Chương 6 (tt)
38
Tối hôm đó, sau khi chia tay Michizawa Kisako và quay lại phòng, tôi đem bức thư tìm thấy bên dưới hòm thư ra đọc lại lần nữa.
Đúng như trong thư viết, lần gần nhất tôi và anh gặp nhau là vào mùa thu năm ngoái, cuối tháng Chín hoặc đầu tháng Mười. Anh từ Kyushu đến thăm khi tôi đang nằm viện.
Shimada Kiyoshi.
Là bạn thời đại học, nhưng anh ấy học chuyên ngành Tôn giáo hay gì đó ở trường khác chứ không phải bạn cùng trường Đại học Mỹ thuật M với tôi. Chúng tôi quen nhau vì tình cờ ở cạnh phòng trong một nhà trọ. Shimada Kiyoshi học trên tôi ba khóa, quan hệ giữa hai chúng tôi giống như đàn anh và đàn em hơn là bạn bè. Khi mới quen, tôi cảm thấy anh ấy là người rất kỳ lạ.
Shimada Kiyoshi không mấy chăm chỉ học hành, nhưng cũng không hay đi chơi lung tung. Anh luôn có dáng điệu nhàn nhã, tò mò hiếu kỳ, uống được rượu, hay nói chuyện, kiến thức rộng, hiểu sâu về tiểu thuyết trinh thám, ảo thuật và các hiện tượng siêu nhiên. Khi nói chuyện, dù bị lạc sang đề tài khác thì lát sau anh ấy vẫn cứ trở lại được lĩnh vực mà mình ưa thích. Điều này tôi cũng đã quen.
Lúc mới tiếp xúc, tôi thấy thấp thỏm e ngại nhưng chẳng bao lâu, hai chúng tôi đã trở nên thân thiết. Tôi nghĩ, từ ‘tình bạn’ chưa đủ diễn tả hết bởi tôi có cảm giác Shimada Kiyoshi là chỗ dựa tinh thần của tôi.
Nói thẳng ra thì hồi học đại học, khi mới sống một mình tại Tokyo, tôi thấy rất cô đơn và khổ sở. Khắp thành phố khổng lồ là vô vàn ánh mắt xa lạ, khiến thần kinh của tôi căng như dây đàn. Khi ấy, thể chất tôi còn tệ hơn bây giờ, hay đau ốm và thường ngủ mê mệt.
Hồi đó, chính Shimada đã giúp đỡ tôi như người nhà, chăm sóc khi tôi yếu mệt. Giống như một người anh trai vậy.
Anh ấy từng nghỉ học một năm và mất khá nhiều thời gian để tốt nghiệp. Cho nên, khi tôi tốt nghiệp rồi đi khỏi Tokyo thì Shimada Kiyoshi cũng trở về quê hương ở tỉnh Oita thuộc Kyushu. Chúng tôi không liên lạc thường xuyên nhưng hàng năm có viết thư qua lại. Anh ấy cũng từng đến Shizuoka chơi vài lần.
Mùa thu năm ngoái, Shimada đến thăm tôi sau chừng ba năm không gặp mặt. Trông anh ấy chẳng khác gì hồi còn đang đi học.
Shimada nói mình tự lái xe đến. Bước vào buồng bệnh nhân, mắt đeo cặp kính râm Rayban, thân hình dong dỏng cao, khuôn mặt hơi gầy, ngăm ngăm đen y như tôi. Nhưng khác với tôi, đôi mắt sâu của anh trong sáng như thiếu niên.
Thư viết ngày 30 tháng Sáu. Tức là bức thư này đã nằm trên đám cỏ bên dưới hòm thư chừng nửa năm trời
Tôi không biết rằng má đã báo tin tôi xuất viện cho anh. À không, hình như sau khi ra viện và trước khi chúng tôi chuyển về đây ở, bà có nhắc qua. Không hiểu sao tôi lại quên báo với anh tình hình của mình và gửi địa chỉ mới nữa.
Vẫn là cách viết của Shimada, rất chân thành, tình cảm. Chỉ hiềm…
Đúng thế, chỉ hiềm, có một nội dung trong thư khiến tôi bắt đầu suy nghĩ linh tinh. Đó là…
Cứ như thể tôi được Thần Chết chiếu cố… À, không phải. Tôi cho rằng không phải Thần Chết chiếu cố tôi, mà chiếu cố đến mấy tòa ‘Quán’, tất cả đều là tác phẩm của cùng một vị kiến trúc sư.
Vị kiến trúc sư đó là Nakamura Seiji.
Tôi nhớ lại cuộc trò chuyện hôm ấy, khi anh Shimada đến buồng bệnh thăm tôi.
Ông kiến trúc sư kỳ dị được nhắc đến ở đây là anh trai một người bạn của Shimada.
Mùa thu năm kia, ông ta chết trong căn nhà do chính mình thiết kế và xây dựng trên hòn đảo nhỏ có tên Tsunojima thuộc địa phận tỉnh Oita.
Nửa năm sau, trong Thập Giác Quán, một kiến trúc kỳ quái cũng xây trên hòn đảo đó, lại xảy ra một vụ giết người hàng loạt. Và rất ngẫu nhiên, Shimada cũng bị cuốn vào sự kiện này.
Tiếp đó, Shimada hào hứng kể lại một vụ án khác trên chặng đường từ Kyushu đến Shizuoka.
Đó là án mạng xảy ra trong công trình kiến trúc kỳ lạ cũng do Nakamura Seiji thiết kế, có tên ‘Thủy Xa Quán’. Chủ nhân của công trình ấy, Fujinuma Kiichi, là con trai của họa sĩ danh tiếng Fujinuma Issei.
Tôi bèn nói với Shimada rằng, họa sĩ Fujinuma Issei quá cố là bạn thân của Hiryu Koyo cha tôi, Shimada nghe vậy thì không giấu được vẻ ngạc nhiên. Rồi anh nói rất nghiêm túc rằng, anh cảm thấy mấy tòa ‘Quán’ do kiến trúc sư Nakamura Seiji thiết kế và những ai liên quan đến chúng (kể cả anh) đều vướng vào bất hạnh.
Kiến trúc sư Nakamura Seiji.
Gần đây, tôi có nghe đến cái tên này. Khoảng hai tháng trước, khi má nấu nồi lẩu mời mọi người cùng ăn tối.
'… Anh có nghe nói về ông Nakamura Seiji không?' Tsujii Yukihito đưa ra câu hỏi này.
'Nhưng nếu Nhân Hình Quán cũng là tác phẩm của ông ta thì anh cảm thấy có ý nghĩa gì không?'
'Nơi này… cũng là do Nakamura Seiji xây dựng ư?'
'Không phải vậy sao? Tôi từng nghĩ, có lẽ nơi này liên quan đến ông ta. Ông Hiryu Koyo cha anh vốn rất thân với họa sĩ Fujinuma Issei, đương nhiên cũng biết con trai của ông ta. Biết đâu khi cải tạo lại khu nhà, ông ấy đã ủy thác cho kiến trúc sư Nakamura Seiji thiết kế.'
Mấy lời tán nhảm khi hơi men vào. Đương nhiên chúng khiến tôi nhớ đến câu nói của Shimada Kiyoshi hồi nọ.
Đúng như Tsujii nói, từ mối liên hệ giữa Koyo cha tôi và Fujinuma Kiichi, người xây dựng Thủy Xa Quán, dễ dàng suy ra rằng cha tôi cũng biết kiến trúc sư Nakamura Seiji. Cách đây hai mươi tám năm, ông nội Takenaga mất, cha tôi thừa kế tài sản, biết đâu đã giao cho kiến trúc sư Nakamura Seiji cải tạo nhà mình. Có thể lắm chứ!
Nếu đúng thế thì…
Thì sẽ ra sao?
Khu nhà này sẽ là một trong những tòa ‘Quán’ của Nakamura Seiji, nơi được Thần Chết chiếu cố giống như Shimada đã nói chăng?
Đúng vậy rồi!
Cha tôi treo cổ tại đây. Má Sawako chết vì hỏa hoạn. Và giờ, có kẻ giấu mặt đang định ám hại tôi.
Phải! Đúng thế!
Khu nhà được Thần Chết chiếu cố. Khu nhà mời gọi những điều bất hạnh… Nhân Hình Quán.
Tôi nhìn lại bức thư vẫn cầm trên tay. Những dòng chữ bằng mực xanh viết cheo chéo ở góc bên phải. Khuôn mặt ấn tượng của anh bỗng hiện ra trước mắt.
Giá như lúc này anh đang ở bên tôi…
Tôi chân thành cầu mong như thế.
39
Chiều hôm sau, thứ Hai ngày 14 tháng Mười hai.
Tôi quyết định liên lạc với Shimada Kiyoshi.
Trong cái rủi vẫn có cái may, phòng chứa đồ không bị lửa lan đến. Tôi mở ngăn kéo lấy cuốn sổ tay ghi địa chỉ và số điện thoại của người quen. Tìm thấy rồi, tôi gom một nắm tiền xu, chạy ra đại sảnh, nhét vào máy điện thoại màu hồng.
Tôi ít khi chủ động gọi điện cho ai, lâu nay vẫn vậy. Thời đại học, kể cả các bạn thân, nếu không có việc gì hệ trọng, tôi cũng hiếm khi liên lạc.
Hôm nay, lần đâu tiên tôi gọi điện đến nhà Shimada. Tôi vừa nhìn kỹ số điện thoại ghi trên sổ tay, vừa lóng ngóng quay số.
Ai sẽ nhấc máy đây? Nếu là Shimada thì tốt. Nếu là người chưa từng gặp mặt, như cha hoặc anh chị em của Shimada thì…
Tôi cố nén hồi hộp trong khi tiếng chuông đợi máy theo nhau vang lên.
“Xin chào! Tôi là Shimada.” Đầu dây bên kia truyền đến một giọng nam giới khàn khàn mà tôi không biết.
“Xin… Xin hỏi…” Tôi chắc chắn giọng của mình chỉ như tiếng muỗi vo ve, “Xin hỏi… Anh Kiyoshi có nhà không ạ?”
“Hả? Anh nói gì?”
“À… Tôi tìm anh Kiyoshi.”
“Kiyoshi à? Cậu là ai?”
“Tôi là Hiryu.”
“Cậu Hiryu? Xin lỗi nhé, Kiyoshi không có nhà.”
“Thế thì… Khi nào anh ấy về?”
“Có trời mới biết! Mấy hôm trước nó nói là sẽ đi du lịch, sau đó lặn mất tăm, ra khỏi nhà là đi mất hút. Gần bốn chục tuổi đầu mà chẳng rõ đầu óc nó nghĩ gì nữa, suốt ngày vất va vất vưởng.”
Chắc là cha của anh ấy. Ông cằn nhân bằng chất giọng khàn khàn nhưng rất vang.
“Xin lỗi, cậu có việc gì cần gấp không?”
“Không ạ… Thôi vậy!” Tôi hoang mang trả lời rồi đặt máy xuống.
40
“Cuối buổi chiều mai em đến chơi nhà anh được chứ? Đằng nào cũng tiện đường em về nhà từ trung tâm dạy thêm.”
Michizawa Kisako gọi cho tôi vào tối thứ Bảy, ngày 19. Chắc Kakeba Hisashige đã cho Kisako số điện thoại của tôi.
“Lần trước, anh nói là hôm khác sẽ cho em xem tranh của anh, anh quên rồi à?”
Tôi bối rối trả lời rằng mình không quên. Cô thản nhiên nói, giọng cứ nhẹ như không, “Vậy thì ngày mai anh có dự định gì không?”
Đương nhiên tôi chẳng có dự định gì, vẫn lầm lũi ngồi nhà giết thời gian. Vòng giao thiệp vẫn loanh quanh ở vợ chồng bác Mizujiri hoặc mấy người khách trọ.
Do dự một lúc, thực ra cũng không cần thiết phải do dự, rốt cuộc tôi đã đồng ý với Kisako. 6 giờ tối ngày 20 sẽ gặp nhau ở quán cà phê Lai Mộng.
41
Tối Chủ nhật, tôi đưa Kisako về Lục Ảnh Trang. Đúng như tôi dự đoán, Kisako phát hoảng khi nhìn thấy ma nơ canh bày ở góc hành lang.
“Thấy sợ hả?” Tôi nhớ mình từng hỏi câu này một lần khi Kakeba Hisashige đến chơi hồi cuối tháng Mười.
“Các chỗ khác trong nhà anh cũng có những hình nhân không mặt như thế này à?” Kisako hỏi, “Buổi tối chạm trán chúng, anh không sợ sao?”
“Thoạt tiên thì rất sợ, nhưng dần dần sẽ quen. Các khách trọ chưa từng kêu ca gì.”
“Ra vậy!” Cô ngắm nghía một cách tò mò, “Anh Kakeba cũng cho rằng những hình nhân này rất kỳ lạ, và còn băn khoăn tại sao chúng lại không có mặt, hoặc thiếu một bộ phận nào đó. Tại sao lại thế, anh Hiryu?”
“Tôi cũng không biết.”
Hai chúng tôi đi qua trước mặt cô nàng thiếu thân trên. Đúng lúc này, cậu nghiên cứu sinh Kuratani Makoto từ phòng 1-C bước ra.
“Xin… xin lỗi! Chào anh chị.” Thấy tôi đi cùng một cô gái trẻ, Kuratani Makoto rất kinh ngạc, lúng túng đảo mắt đi nơi khác, cứ như là ‘trót nhìn thấy cảnh tượng không nên nhìn’.
“Chào cậu!”
Tôi đáp lại, rồi hai chúng tôi tiếp tục bước đi. Đến chỗ ngoặt ở cuối hành lang, tôi mới nói cho Kisako biết Kuratani đang là nghiên cứu sinh ở Đại học K.
“Em cũng vừa nghĩ anh ấy có vẻ là một nghiên cứu sinh.” Kisako tủm tỉm cười, má phải hiện ra lúm đồng tiền rất rõ. “Phần lớn các nghiên cứu sinh nam trường em đều khiến người ta có cảm giác này.”
Tôi gật đầu, không hỏi cảm giác này là cảm giác gì.
Cánh cửa thông sang nhà chính vẫn đang khóa. Đêm xảy ra vụ cháy, tôi đã chạy ào ra ngoài khi cảm thấy có chuyện bất thường. Chìa khóa cửa này và cửa xưởng vẽ nhét trong túi áo ngủ nên vẫn còn nguyên.
Hai chúng tôi bước sang hành lang nhà chính rồi đi về phía xưởng vẽ. Những chỗ bị cháy sập xuống đã được bịt lại bằng gỗ ép và tôn để tránh gió mưa hắt vào. Tình trạng trông rất thê thảm.
“Đây là xưởng vẽ của tôi.” Tôi vừa nói vừa chỉ vào cánh cửa.
Kisako thỉnh thoảng lại liếc nhìn hình nhân không đầu đặt cuối hành lang, may sao nó không bị bén lửa, cô ngạc nhiên, gật đầu.
Không kể má thì đây là lần đầu tiên có một phụ nữ bước vào xưởng vẽ của tôi.
Căn phòng rộng, hơi âm u. Mùi màu dầu và bụi bặm như xộc vào mũi. Trước khi đón tiếp Kisako, tôi đã thu dọn sơ sơ nhưng vẫn rất bừa bộn.
“Lạnh thật! Để tôi bật lò sưởi.” Với tâm trạng hồi hộp của một thiếu niên lần đầu tiên mời bạn gái đến chơi nhà, tôi nhanh chóng châm lò sưởi rồi mời Kisako ngồi xuống ghế.
“Em muốn uống gì không?”
“Không cần đâu! Anh đừng bận tâm.”
Hai tay đi găng đan vào nhau, Kisako bước đến giữa căn phòng rồi tò mò ngó nhìn khắp lượt.
“Tranh vẽ hồi trước, khi chuyển về đây ở tôi đã bỏ đi hoặc cất vào phòng chứa đồ. Nên chỗ này đều là tranh mới vẽ nửa năm trở lại đây.” Tôi giải thích khi Kisako đang ngắm nghía.
Các bức tranh lớn nhỏ đủ kích cỡ treo rải rác trên tường. Liệu Kisako sẽ nhìn nhận thế nào về những phong cảnh kỳ lạ đó? Bản thân tôi thì cho rằng chúng rất kỳ quái.
Chắc chuyện này chẳng mấy quan trọng nhỉ?
Gần chục năm qua, tôi chưa từng để ai xem tranh của mình, thậm chí chưa từng nghĩ tới việc ấy.
Nên nói thế này, tác phẩm của tôi thể hiện thế giới nội tâm của tôi. Cho nên, dù người khác xem xong rồi nhìn nhận về chúng ra sao, với tôi cũng là vô nghĩa.
Kisako không phát biểu gì, cô chỉ im lặng đứng hoặc xa hoặc gần, từ mọi góc độ để ngắm mấy bức tranh. Lát sau, cô khẽ ‘ừm’ một tiếng rồi quay về phía tôi, hiện đang đứng trước lò sưởi, thận trọng hỏi, “Tranh của anh có đặt tên không?”
“Có vài bức đặt tên,” tôi đáp.
“Những bức tranh ở đây thì sao?”
“Tranh ở đây… Để tôi xem nào! Chỉ có bức tranh khổ lớn dựng cạnh giá sách có tên thôi.”
“Là gì vậy ạ?”
“Côn trùng thời gian.” Tôi nhíu mày đáp.
Bầu trời màu xanh lục, mặt đất màu tím than. Những thân cây nâu đỏ mọc thành rừng. Chính giữa bức tranh, một cái đầu nam giới nằm lăn lóc trên mặt đất. Trên khuôn mặt vàng vọt khô quắt là hai hốc mắt trống rỗng, đen kịt, một cái mũi bị đập gãy cùng khuôn miệng không có răng. Phần đầu hướng về phía trước bị phá nham nhở, ở bên trong nhìn thấy hình hài một thai nhi màu trắng xanh. Từ chỗ nó, tùng bầy sâu màu đỏ lúc nhúc tràn ra mặt đất.
Kisako hơi cau mày hỏi, “Côn trùng thời gian, nghĩa là gì?”
“Tôi không thể giải thích, em nghĩ thế nào cũng được.” Tôi vừa rút điếu thuốc ra vừa trả lời.
“Thế à? Nhưng, đúng là em thấy bất ngờ.”
“Nghĩa là sao?”
“Em vốn tưởng tượng, anh sẽ thể hiện gam màu nhạt, nhẹ nhàng, anh sẽ không dùng màu nguyên bản, chỉ dùng những sẳc tinh tế thôi.”
“Nói như em tức là tôi dùng màu hơi đậm, hơi gắt.”
Tôi bình thản đáp như thể chẳng phải chuyện của mình, “Em không thích lối vẽ này sao?”
“Cũng không phải không thích, nhưng… em nên nói thế nào nhỉ… có nhiều bức tranh trông thực kỳ lạ. Anh rất thích Dalí* phải không?”
“Nó đâu có giống Dalí.”
“Thế à? Em không sành hội họa nhưng các tác phẩm này đều vẽ theo trí tưởng tượng, đúng không?”
“Tạm cho là thế đi. Đương nhiên, rất lâu về trước tôi cũng từng vẽ nhiều tranh phong cảnh, chân dung và tĩnh vật. Thay vì nói đó là tưởng tượng thì nó gần giống với phong cảnh trong nội tâm hơn. Tôi cũng chẳng định gán cho những bức tranh của mình ý nghĩa gì đặc biệt cả.”
Những bức tranh kỳ quái. Có lẽ chính xác là như vậy.
Một người đàn ông bị đỉnh tòa tháp bằng đá đổ xuống đâm thủng lồng ngực.
Một con thú mặt người bị trói trên giá chữ thập bằng thủy tinh.
Kẹp giữa những tòa nhà chọc trời, một người phụ nữ đứng trong nhựa đường ngập đến thắt lưng.
Một con chó to đang ngoạm một đứa trẻ sơ sinh.
Một ông già bị sợi thừng từ trên trời rơi xuống tròng vào cổ.
Kisako chăm chú ngắm từng bức tranh. Cuối cùng…
“Đây là…” Ánh mắt cô dừng lại ở bức tranh số 15 đang đặt trên giá vẽ, “Tranh này anh đang vẽ dở à?”
“Đúng vậy.”
“… Có phải đang vẽ… Nếu em nói nhầm, anh bỏ quá cho nhé… là những ký ức xa xưa mà anh từng kể với anh Kakeba phải không?”
“Đúng thế! Em biết khá rõ đấy!”
“Vâng. Em cũng biết chút ít…”
Đây là bức tranh tối qua tôi chợt nghĩ đến và bắt đầu vẽ.
Những khóm hoa bỉ ngạn đỏ rực. Gió thu. Bầu trời đỏ như máu. Hai vệt màu đen. Tiếng động ầm ầm đang dội về. Bóng của đoàn tàu giống như một con rắn lớn, giống như cái chết. Dòng nước chảy. Thằng bé con. Tiếng gọi mẹ.
Tôi cố gắng thể hiện vài hình ảnh đứt đoạn đang xao động trong lòng mình.
Nói vậy nhưng bức tranh vẫn chỉ là những đường nét bằng than chì chưa thành hình, thậm chí, bố cục chưa rõ ràng. Dù tôi có thể đoán nó liên quan đến vụ tai nạn tàu hỏa của mẹ Miwako tôi cách đây hai mươi tám năm, nhưng thật tình, giờ tôi cũng chưa biết mình nên vẽ một tác phẩm như thế nào và tiếp tục ra sao.
Kisako chỉ nhìn những nét phác họa sơ sài đã nhận ra chúng liên quan đến ký ức của tôi, đủ thấy cô rất có năng lực quan sát.
Kể từ đó, tôi đã nhiều lần cố nhớ lại, nhưng vẫn không thể nhớ thêm điều gì. Miền ký ức quá xa xôi, hệt như những mảnh nhỏ trong trò ghép hình. Nên tôi đành làm vậy, nhớ đến đâu thì vẽ đến đó.”
Tôi tâm sự với Kisako, và bỗng muốn kể ra mọi chuyện. Không hiểu tại sao tôi lại nảy ra ý nghĩ này, nhưng đúng là tôi rất muốn làm thế.
Những suy nghĩ của tôi về vụ hỏa hoạn cách đây một tháng cùng cái chết của má Sawako. Bức thư thứ hai do kẻ giấu mặt gửi đến. Chuyện về kiến trúc sư Nakamura Seiji mà anh Shimada từng kể cùng mối quan hệ giữa ông ta và Nhân Hình Quán này…
Những điều tôi nói với Kakeba khi đến phòng nghiên cứu của cậu ấy vào tháng trước, chắc Kisako cũng nghe thấy ít nhiều. Hoặc có lẽ sau đó Kakeba đã cho cô ấy biết thêm một số thông tin.
Giờ nghe câu chuyện của tôi, cô ấy sẽ phản ứng ra sao? Tôi cũng không cố suy nghĩ sâu xa làm gì.
Chắc cô ấy sẽ bảo tôi nên báo cảnh sát. Nhưng đến giờ, tôi vẫn chưa định làm vậy.
Hãy để sự việc diễn ra tự nhiên.
Đây là ý nghĩ rất thật của tôi.
Cứ nghe theo ông trời sắp đặt. Tuy nhiên…
Tôi không hề bận tâm mai kia sẽ có tai họa gì giáng xuống. Chỉ là…
Ký ức cắn rứt. Những cảnh sắc đã quá xa xôi.
Người viết thư khăng khăng giục tôi ‘Hãy nhớ lại đi!’ Những ‘tội lỗi’ và ‘hành vi xấu xa’ của tôi…
Tôi muốn nhanh chóng kết thúc việc này, dẫu bị hắn giết, tôi cũng không bận tâm.