ vỗ lên máy ảnh. Anh rất muốn chụp ảnh, gần như chẳng kém gì những thông tin mà bà tiết lộ. “Thỉnh thoảng cháu vẫn chụp bằng phim, nhưng lựa chọn chính của cháu vẫn là kỹ thuật số.”
“Nếu cậu có bất kỳ thứ gì muốn bán, hãy mang tới Phòng trưng bày phố Shop. Họ mua rất nhiều ảnh chụp cảnh trong vùng.”
“Cảm ơn bác đã mách nước. Bán đi vài món sẽ giúp cháu được ăn bánh mì kẹp xúc xích và đậu hầm trong vài tuần tới.” Anh chuyện phiếm với bà thêm vài phút nữa, sau đó thả bộ về phía trung tâm thị trấn. Nếu bà Sunny O’Hara có chi tiết gì đó đáng nghe theo, Roland nghĩ, thì gã khách hàng sẽ không hài lòng chút nào.
Anh tiến thẳng đến quán ăn. Thực khách và người phục vụ thường là những nguồn tin rất tốt. Anh chọn một chỗ dễ quan sát những người ra vào, đặt máy ảnh rất cẩn thận lên mặt bàn.
Anh rất muốn chụp một bức ảnh cô phục vụ - anh thực sự rất mê đắm mình vào khắc họa cá tính, còn cô ấy có gương mặt rất đẹp, đáng chú ý.
“Cho tôi cà phê.”
“Một chút bánh ngọt đi kèm thì sao ạ? Hôm nay món bánh anh đào đặc biệt ngon.”
“Bánh anh đào ư?” Anh nghĩ đến cái bụng bự của tuổi trung niên. Vậy là anh sẽ phải làm thêm năm mươi lần động tác gập bụng trong tối nay. “Tôi không nghĩ mình có thể nói lời từ chối.”
“Tôi hâm nóng nhé? Anh có dùng kem đậu vanilla không?”
Được thôi, thêm bảy lăm lần gập bụng. “Vâng. Tôi không biết ai đủ mạnh mẽ để từ chối món đó. Nếu ngon như tên gọi thì tôi sẽ đến đây hằng ngày trong thời gian ở lại thị trấn.”
“Ngon lắm. Anh đến thị trấn chơi à?” cô hỏi, bằng giọng điệu thoải mái gần như giống hệt bà Sunny.
Anh giữ nguyên vỏ bọc nhiếp ảnh gia với cô ấy, thậm chí còn cho cô xem vài bức ảnh anh chụp căn nhà tranh tường.
“Anh chẳng bao giờ biết bà ấy sẽ vẽ gì tiếp theo lên đó đâu. Mấy bức ảnh này cũng rất đẹp.”
“Cảm ơn chị.”
“Tôi sẽ mang đồ anh gọi ra.”
Anh nhâm nhi cà phê trong lúc chờ đợi, nghiên cứu cuốn sách hướng dẫn như một du khách thực thụ. Cô ấy mang trở lại một miếng bánh rất to và lớp kem phết lên trên bánh đang tan chút ít. “Nghe hay mà nhìn cũng thích.” Roland xoáy một miếng. “Nếm lại càng tuyệt hơn. Cảm ơn chị.”
“Mời anh thưởng thức.” Kim liếc mắt nhìn, khiến anh làm theo, lúc Brooks tiến vào. “Xin chào, cảnh sát trưởng.” Lúc Kim ra hiệu về phía ô ghế trước mặt anh, Roland quyết định tăng gấp đôi tiền boa cho cô ấy.
“Tôi chỉ uống cà phê thôi.”
“Cậu chưa được nghe nói về món bánh anh đào rồi. Tôi có thứ bánh ngon đến mức không ai từ chối được đâu.” Cô ấy nháy mắt với Roland lúc nói câu đó, và anh tán thưởng bằng cách xắn một miếng bánh thật bự.
“Giờ thì với tôi chỉ phí thôi. Đám luật sư.”
“Chậc, cưng à, như thế cần thêm hai muôi kem đậu vanilla phết lên bánh rồi.”
“Để lần sau. Tôi chỉ ghé vào làm một cốc cà phê thường thôi, và chút không gian hít thở để xem lại những ghi chép của mình.”
“Thôi được rồi. Đám luật sư của gã Blake hả?” Kim hỏi trong lúc rót cà phê.
“Đám mới. Harry thất nghiệp rồi, và nói riêng giữa chị với tôi, tôi nghĩ ông ấy đang sung sướng nhảy múa quanh đống lửa. Blake thuê một công ty tít tận miền Bắc.”
“Đám luật sư Yankee à?” Miệng Kim chu lại vẻ chế nhạo. “Tôi chả lấy làm lạ.”
“Toàn complet hiệu Armani và cặp xách hiệu Louis Vuitton thôi, như lời kể của trợ lý luật sư Big John Simpson đang nghiên cứu vụ việc này. Bọn họ nêu hết đề nghị này đến đề nghị khác. Lại còn muốn đổi nơi xử án. Thẩm phán không thích họ, cho nên mới thành chuyện.”
“Muốn tách ông ấy khỏi đây, khỏi nơi mọi người biết rõ thằng ranh Blake là cái giống khó chịu gì ấy mà.”
“Chẳng dám nói là tôi trách cứ họ. Nhưng ở đây hay ở sao Diêm vương thì sự thật vẫn cứ là sự thật thôi. Rắc rối là không phải lúc nào sự thật trước tòa cũng đầy đủ.”
Lùi lại một bước, Kim chống cả hai nắm tay lên hông. “Cậu không nghĩ nó sẽ thoát đấy chứ? Không thể được, sau tất cả những gì nó đã gây ra.”
“Tôi sẽ không nghĩ điều đó, bởi vì nếu nó thoát được vụ này thì lần sau, tôi biết chắc chắn vậy, nó sẽ giết ai đó thật.”
“Ôi, lạy Chúa, Brooks.”
“Xin lỗi chị.” Brooks giụi giụi đôi mắt mỏi mệt của mình. “Tôi nên mang cái tâm trạng dở hơi của mình trở lại đồn thôi.”
“Cậu cứ ngồi ngay đó và uống cà phê đi, và đừng để mấy chuyện này đè nặng lên mình.” Cô cúi xuống, hôn lên đỉnh đầu anh. “Cậu làm việc cừ lắm, và tất cả mọi người đều biết như vậy. Cậu chẳng làm gì quá chức trách của mình.”
“Có vẻ như tôi nên vậy. Mà thôi... chỉ uống cà phê thôi.”
“Cậu cứ kêu nếu muốn thứ gì khác.” Lắc lắc đầu, Kim bỏ đi, rót thêm cà phê cho Roland khi đi ngang qua.
Roland vẫn ngồi, ngẫm nghĩ. Chẳng có gì anh chàng cảnh sát nói khiến anh thấy sai cả. Chính anh cũng rất khinh thường “cái giống khó chịu” đó. Nhưng đúng như lời cô Kim khôn ngoan và tuyệt vời vừa nói, bạn không thể làm gì quá chức trách của mình.
Chức trách của anh là tìm ra bất kỳ điều gì có thể làm cho cán cân nghiêng về phía khách hàng.
Anh gần như bị nghẹn miếng bánh khi nhìn thấy vị khách bước vào.
Anh biết những thị trấn nhỏ bé miền Nam có thể sản sinh ra một số người đẹp, và theo quan điểm của riêng anh, phụ nữ miền Nam có cách riêng chăm sóc vẻ đẹp đó giống như hoa hồng trong nhà kính vậy. Có lẽ là do thời tiết, không khí, cơ hội được mặc những thứ trang phục mùa hè mỏng manh như những gì vị khách mới vào đang mặc. Có lẽ đó là một bí mật nào đó mà các bà mẹ truyền lại cho con gái mình.
Cho dù đó là gì thì nó cũng rất hiệu quả. Anh yêu vợ mình, và chưa bao giờ xao lòng trong suốt mười hai năm chung sống - hơn mười năm đeo nhẫn cưới trên tay. Nhưng một người đàn ông có quyền thỉnh thoảng tưởng tượng một chút khi người phụ nữ nóng bỏng nhất từng được sinh ra lọt thẳng vào tầm nhìn của anh ta.
Cô ấy uyển chuyển đi thẳng tới bàn của Gleason, lách người vào, như miếng bơ tan chảy trên chảo nóng.
“Không phải lúc thích hợp đâu, Sylbie.”
Trong thế giới của Roland, lúc nào cũng là lúc thích hợp dành cho Sylbie.
“Em chỉ có một câu hỏi. Em sẽ không định níu kéo anh hay làm gì kiểu như vậy. Em đã học được bài học của mình từ tháng Ba rồi.”
“Anh đánh giá cao điều đó, nhưng ở đây và lúc này thì rất không thích hợp.”
“Trông anh căng thẳng và mệt mỏi đủ thứ rồi. Em xin lỗi vì điều đó. Chúng ta từng là bạn bè cơ mà.”
Khi anh không nói gì, cô nhìn đi chỗ khác, phát ra một tiếng thở khiến cho bộ ngực cô phập phồng rất quyến rũ.
“Em nghĩ chúng ta không còn là bạn nữa, và có lẽ đó là lỗi của em. Em đã suy nghĩ rất nhiều kể từ lúc em hạ mình trước anh.”
“Chúng ta không nên nói chuyện đó nữa.”
“Với anh nói rất dễ, vì anh đâu phải là người đứng trần truồng ở đó.”
Trong thâm tâm Roland cảm thấy có lỗi với vợ mình.
“Đó là một sai lầm, và một phần việc đó là do anh đã không nói rõ với em. Em xin lỗi. Anh cũng xin lỗi em. Chúng ta hãy quên đi thôi.”
“Em không thể quên cho tới khi nào em biết rõ.”
“Biết điều gì?”
“Tại sao lại là cô ta mà không phải em? Vậy thôi. Em cần biết tại sao anh muốn ở bên Abigail Lowery - tất cả mọi người đều biết chuyện giữa hai người - mà anh không muốn ở bên em.”
Roland cũng rất muốn biết, và không chỉ vì gã khách hàng. Anh đã xem bức ảnh Lowery, và thấy cô ấy rất hấp dẫn, chắc chắn rồi. Xinh xắn, có lẽ thậm chí còn rất đẹp. Nhưng bên cạnh cô nàng Sylbie kiều diễm ư? Cô ấy không phải là món bánh anh đào.
“Anh không biết phải nói với em sao.”
“Chỉ cần cho em biết sự thật thôi. Cô ấy tuyệt vời khi ở trên giường hơn em sao?”
“Lạy Chúa.”
“Đó là chuyện không nên hỏi.”
Với một cử chỉ nôn nóng, cô hất mái tóc yêu kiều ra sau. “Em không định hỏi, cho dù em rất thắc mắc. Chỉ xin anh nói với em gì đó, được chứ, để em có thể hiểu được?”
“Cô ấy khiến anh thấy hạnh phúc. Khi anh ở bên cô ấy anh cảm thấy như thể đó đúng là nơi anh có mặt, nơi anh muốn có mặt. Và mọi thứ đều có ý nghĩa. Anh không biết tại sao người này lại phải lòng người kia, Sylbie ạ. Chỉ là cứ vậy thôi.”
“Anh yêu cô ta ư?”
“Anh yêu cô ấy.”
Cô trân trân nhìn mặt bàn một lúc. “Em nhấp một ngụm cà phê của anh được chứ?”
“Được.”
Cô cầm lên, nhăn nhó, đặt xuống như cũ sau khi nhấp một ngụm. “Anh lúc nào cũng uống quá ngọt.”
“Thói quen không tốt.”
“Anh đã từng yêu em chưa?”
“Anh từng muốn em. Có những lúc anh khao khát em như thể anh đang chết đói. Lần đầu tiên, chúng ta đều còn quá trẻ nên chưa hiểu biết. Lần thứ hai ư? Có lẽ cả hai chúng ta đều cùng cố gắng biết. Anh không thể làm cho em hạnh phúc. Em cũng không thể làm cho anh hạnh phúc. Và mấy chuyện thực sự liên quan cũng nào có ý nghĩa gì.”
“Ân ái có mà.”
Anh hơi bật cười. “Được rồi, về chuyện đó thì em đúng. Nhưng chuyện ân ái, dù có hay đến mấy, đâu phải là sự khởi đầu, kết thúc hay toàn bộ vấn đề.”
“Em nghĩ mình đã lường được điều đó sau cuộc lỵ hôn đầu, nhưng chắc em đã không làm được. Và lần thứ hai... em chưa bao giờ muốn trở thành một phụ nữ từng ly hôn hai lần.” Cô ngoảnh đi nhìn đăm đăm ra ngoài ô cửa sổ lớn. “Nhưng em lại như vậy.”
“Có lẽ em nên nghĩ đấy là hai lần kết hôn. Anh thấy những người kết hôn nhiều hơn một lần đều là những người lạc quan.”
“Lạc quan.” Với nụ cười nửa miệng, cô đẩy cốc cà phê về lại phía anh. “Nghe ổn hơn là một kẻ thua cuộc.”
“Em không phải kẻ thua cuộc, Sylbie.”
“Em sắp hẹn hò Grover.”
“Em... ôi.” Brooks nhấc cốc cà phê của mình, uống một ít. “Chà.”
“Em biết. Anh ấy không phải loại người em thường nhắm đến. Anh ấy không điển trai, và anh ấy còn hơi phệ. Nhưng ở anh ấy có sự ngọt ngào rất riêng. Anh cũng vậy, nhưng em không cảm nhận được rõ ràng. Em cảm nhận rõ ràng điều đó ở anh ấy. Bọn em chưa ngủ với nhau, nhưng em cảm thấy ổn khi em ở bên anh ấy. Em cảm thấy tốt hơn về chính mình. Em đoán bọn em là bạn bè theo cách mà anh và em chưa bao giờ có được.”
“Vậy tốt quá.”
“Anh ấy làm cho em hạnh phúc, điều em không nghĩ mình có được. Em nghĩ em sẽ biết được liệu mình có hạnh phúc không.”
“Anh mong em hạnh phúc.”
“Em cũng mong anh vậy.” Cô đi ra. “Em không nghĩ mình đã sẵn sàng chúc phúc cho anh với Abigail Lowery, nhưng em làm được vậy rồi.”
“Bắt đầu vậy là tốt rồi.”
“Em sẽ gặp anh sau.”
Cô hối hả đi ra. Roland quyết định rằng mình có rất nhiều việc cần làm, nhưng vì anh đã ăn xong suất bánh nên anh cần thực hiện ở chỗ khác. Dù sao, anh chàng Gleason cũng sắp ra về, đặt tiền trên mặt bàn để trả cho cốc cà phê.
Có lẽ anh sẽ lái xe về phía nhà Lowery, tìm hiểu về nơi đó.
***
Giải lao một chút sau lúc làm việc, Abigail lướt qua một lượt các công thức món ăn trên mạng. Việc đó khiến cô bớt lo lắng. Gần như khiến cô không còn lo lắng. Cô biết Brooks rất muốn nói chuyện về những dự định tiếp theo khi anh đến đây. Cô lo lắng về những thứ mà anh nghĩ sẽ xảy ra.
Cho nên cô làm việc, giặt giũ, nhổ cỏ trong vườn, làm việc, xem các công thức nấu ăn. Dường như cô không thể ngồi yên, tập trung vào một việc cho tới khi cô hoàn thành.
Không còn là cô nữa.
Cô mong anh đến.
Cô mong mình được một mình.
Cô mong mình biết những gì mình thực sự mong ước. Cô ghét cái tình trạng do dự này, cái tâm trạng bồn chồn gặm nhấm. Chẳng được tích sự gì.
Khi hệ thống báo động của cô lên tiếng, cô xoay ghế, đinh ninh rằng việc kể với Brooks - kể với bất kỳ ai - câu chuyện ấy sẽ đưa bọn Volkov tới cửa nhà cô.
Phi lý. Thực ra là kỳ cục, cô thừa nhận, nhưng tim cô vẫn đập thình thịch khi cô nhìn thấy một người đàn ông đội mũ hiện ra trên màn hình của mình.
Máy ảnh rất tốt, cô nhận ra ngay. Đôi giày cao cổ thấy đã sờn. Một cái ba lô.
Một người đi bộ hay du khách đi lang thang đúng đất của cô, bất chấp đã có biển thông báo. Có lẽ là vậy.
Khi anh ta rút ống nhòm ra, chĩa thẳng vào căn nhà gỗ của cô, tâm trạng lo ngại càng tăng.
Gã là ai? Gã đang làm gì?
Đang tiến lại gần. Gần hơn nữa.
Anh ta lại dừng bước, lia cặp ống nhòm nhỏ gọn một lượt, xoay thật chậm cho tới khi Abigail thấy dường như anh ta đang nhìn chòng chọc thẳng vào một chiếc máy quay. Rồi anh ta lại tiếp tục, tiếp tục xoay tròn.
Anh ta tháo mũ, vuốt sạch tóc trước khi móc ra một chai nước và uống ừng ực. Thò tay vào túi, anh ta móc ra một chiếc la bàn, bước một bước, vấp chân. Anh ta lần mò tìm chiếc la bàn, đánh rơi nó. Cô nhìn thấy mồm anh ta cử động khi anh ta vớ được nó, nhặt vội nó lên khỏi mặt đất.
Anh ta lắc nó, ngửa mặt lên nhìn trời, sau đó ngồi xuống đất, gục đầu xuống gối.
Anh ta cứ nguyên như thế một lúc rồi mới đứng lên. Anh ta lau mặt, rồi tiếp tục đi về phía căn nhà gỗ của cô.
Sau khi kiểm tra súng ống, Abigail dắt chó ra ngoài, đi vòng quanh.
Cô nghe rõ tiếng anh ta đến gần. Cách tiếp cận của anh ta không có gì vụng trộm, cô nghĩ thầm, và anh ta đang lầm bầm với mình, hơi thở nhanh, nặng nề. Từ bên hông nhà kính cô quan sát anh ta xuất hiện, nghe thấy anh ta nói, rất rõ, “ơn Chúa,” rồi anh ta tiến thẳng về phía cửa sau nhà cô.
Anh ta gõ cửa, lau mồ hôi trên mặt, chờ đợi. Anh ta lại gõ cửa, mạnh hơn. “Xin chào! Có ai ở đó không? Làm ơn, phải có ai ở đó chứ.”
Anh ta rời khỏi hiên, khum tay nhìn vào kính cửa sổ.
Và cô bước ra, chú chó ngay bên cạnh. “Anh muốn gì?”
Anh ta nhảy bật lên như thỏ, xoay phắt lại. “Ôi trời, cô làm tôi hết hồn...” Đôi mắt anh ta mở to khi nhìn thấy khẩu súng, và hai tay anh ta giơ thẳng lên trời. “Lạy Chúa, xin đừng bắn tôi. Tôi bị lạc. Tôi lạc đường. Tôi chỉ đang tìm đường trở lại chỗ xe hơi của mình.”
“Anh đang làm gì trong rừng, trên đất của tôi vậy? Có thông báo rất rõ ràng mà.”
“Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi. Tôi đang chụp ảnh. Tôi là nhiếp ảnh gia. Tôi chỉ đang đi chụp vài bức ảnh, cảm nhận mọi thứ, và tôi mải mê quá nên đi xa hơn dự định. Tôi xin lỗi, tôi không nên phớt lờ những biển báo cấm vượt qua. Cô có thể gọi cho cảnh sát. Chỉ xin đừng bắn tôi. Tôi - tên tôi là Roland Babbett. Tôi trọ trong Quán trọ Ozark. Cô có thể kiểm tra.”
“Làm ơn tháo ba lô của anh ra, đặt xuống, bước lùi ra xa.”
“Được được.”
Anh ta không mang theo súng - cô đã nhìn anh ta xoay trọn một vòng và thừa sức nhận ra súng. Nhưng có thể anh ta giấu súng trong ba lô.
“Cô có thể giữ cái ba lô,” anh nói lúc đặt nó xuống. “Ví của tôi trong đó. Cô có thể giữ tiền.”
“Tôi không cần tiền của anh.”
“Nghe này, nghe này, tôi bị lạc. Tôi đánh rơi la bàn và làm nó bị vỡ. Tôi nhìn thấy ngôi nhà gỗ qua ống nhòm lúc tôi quét một lượt. Tôi chỉ đến nhờ giúp đỡ. Xin hãy gọi cho cảnh sát giúp tôi.”
“Anh để xe của mình ở chỗ nào?”
“Nếu biết tôi đã không bị lạc. Tôi không định lừa gạt đâu,” anh ta nói thêm thật nhanh. “Tôi lái xe ra khỏi Bickford, đi về phía nam thị trấn khoảng một dặm, sau đó tôi đi bộ. Ánh sáng rất tốt, cả các bóng râm nữa. Tôi muốn làm vài phát. Ý tôi là ảnh ấy,” anh ta nói, mắt dè chừng nhìn khẩu súng.
“Anh nên tôn trọng đất tư.”
“Vâng, cô nói đúng. Tôi rất xin lỗi.”
Cô chỉ tay. “Nếu anh đi lối đó, anh sẽ ra đến đường. Rẽ trái. Anh sẽ tìm thấy xe mình sau khoảng một phần tư dặm nữa.”
“Vâng. Cảm ơn cô. Tôi chỉ...”
“Cấm lấy ba lô của anh,” cô bảo anh ta lúc anh ta vừa rời khỏi hiên mà không mang theo ba lô.
“Vâng.” Anh ta nhặt ba lô lên, mắt anh ta rời khỏi khuôn mặt cô, hướng về khẩu súng, về con chó. “Cảm ơn cô.”
“Không có gì.” Cô nhìn anh ta đi khỏi, rất vội vã, cho tới khi anh ta khuất bóng. Trở vào trong nhà, cô tiếp tục nhìn anh ta trên màn hình khi anh ta thất thểu theo con đường cô chỉ ra phía đường cái, cứ vài phút lại ngoái nhìn đằng sau.
Cô đã làm cho anh ta sợ, cô nghĩ thầm. Chà, anh ta sợ cô. Cô cho rằng như thế cũng phải.
Roland biết chính xác xe mình đậu ở đâu.
Anh không ngờ đến khẩu súng. Anh cũng không ngờ đến những chiếc máy quay. Anh nghe nói cô có hệ thống an ninh, bao gồm các máy quay quanh nhà. Chẳng ai đề cập rằng cô còn bố trí tít tận trong rừng.
Nếu anh không phát hiện thấy một cái thì anh đã làm hỏng việc.
Cô ấy đã trang bị quy trình làm những người lạc đường chết khiếp. Sao lại không chứ? Anh đã chết khiếp. Cô ấy cầm khẩu Glock giống như người biết cách sử dụng. Như người sẽ sử dụng.
Anh phải thừa nhận rằng, cho đến giờ anh vẫn chưa làm hỏng việc.
Còn con chó nữa. Anh có nghe nói về con chó, nhưng trời ạ, nó đúng là to quá chừng.
Rồi còn những ổ khóa ở cửa sau nữa. Chúng rất chắc chắn, anh ngẫm nghĩ trong lúc nhét ba lô vào ghế sau. Anh rất thạo dùng dụng cụ mở khóa, nhưng anh chưa bao giờ phải dùng đến. Điểm đáng bàn đấy, và anh không thể xử lý được các máy quay, không thể nếu không có đầy đủ trang thiết bị.
Hệ thống an ninh rất đầy đủ? Quá đủ.
Công việc giờ thú vị hơn nhiều. Có phải ai cũng có hệ thống an ninh như thế, với con chó to lớn, khẩu Glock, thái độ đó đâu?
Cô ấy có gì đó phải che giấu. Anh rất thích tìm cho ra những gì người ta muốn giấu giếm.