← Quay lại trang sách

Chương 6 (tt)

35

Đến chiều hôm sau, tôi đã hết sốt và cảm lạnh, nhưng phải mất thêm ba hôm nữa thì mới thực sự bình phục.

3 giờ chiều Chủ nhật, ngày 13 tháng Mười hai. Tôi từ từ ngồi dậy, xuống giường, đi ra khỏi nhà.

Từ tiền sảnh Lục Ảnh Trang, con đường nhỏ ở sân trước hướng về phía Bắc. Sau đó chạy dọc theo tòa nhà rồi ngoặt một góc 90 độ, một cánh cửa xuất hiện trên bức tường phía bên phải. Đây là lối vào phòng 2-C. Trước khi cải tạo Lục Ảnh Trang thành nhà trọ, nó được coi là cửa sau.

Khi má con tôi mới chuyển về đây, ông già quản lý từng dẫn tôi đi xem một lượt. Tôi nhớ, phía bên kia cánh cửa là cầu thang dẫn thẳng lên tầng hai, bên cạnh cầu thang ở tầng một có đặt một cái giá, hình như để chặn cánh cửa dẫn ra hành lang.

Sau khi hỏi tôi được hai hôm thì Tsujii Yukihito đã nhanh chóng chuyển đồ xong.

Đi thêm mấy bước sẽ nhìn thấy một cái cửa nữa. Đây là lối vào phòng 1-D của ông Kizugawa.

Lối đi bỗng hẹp lại, lượn qua xưởng vẽ trước mặt, rồi tiếp tục trải dài về phía nhà chính. Tôi lững thững bước trên đoạn đường rải sỏi nằm giữa bức tường cao màu trẳng và hàng rào sơn trà đã nở hoa.

Lát sau, không gian mở rộng ra, tôi đi đến đống đổ nát.

Móng vuốt ma lửa trong vụ hỏa hoạn cách đây một tháng vẫn còn để lại những vết tích sống động.

Căn nhà đổ nát, điêu tàn. Đám ngói rơi xuống trong cơn hỏa hoạn mang màu đen hoặc xám, chất thành đống trên mặt đất, được vây lại một cách sơ sài bằng cọc và dây thừng. Mặt đất đầy mảnh thủy tinh. Chẳng biết còn bao nhiêu cây cột sót lại sau đám cháy. Đường ống nước bò trên bức tường đã đổ sập. Cây trong vườn cháy sém, thân và lá đổi màu vì ngọn lửa.

Hiện giờ, tôi chưa có ý định sửa chữa lại nhà chính nên vẫn để y nguyên. Mới sửa qua loa chỗ giao nhau giữa hành lang nơi có cánh cửa dẫn vào xưởng vẽ và hành lang thông sang Lục Ảnh Trang mà thôi.

Tuy nhiên cũng chẳng thể bỏ mặc thế này mãi được.

Hình như hàng xóm có sang gặp vợ chồng bác quản lý Mizujiri ca thán rằng lũ trẻ chạy vào đống đổ nát chơi sẽ nguy hiểm, chủ nhà nên nghĩ cách… Do vậy, đành phải đóng cánh cửa sắt bên này, còn phải tròng thêm xích để không ai ra vào được.

Tôi vừa đưa mắt nhìn khung cảnh ảm đạm ở khoảnh sân phía bên kia đống đổ nát vừa chầm chậm bước tiếp. Con đường xuyên qua những hàng cây, dẫn đến lối đi lát đá từ cổng vào tiền sảnh.

Tôi thấy chiếc xe đạp nằm trong đống đổ nát, khung xe, càng xe bẹp rúm cong queo, yên xe cháy rụi chỉ còn trơ mấy cái lò xo. Tôi thở dài thườn thượt, trong đầu hiện ra hình ảnh thi thể má bị lửa thiêu đen.

Đi đến gần cánh cổng được buộc xích, tôi bất giác nhìn vào hòm thư, bên trong trống không. Hiện giờ, thư gửi cho tôi đều đưa sang bên Lục Ảnh Trang.

Đúng lúc này…

Tôi tình cờ nhìn xuống và thoáng thấy một vật gì đó trên mặt đất.

Gì thế?

Trên đám cỏ khô vàng cạnh trụ cổng màu xám có một thứ trăng trắng.

Là… bức thư?

Tôi cúi xuống nhặt lên, đúng như tôi đoán, đó là chiếc phong bì màu trắng nhưng đã lấm lem. Nó bị rơi từ hòm thư xuống chăng? Rồi cứ thế nằm trong đám cỏ mà cả tôi và má đều không phát hiện ra.

Phong bì đề người nhận là: Cậu Hiryu Soichi.

Thư gửi cho tôi, ghi địa chỉ cũ của tôi ở thành phố Shizuoka, rồi dùng bút bi đỏ gạch bỏ, viết lại địa chỉ hiện nay. Có vẻ thư này được chuyển từ bưu điện Shizuoka đến đây.

Nó đã hứng chịu đủ gió mưa bụi bặm trong đám cỏ trên mặt đất, chữ ở mặt trước nhòe nhoẹt.

Khi lật mặt sau phong bì màu trắng để nhìn họ tên người gửi, tôi hơi ngạc nhiên vì thấy dòng chữ: Shimada Kiyoshi, số nhà 5… thành phố O tỉnh Oita. Tên đường quá nhòe nên không đọc được.

Anh Shimada…

Một cái tên đầy hoài niệm.

Ra viện. Chuyển nhà. Gặp lại Kakeba Hisashige. Má Sawako mất. Tôi vướng vào vô số chuyện nên gần như đã quên mất cái tên này.

Tôi lập tức mở phong bì. May sao, bức thư bên trong vẫn nguyên vẹn.

Gửi cậu Hiryu Soichi,

(Lược bỏ một đoạn)

Cách đây mấy hôm, tôi nhận được thư của bác gái, cho biết cậu đã bình phục và ra viện. Thật mừng vì không còn gì đáng ngại nữa.

36

Lúc sẩm tối, tôi đến quán Lai Mộng.

Gió lạnh vù vù thổi, cây cành run rẩy, lá rụng đây đường. Bầu trời vẫn âm u lạnh giá, trông như sắp có tuyết rơi. Trái với cảnh sắc u ám này, phố phường vẫn hết sức náo nhiệt chuẩn bị chào đón Giáng sinh. Khắp nơi đầy những cây thông được trang hoàng rực rỡ, trung tâm mua sắm tràn ngập màu sắc cùng giai điệu bài hát Jingle Bells.

Phụ huynh dắt tay con, các bà mẹ hoặc học sinh đi xe đạp, những cặp tình nhân trẻ… Có lẽ do tôi tưởng tượng thôi, nhưng mọi người trên đường đều có vẻ lo lắng, bất an. Tôi dựng cổ áo lên, thọc sâu hai tay vào túi, vừa nhìn xuống mặt đường vừa cắm cúi bước đi.

Đã một tháng không đến, bên trong quán Lai Mộng vẫn giữ được sự tĩnh lặng như mọi khi, tách biệt hẳn với vẻ nhộn nhịp bên ngoài. Chỉ có một thanh niên mặc áo jacket da màu đen đang ngồi bên bàn kê sâu trong góc.

“Hoan nghênh quý khách!” Giọng chủ quán cũng hệt như trước.

“Một cà phê.” Tôi nói rồi ngồi xuống chiếc bàn sát cửa sổ.

Chủ quán là người quen cũ của Kakeba, nên có lẽ anh ta cũng biết nỗi bất hạnh của gia đình tôi. Nhưng lúc bưng tách cà phê đến, anh ta không nhắc câu nào, chỉ nói, “Đã lâu không gặp cậu… Trời trở lạnh rồi đấy…” Tôi thật lòng cảm kích.

Hiếm thấy dịp nào quán lại mở bài hát tiếng Nhật như hôm nay. Tôi nhấp cà phê đắng ngắt, lặng lẽ ngồi, mắt lim dim.

Đầu óc trống rỗng. Khỏi cảm rồi nhưng tôi hiểu rất rõ, sức lực mình đã bị rút cạn.

Vẫn như xưa, biển người đông đảo

Ai ai cũng nở nụ cười tươi

Nhưng tại sao

Tại sao thành phố này

Lúc nào cũng cô đơn như vậy…

Tôi không chú tâm nghe nhưng lời bài hát cứ văng vẳng lọt vào tai. Giọng nữ hơi khàn. Hòa âm nghe như nhạc blues nhưng giai điệu lại trong trẻo kỳ lạ.

Thành phố cô đơn? Đúng, nó vẫn luôn cô đơn. Không những thế, đôi khi, nó còn vô cùng đáng sợ.

Ý nghĩ này bỗng chảy tràn trong tôi.

Vô số ánh mắt từ mọi phía.

Vô số ánh mắt của những người ngoài cuộc dán chặt vào tôi không rời, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Tôi tưởng tượng ra đủ thứ thái độ đằng sau, chế nhạo, khinh khỉnh, gườm gườm đối địch.

Mọi người tràn ra lối đi bộ, những hàng xe chen chúc tắc nghẽn… Sự đông đúc của thành phố luôn dẫn dụ tôi bước vào bóng tối vô tận. Chỉ chừng đó linh hồn thôi cũng đủ khiến mọi thứ ngột ngạt. Hẳn nơi đây vẫn có chút yêu thương, nhưng chắc chắn đa phần chỉ là thù hận. Tất cả đan xen chằng chịt khó bề tháo gỡ, tất cả tụ thành một hồ nước đen kịt. Ở đó, tôi chôn vùi đôi mắt đỏ ngầu của mình trong bất hạnh.

“Chào anh Hiryu!” Bỗng có người gọi, tôi bất giác mở mắt.

“Chào anh, anh còn nhớ em không?”

“Cô là…” Khi nhận ra cô gái mặc áo khoác màu lục sẫm đang đứng bên bàn, tôi kinh ngạc. “Em là… Michizawa thì phải?”

“Trí nhớ anh rất tuyệt! Thật khéo quá…” Michizawa Kisako nghiêng đầu nhìn tôi, “Em ngồi đây được không?”

“Đương nhiên là được. Mời em!”

Kisako cởi áo khoác, rồi ngồi xuống ghế đối diện với tôi. Dù trời lạnh, cô vẫn gọi một cốc trà đá.

“À, cảm ơn em chuyện hôm trước…” Tôi căng thẳng, chật vật nói. “Vì em đã đến viếng má tôi.”

“Vâng. Mới chỉ gặp nhau một lần nên em cũng thấy hơi ngại…” Kisako mặc áo len màu xanh nhạt, đôi mắt to tròn nhìn thẳng vào tôi. “Anh không sao chứ? Anh hãy mạnh mẽ lên. Anh Kakeba rất lo cho anh đấy.”

“Mấy hôm trước, cậu ấy cũng gọi điện cho tôi, rủ đến phòng nghiên cứu chơi, bảo đừng âm thầm ngồi nhà mãi… À, em có thường xuyên đến quán này không? Đã phải quay lại trường chưa?”

“Hôm nay là Chủ nhật mà.” Kỉsako mỉm cười, “Trường em cũng cho nghỉ rồi.”

“Nghỉ đông à?”

“Đúng ra từ ngày 20 mới chính thức được nghỉ.” Kisako tủm tỉm, “Nhưng các thầy cô đều lẳng lặng cho nghỉ sớm hơn.”

“À, ra thế.”

“Chủ nhật nào em cũng đến một trung tâm gần chùa Ngân Các để dạy thêm. Hôm nay xong việc, trên đường trở về em mới nhìn thấy quán này và nhớ ra anh Kakeba từng nhắc đến. Ngẫu nhiên thôi, nhưng lại khéo trùng hợp.”

“Cậu ấy vẫn ổn chứ?”

“Vẫn thế. Anh cứ thử đến phòng nghiên cứu mà xem, ba lần thì hai lần ngủ gật. Nhưng anh ấy luôn tự tin nói mình là nhà xã hội học. Đám học trò của anh ấy hóa ra lại dễ chịu! Thực ra, gần đây anh ấy rất phấn chấn, nói cuối năm sẽ đi du lịch.”

“Du lịch… đi trượt tuyết gì đó hả?”

“Làm gì có.” Cô cười, “Anh không cảm thấy anh ấy không thích hợp với trượt tuyết à? Chắc anh ấy sẽ đến vùng có suối nước nóng.”

Khi Kisako cười, má bên phải hiện ra lúm đồng tiền rất rõ, trông thật đáng yêu. Tôi ngượng nghịu nhìn ngắm mãi.

“Khu vực này gần đây hay xảy ra mấy chuyện đáng sợ.” Kisako đặt ống hút vào cốc trà đá vừa được đem ra, “Anh có xem bản tin hôm qua không? Lại thêm một vụ trẻ em bị sát hại ở khu Sakyo.”

“Thế à?” Tôi không đọc báo, căn phòng đang ở cũng không đặt ti vi, nên không biết tin này.

“Nghe nói lần này họ phát hiện ra cái xác ở khu rừng Yoshidayama gần trường bọn em. Đứa bé ấy cũng bị bóp cổ chết.”

“Vẫn là do một tên hung thủ gây ra sao?”

“Có vẻ như thế.”

Về sau, tôi đã tìm được tờ báo hôm thứ Bảy để xem. Nạn nhân là một bé trai học lớp Hai, tên là Horii Yoshihiko, mất tích từ sẩm tối thứ Hai, ngày mùng 7. Nguyên nhân tử vong là ngạt thở. Hung khí có dạng sợi nên được cho là bị thắt cổ.

“Nếu em nhớ không nhầm, vụ án mạng thứ hai xảy ra vào hạ tuần tháng Chín. Cảnh sát nhận định đó một vụ giết người hàng loạt nên đã gây chấn động ghê gớm. Vì thế, mọi người đều rất cảnh giác, hung thủ không thể tiếp tục ra tay. Cảnh sát cũng cho là như thế. Nào ngờ…” Kisako phồng má ra chiều phẫn nộ. Cô nói tiếp, “Anh Kakeba có vẻ cũng hứng thú với các môn học về hành vi lệch lạc chuyên nghiên cứu những tội phạm như vậy. Nói chuyện cũng toàn mấy bài phân tích. Nhưng em chẳng chịu nổi. Anh Hiryu nghĩ thế nào?”

“Tôi nghĩ thế nào ư?”

“Anh nghĩ thế nào về tên hung thủ? Em không thể hiểu đầu óc kẻ đó ra sao mà đi giết hại trẻ con vô tội, đúng là đồ thú vật, bệnh hoạn.”

“Quả là tàn nhẫn.”

“Nếu em là mẹ nạn nhân, em sẽ đích thân bắt hắn rồi giết phăng đồ khốn nạn ấy!”

Tôi bỗng liên hệ đến cảnh ngộ buồn thảm của mình và cúi đầu im lặng.

“Em xin lỗi nhé…” Kisako nhận ra tâm trạng của tôi, “Em đã gợi ra những điều nặng nề.”

Rồi cô tế nhị chuyển sang đủ thứ chuyện khác. Dường như cô rất thông cảm với tôi nên mới cố gắng khích lệ như vậy. Hai chúng tôi cứ nói chuyện mãi, rồi không biết từ lúc nào, tôi bị cuốn vào bầu không khí tràn đầy sức sống mà cô đem lại.

Chúng tôi nói về cuộc sống trong trường đại học, về quê hương của mình (Kisako, tôi, và Kakeba đều là đồng hương Shizuoka), chuyện về đám học trò ở trung tâm dạy thêm, bản nhạc đang phát trong quán cà phê.

Tôi vui vẻ lắng nghe, lim dim mắt ngắm nhìn khuôn mặt tươi vui của Kisako, thỉnh thoảng gật gù đồng ý hoặc hỏi đôi câu. Nỗi u ám trĩu nặng trong lòng dần tan biến.

Chính tôi cũng lấy làm lạ và ngạc nhiên với chính mình, tôi vốn rất sợ trò chuyện cùng các cô gái trẻ như Kisako kia mà?

Thật khó tin, tôi đang tận hưởng cuộc chuyện trò với tâm trạng thanh thản mà gần đây, đúng hơn là mấy năm nay tôi không có được.

37

Lúc ra khỏi quán Lai Mộng là 7 giờ tối. Tôi và Kisako đã trò chuyện với nhau gần hai tiếng đồng hồ.

Trời rét buốt, mặt đường cũng ẩm ướt. Gió lạnh thổi từ phía núi xa đem theo những vật thể màu trắng, những bông tuyết. Tuyết rơi.

Kisako đeo găng tay, hai bàn tay nhỏ nhắn đan vào nhau, cô bỗng nói là muốn xem tranh của tôi.

“Không vấn đề gì…” Tôi ngập ngừng đáp, “Nhưng… nên để lần sau, nếu có dịp, được chứ?”

“Sao phải thế?”

“Lúc này đã muộn rồi. Và em cũng vừa nói, gần đây vùng này không an toàn cho lắm.”

“Vẫn còn sớm mà!”

“Ký túc xá em ở có hạn chế giờ ra vào không?”

“Chỗ em ở không cấm đoán gì. Nơi đó cũng gần nhà anh, chỉ mất mươi phút đi bộ là về đến nơi. Chúng ta cứ nên tiến hành thôi.”

“Nhưng đến nhà một người lạ như tôi, em không sợ gặp nguy hiểm à?”

“Sao có thể? Anh Hiryu, anh đâu phải nhân vật nguy hiểm, đúng không?”

“Sao tôi biết được?”

“Anh tuyệt đối không phải hạng người đó! Nói chuyện với anh một lúc là biết ngay. Trông thế này thôi nhưng em nhạy bén lắm đấy.” Kisako tự tin đáp, cô còn chìa tay hứng một bông tuyết rơi.

Tôi nhìn dáng vẻ ngây thơ trong sáng của Kisako mà cõi lòng không thể bình tĩnh nổi, ngập ngừng nói, “Thôi, để hôm khác thì hơn.”

Tôi chẳng có lý do gì để nhất định phải từ chối Kisako.

Chỉ là, nói có phần khoa trương nhưng tôi thực lòng chưa chuẩn bị tinh thần mời một cô gái trẻ đến nhà mình chơi.

“Thôi được! Nhưng anh đừng nói hai lời nhé…” Cô thất vọng đáp, “Hôm khác anh nhất định phải cho em xem tranh đấy.”

Hai chúng tôi sánh vai bước đi, tôi nghe cô kể về bàn thân.

Kisako từ nhỏ đã thích vẽ, cô từng định thi vào Đại học Mỹ thuật để học hội họa truyền thống Nhật Bản. Tuy nhiên, cô học các môn khác cũng rất xuất sắc, nên mọi người mới nói rằng thật phí phạm, cô có thể dễ dàng vào nhiều trường đại học danh tiếng hơn.

Cha mẹ cũng không tán thành Kisako đi học Mỹ thuật. Cha cô là giám đốc điều hành của một ngân hàng địa phương, ông rất ghét cô ‘đam mê nghệ thuật’. Rốt cuộc, dưới áp lực của họ, cô đã thay đổi nguyện vọng và thi vào khoa Văn Đại học K.

“Cho đến giờ, em vẫn hối hận vì mình đã quá yếu đuối.” Kisako than thở, “Tuy nhiên, em cũng không thật tự tin, em không nghĩ mình có năng khiếu về hội họa.”

“Năng khiếu chỉ là lời bao biện thôi.” Không hiểu sao tôi bất giác triết lý. “Hãy giỏi những thứ mình thích, tôi cảm thấy câu nói này chẳng bao giờ sai. Nếu thực sự ham hội họa, thì dù làm nghề khác ta vẫn vẽ được. Tranh của ta đẹp hay xấu đều là phán đoán của người ngoài. Sự đánh giá đó và bản chất của bức tranh là hai chuyện khác nhau. Cho nên, chỉ cần ta có đủ niềm tin rằng mình muốn làm điều mình thích là đủ rồi.”

Dù đây là ý nghĩ thường xuyên của tôi, nhưng chính tôi cũng bất ngờ vì mình lại nói được ra miệng một cách trơn tru như vậy.

“Anh Hiryu thì chắc chắn là có năng khiếu hội họa rồi. Chính anh Kakeba nhận xét thế mà!”

“Có năng khiếu hay không, chí ít cũng phải chờ xem tranh của tôi đã chứ?”

“Không, không, em không có ý đánh giá gì đâu…”

Sau đó cô ca ngợi cha tôi, Hiryu Koyo. Chắc cũng là do Kakeba Hisashige nhắc đến.

“Tôi không biết cha ra sao, chứ tôi thì rõ ràng chỉ là kẻ bỏ đi.” Tôi nói rất thật lòng. “Vô công rồi nghề, sử dụng tài sản của ông để thỏa mãn bản thân. Người ngoài nhìn vào chỉ thấy tôi là gã vô tích sự, ngần này tuổi mà vẫn độc thân, suốt ngày vật vờ. Đến giờ, tôi vẫn chưa tự tay kiếm nổi một đồng.”

“Kiếm tiền ư? Đó lại là chuyện khác.”

“Em nói thế là do đứng từ góc độ trân trọng nghệ thuật thôi.”

Tôi nhận ra mình đã quá gay gắt, và chợt thấy bứt rứt, giày vò.