← Quay lại trang sách

Chương 7 Tháng giêng [1]

42

Từ cuối năm cũ sang năm mới, cuộc sống của tôi có chút thay đổi.

Tôi không suốt ngày giam mình trong nhà nữa, sẩm tối vẫn đến quán Lai Mộng, số lần đi bách bộ cũng nhiều hơn. Tôi mua ti vi mới và một đầu video đặt trong phòng khách phía Bắc của phòng 2-B. Mỗi khi thấy tâm trạng nhẹ nhõm, tôi lại ra ngoài, đến hiệu cho thuê băng video.

Sau bức thư thứ hai, kẻ nặc danh không có thêm động tĩnh gì. Có thể coi đây là ‘thời kỳ im ắng’ tạm thời.

Tôi cảm thấy, kẻ nhắm vào mình đang ẩn nấp ở đâu đó, nín thở chờ thời cơ.

Suy nghĩ của tôi về hắn cũng không còn như trước nữa. Tâm trạng ‘chẳng thành vấn đề’ và ‘nghe theo ông trời sắp đặt’ có phần lung lay, cảm giác sợ hãi lại bắt đầu trỗi dậy, ngày càng rõ rệt hơn.

Tại sao lại thế?

Có lẽ vì cuộc sống của tôi đã xuất hiện một sợi xích mới gắn kết tôi với thế giới này.

Michizawa Kisako.

Đúng là cô ấy.

Tôi không thể không thừa nhận Kisako đã hấp dẫn tôi.

Nhưng tôi không cho rằng đây là tình yêu như người ta thường nói. Thực ra, tôi bị hấp dẫn bởi sức sống mạnh mẽ thể hiện trong mọi cử chỉ của Kisako.

Khi tiếp xúc với cô, tôi cảm thấy ánh sáng chiếu rọi tận sâu thẳm lòng mình. Từng tế bào của trái tim mục nát, gần như đã từ bỏ sự sống mà đón nhận cái chết của tôi lần lượt được hồi sinh. Chính là cảm giác đó.

Sau buổi tối tham quan xưởng vẽ, Kisako đã mấy lần gọi điện cho tôi.

Điều kỳ lạ là cô không hề nhắc đến bức thư hoặc cái chết của má, cô chỉ nói cảm tưởng về tranh vẽ hoặc chuyện phiếm linh tinh. Cô còn đề nghị tôi cho xem những bức tranh cũ cất trong phòng chứa đồ.

Cuối năm, ngày 27 tháng Mười hai, tôi và Kisako đến Bảo tàng Mỹ thuật Okazaki. Cô ấy chủ động rủ tôi, nói là có người bạn cho hai vé.

Thoạt đầu, tôi không sao hiểu nổi. Kisako có mục đích gì khi tiếp xúc với tôi, một gã già hơn cô cả chục tuổi? Nhưng tôi cho rằng, dù là gì thì cũng chẳng sao.

Gặp gỡ chuyện trò, nhìn thấy nụ cười của Kisako, với tôi thế là rất vui rồi. Tôi không dám nghĩ mình và cô sẽ nảy sinh tình cảm, như thế sẽ làm hỏng mối quan hệ hiện có giữa chúng tôi.

Cứ thế…

Càng tiếp xúc với Kisako, tôi lại càng ôm nỗi sợ bản năng với thứ sát khí có thể tấn công tôi bất cứ lúc nào.

Tuy vậy, tôi vẫn không định báo cảnh sát. Tôi xoa dịu nỗi sợ hãi trong lòng bằng những biện pháp tự vệ như khóa chặt cửa phòng, hạn chế tối đa đi ra ngoài vào lúc tối muộn…

Dịp Tết, Kisako về quê. Có vẻ trong tháng Giêng, bên khoa cô hầu như không có tiết, nên cô tranh thủ về quê nghỉ ngơi, đợi hết đợt tuyển sinh đại học thì mới quay lại.

Ngày nào tôi cũng dành vài giờ trong xưởng vẽ, mải miết khắc họa lên tranh những nỗi đau ẩn sâu trong ký ức.

Tôi gắng nắm bắt những phong cảnh rất xa xăm thỉnh thoảng đến và đi cùng cảm giác tê dại. Nhưng tôi cũng hiểu rằng, cứ cố ép bản thân thì sẽ phản tác dụng, vì vậy, giống như đã từng nói với Kisako, tôi để ngòi bút vẽ ra những thứ ngủ say trong sâu thẳm tâm trí.

Vào dịp đầu năm, tôi đã sắp hoàn thành bức tranh.

Đó là…

Đường sắt màu đen là một đường cong lớn, càng vẽ càng mở rộng, chạy từ xa đến trước mặt. Bầu trời thu trong xanh không một gợn mây. Trên bãi cỏ hai bên là hoa bỉ ngạn đỏ thắm nở rộ đang đung đưa theo gió.

Một cậu bé đang ngồi xổm bên đường sắt, mặc sơ mi trắng, quần cộc màu lục, mái tóc húi cua. Nó đang cúi đầu nên không nhìn thấy mặt. Phía xa, gần như thoát khỏi khung cảnh này, bóng đen của một đoàn tàu lờ mờ ẩn hiện, đoàn tàu đang lao nhanh.

Tiếp đó sẽ xảy ra chuyện gì, tôi biết rất rõ.

‘Giống như xác con rắn khổng lồ’… Đoàn tàu đen sì trật bánh rồi đổ nghiêng.

“Mẹ ơi… Mẹ đâu rồi?”… Tiếng thằng bé (là tôi chăng?) thảm thiết gọi mẹ.

Đúng rồi, cảnh tôi vẽ là vụ tai nạn tàu hỏa xảy ra cách đây hai mươi tám năm.

Mẹ Miwako của tôi mất trong tai nạn đó. Ngoài ra, còn có rất nhiều người chết và bị thương.

Nếu đây là điều hắn ta ép tôi nhớ lại, liệu có phải con ma nơ canh đầu tiên trong xưởng vẽ ‘bị giết’ vào hồi cuối tháng Chín ám chỉ cái chết của mẹ đẻ tôi không? Ma nơ canh thứ hai ám chỉ những người tử nạn khác… liệu có phải thế không?

Tôi cảm thấy các sự kiện khác cũng có thể giải thích tương tự.

Mảnh thủy tinh trong hòm thư ám chỉ cửa kính toa xe bị vỡ.

Xe đạp hỏng phanh khiến tôi ngã ám chỉ đoàn tàu bị lật.

Xác con mèo hoang thì sao? Con mèo bị bẹp đầu… mèo bẹp đầu… Nên nói thế nào nhỉ? Có phải là trạng thái chết của mẹ Miwako không? Đúng vậy, tôi đã nhớ ra. Do chấn động khi tàu lật, mẹ tôi ngã khỏi ghế, đầu bị đập mạnh rồi chết. Có ai đó từng kể như vậy.

Nhưng…

Tôi vẫn không hiểu tại sao những chuyện này lại biến thành tội lỗi của tôi?

Tại sao?

Tôi lại nhìn bức tranh đặt trên giá vẽ.

Tại sao bức tranh này…

Thằng bé ngồi bên đường ray là tôi sao? Nếu là tôi, thì tôi đang ở đó làm (hoặc đã làm) cái gì?

Không chỉ có vậy.

Tôi luôn cảm thấy vẫn còn vài mảnh ký ức xa xăm chưa được vẽ lên bức tranh này.

Ví dụ, bầu trời đỏ như máu.

Bầu trời trong bức tranh này không phải màu máu. Khi tô sắc đỏ cho bầu trời, không hiểu sao tôi lại có cảm giác không ổn.

Lại còn ‘hai vệt màu đen’ và ‘dòng nước’ nữa.

Tôi cảm thấy hai vệt đen kéo dài ấy không phải là đường ray. Trong bức tranh này, tôi cũng không vẽ dòng nước nào cả.

Tôi cũng đã nói với Kisako.

… những mảnh ký ức hình dạng khác nhau lộn xộn bất quy tắc như các mảnh rời của trò chơi ghép tranh.

Nhiều mảnh với nhiều hình dáng khác nhau.

Anh…!

Hình dạng khác nhau…

Tôi từng muốn thử bàn bạc với Kakeba. Gần đây, tuy không liên lạc nhưng có lẽ cậu ta vẫn biết tình hình của tôi thông qua Kisako.

Do đã gần như tuyệt vọng, tôi quyết định im lặng. Vì dù có bàn bạc với Kakeba thì chắc cũng chẳng đâu vào đâu. Tôi cảm thấy không đủ tin tưởng cậu ta.

Tôi không làm vậy bởi tâm trạng gần như tuyệt vọng của mình. Dù bàn bạc với cậu ấy thì cũng chẳng đem lại kết quả gì. Tôi cảm thấy không đủ tin tưởng cậu ấy.

Shimada…

Khuôn mặt người bạn hồi học đại học dần hiện lên…

Tôi nghĩ, nếu là anh ấy…

Nếu là Shimada… biết đâu anh ấy có thể cứu tôi thoát khỏi tình trạng hiện nay.

43

Thứ Tư, ngày mùng 6 tháng Giêng. Shimada Kiyoshi gọi điện cho tôi.

Rời quán Lai Mộng về đến nhà, tôi vào xưởng vẽ và đứng trước bức tranh sắp hoàn thành. Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo.

“Hiryu đấy à?”

Khi nghe thấy giọng nói thân thiết từ điện thoại, tôi đã rất bất ngờ. Mấy hôm nay tôi vẫn tự nhủ sẽ liên lạc lại với anh. Cuộc gọi này như thể đáp ứng lời khẩn cầu của tôi vậy.

“Chà! Đã quá lâu không liên lạc với nhau. Tôi là Shimada, Shimada Kiyoshi đây. Cậu vẫn khỏe chứ? Nghe ông già nhà tôi nói năm ngoái cậu gọi điện cho tôi, đúng không? Xin lỗi nhé! Cũng vì đã rất lâu tôi không về nhà.” Anh nói liên tục, gần như độc thoại với giọng trầm trầm, chắc nịch, rất đặc trưng. “Hiếm khi cậu gọi cho tôi, chắc là có việc gì à?”

“Shimada…” Giọng tôi buồn rầu, “Là thế này anh ạ, má đã mất.”

“Má? Dì cậu ấy hả? Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Má mất hồi tháng Mười một năm ngoái, trong một vụ hỏa hoạn.”

Tôi kể một mạch cho anh ấy nghe mọi chuyện và cả suy nghĩ của tôi hiện giờ.

“Hừm.” Nghe xong, Shimada rầu rĩ nói, “Thật khó khăn với cậu. Tôi thực áy náy vì đến tận bây giờ mới liên lạc.”

“Shimada, anh nghĩ sao?” Giọng tôi khẩn nài. “Ai là kẻ muốn hại tôi? Tại sao hắn lại nhắm vào tôi?”

“Điều này… Hiện giờ, tôi chẳng thể trả lời ngay. Tuy nhiên… tôi có thể điểm ra vài điều mà tôi nghĩ đến.”

“Được!”

“Vấn đề quan trọng nhất là danh tính hung thủ. Nhưng tình hình như cậu vừa nói thì rất khó suy đoán, vì chưa có yếu tố mang tính quyết định để suy đoán. Tuy nhiên, cũng như suy nghĩ ban đầu của cậu, tôi cho rằng các khách trọ ở Lục Ảnh Trang đều rất đáng nghi. Họ dễ dàng đột nhập nhà chính và xưởng vẽ, dù cửa đã khóa. Kể cả việc lấy chìa khóa dự phòng thì so với người ngoài, họ cũng có nhiều cơ hội hơn. Tính cả vợ chồng người quản lý thì có năm người sống ở Lục Ảnh Trang. Nếu xét từ khả năng lấy chìa khóa dự phòng, vợ chồng người quản lý là đáng nghi nhất. Cậu nghĩ sao?”

“Thoạt dầu tôi cũng ngờ ngợ vợ chồng bác Mizujiri, nhưng cứ xem tác phong thái độ của họ… nhất là từ khi má mất, tôi hoàn toàn không thể nghi ngờ họ nữa.”

“Ý cậu là sao?”

“Họ rất tốt với tôi, nhất là bác gái Kine, chăm sóc tận tình mọi bề sinh hoạt của tôi.”

“Tóm lại về mặt tình cảm, họ không có vẻ là hung thủ.”

“Đúng thế. Huống chi ông chồng Dokichi thì già yếu.”

“Ừ! Chúng ta tạm gạt họ sang một bên. Còn ba người kia có điều gì đáng ngờ không?”

“Tsujii Yukihito là anh chàng rất khó hiểu, cách ăn nói cũng như thái độ của cậu ta khiến tôi khó chịu. Ngược lại, Kuratani Makoto tuy hơi kỳ cục một chút nhưng vẫn là người thảng thắn đàng hoàng. Còn về Kizugawa Shinjo… Có một hôm tôi bỗng nghĩ thế này…”

Tôi kể với Shimada về mối nghi ngờ khi chứng kiến cảnh má mời ông ta sang mát xa.

“Kể cũng phải. Một người mù thì đúng là rất khó để phạm tội liên tục, nhưng nếu ông ta giả vờ mù thì không thể loại khỏi diện tình nghi.”

“Cũng không thể chắc chắn được. Dẫu sao, đó chỉ là cảm giác của tôi thôi.”

“Thế thì phải tìm cách xác minh.” Shimada dứt khoát đáp, “Phải điều tra xem Kizugawa có bị mù thật không?”

“Nói thì như vậy… nhưng bằng cách nào?”

“Chỉ cần một chút mẹo vặt thôi. Cứ làm mấy trò đùa ở cửa phòng ông ta. Ví dụ, dùng đinh ghim gắn một tờ phác họa mặt người lên cánh cửa. Thực hiện vào buổi sáng, hôm sau đến kiểm tra tình trạng của tờ giấy.”

“À…”

Nếu Kizugawa mù thật thì tờ giấy vãn bị ghim ở đó nếu ông ta giả vờ mù thì tờ giấy nguệch ngoạc gắn trên cửa phòng sẽ bị gỡ xuống ngay.

“Nếu mắt vẫn tốt, ông ta sẽ nghi ngờ có kẻ muốn thử mình. Nhưng trước khi nghĩ ra thì phản ứng đầu tiên của ông ta là lột tờ giấy xuống, đây là tâm lý của một người bình thường. Dù ông ta có ghim lên thì chắc chắn vẫn để lại dấu vết trên cửa hoặc trên tờ giấy.”

“Đúng thế.”

“Ngày mai hoặc tối nay nếu làm được thì cậu hãy thử luôn xem!”

“Được! Tôi sẽ làm.”

“Còn về cậu nhà văn lắm điều, thì tôi có cách này…”

“Tsujii Yukihito à?”

“Đúng! Vấn đề nằm ở chỗ mối quan hệ giữa cậu và cậu ta. Hai người là anh em họ xa.”

“Thì sao?”

“Là động cơ! Động cơ!”

“Chưa hiểu à?” Shimada có vẻ ngạc nhiên, “Cậu và Tsujii là anh em họ, cậu ta là một trong số ít người có quan hệ huyết thống với cậu. Nếu cậu có mệnh hệ gì thì gia tài của nhà Hiryu sẽ xử lý ra sao?”

“Điều này…”

“Dù là họ hàng xa nhưng cậu ta vẫn có quan hệ huyết thống.”

“Ý anh nói là… Cậu ta nhằm vào tài sản của tôi?”

“Thực ra, anh em họ với nhau thì không có quyền thừa kế, nhưng nếu Tsujii cho rằng mình có đủ tư cách để…”

“Vậy thì, những điều viết trong thư đều nhằm che giấu động cơ của cậu ta?”

“Để ngụy trang. Đúng vậy. Đúng là có khả năng này. Tóm lại, Tsujii là nhân vật cần phải lưu ý. Còn cậu nghiên cứu sinh Kuratani thì hiện giờ chưa có gì đáng nghi. Nhưng theo như cậu kể với tôi thì có vẻ cậu ta mắc chứng Oedipus Complex*. Cậu không nhận ra cậu ta có ý đồ gì đó với má cậu à?”

“Để tôi nhớ lại xem… Cứ như anh nói thì không phải không có cảm giác này.”

“Tóm lại về hung thủ, trước mắt chỉ có thể nói như vậy. Còn chuyện ký ức của cậu, tôi cho rằng cậu hãy kiên trì vẽ lại xem sao. Đây là chuyện riêng của cậu, tôi chẳng biết nói gì.”

“Anh Shimada nghĩ thế nào về ngôi nhà này? Trước đây, anh từng nói nó có liên quan đến kiến trúc sư Nakamura Seiji.”

“Ừ, phải…” Shimada ngập ngừng một lát rồi nặng nề đáp, “Đúng là tôi từng nghe lời đồn rằng Nakamura Seiji có liên quan đến việc cải tạo tòa nhà gọi là ‘Nhân Hình Quán’ ở Kyoto.”

“Thì ra đúng là thế thật.”

“Hiện giờ dù cậu quan tâm thì cũng chẳng thể làm gì. Ông Nakamura Seiji đã qua đời. Tôi cũng hay nghĩ đến khái niệm nhân duyên… nhưng nó chẳng có căn cứ khoa học. Tôi thấy lo lo về các ma nơ canh đặt trong nhà cậu.”

“Các hình nhân đó ư?”

“Vấn đề là tại sao cha cậu lại để mấy hình nhân không hoàn chỉnh trong nhà.”

“Đó là vì… Tôi nghe nói, vào những năm cuối đời, thần kinh cha tôi không bình thường.”

“Vấn đề thần kinh của ông ấy tôi không có ý kiến gì. Tôi chỉ để ý đến đặc điểm của các hình nhân và vị trí đặt chúng. Hình như có ý nghĩa đặc biệt nào đó. Người ta thường nói người điên cũng có logic của người điên.”

Logic của người điên?

Tôi thầm điểm qua một lượt các ma nơ canh cha tôi để lại. Những hình nhân không có khuôn mặt và thiếu một số bộ phận mà theo như tôi suy đoán thì được làm ra với mục đích tưởng niệm Miwako, người mẹ quá cố của tôi.

“Tôi sẽ gọi lại cho cậu. Nếu có chuyện gì kỳ lạ xảy ra, cậu cứ liên lạc với tôi, được chứ, Hiryu?”

Nói xong câu này, Shimada dập máy. Bên tai tôi chỉ còn lại sự tĩnh lặng cô đơn.

Đến đêm, tôi làm theo hướng dẫn của Shimada, chuẩn bị một mảnh giấy vẽ vài hình linh tinh. Tôi lẳng lặng xuống phòng ông Kizugawa, ghim nó lên cánh cửa ở vị trí ngang tầm mắt.

Phải lần theo lối đi nhỏ ở sân trước, vòng ra sau nhà mới tới lối vào phòng 1-D của ông Kizugawa. Vì vậy, tôi không lo tờ giấy này bị ai đó ngoài Kizugawa nhìn thấy rồi bóc mất.

Ông ta đã đi làm, đến tối mới về.

Sáng mai, tôi sẽ quay lại kiểm tra. Nếu tờ giấy vẫn nghiêm chỉnh ở chõ cũ thì có thể tạm cho rằng Kizugawa vô tội.

Lúc quay về, tôi nhìn lên ô cửa sổ phòng 2-C của nhà văn Tsujii. Cậu ta đang ở nhà, hình như vẫn chưa đi ngủ.

Tôi trở về phòng 2-B, nằm vật ra giường, một mình ngẫm nghĩ những điều đã trao đổi với Shimada trên điện thoại.

Hung thủ là ai?

Những người đang ở trong ngôi nhà này đều rất đáng nghi. Xét về động cơ nhòm ngó tài sản của tôi thì cần phải lưu ý Tsujii Yukihito. Để dò tìm ký ức, tôi cần kiên nhẫn tiếp tục vẽ. Nhân Hình Quán có khả năng liên quan đến Nakamura Seiji. Đáng để tâm nhất là những hình nhân cha tôi để lại.

Khi mới chuyển về đây, tôi đã lưu tâm đến chúng. Dần dần, tôi quen với sự thiếu tự nhiên và kỳ lạ của mấy hình nhân, chỉ coi chúng như những di vật điên khùng mà cha tôi để lại sau khi tự sát trong tuổi già và cô độc. Suy đoán về ý nghĩa của chúng chỉ tổ vô ích.

Nhưng…

Shimada cho rằng người điên cũng có logic riêng. Rõ ràng theo anh ấy, di ngôn ‘giữ nguyên vị trí các hình nhân’ của cha nhất định phải mang ý nghĩa quan trọng nào đó.

Tôi bắt đầu nghiền ngẫm theo hướng này.

Đã quá 12 giờ đêm, lẽ ra tôi phải đi ngủ rồi nhưng hôm nay lại rất tỉnh táo.

Những hình nhân đặt trong nhà.

Tôi xuống giường, đi qua phòng khách rồi bước ra hành lang.

Tôi lần theo hướng bên phải, sau khi rẽ ở góc hành lang tối om, phía trước mặt là một ma nơ canh thiếu chân trái. Chỗ cô ta đứng chiếu thẳng xuống tầng dưới là vị trí đặt ma nơ canh thiếu thân trên.

Dưới ánh sao chiếu vào qua cửa sổ, tôi mơ màng quan sát cái bóng trắng trôi nổi giữa màn đêm rồi bất chợt nhận ra một điều. Đó là…

Ánh mắt của cô ta!

Đương nhiên, mặt cô ta không có mắt mũi gì nên không thể có ánh mắt theo nghĩa đen. Ý tôi là hướng cô ta quay mặt chếch về phía cửa sổ.

Nếu tôi nhớ không nhầm, ma nơ canh đặt ở tầng trệt dưới chân cô ta cũng ngoảnh cùng hướng này.

Chắc không phải do đặt cùng một vị trí mà có hướng quay mặt giống nhau chứ? Dụng ý ở đây là gì?

Thế này…

Thế này, liệu đây có phải ý nghĩa được gửi gắm vào các hình nhân đặt trong nhà hay không?

Nghĩ vậy, tôi chợt thấp thỏm không yên.

Quay trở về phòng, tôi ngồi luôn xuống ghế, lấy cuốn sổ tay phác họa ra, cầm bút, nhớ lại cấu trúc tổng thể của ngôi nhà, kể cả nhà chính đã bị cháy và bố cục các căn phòng. Sau đó vẽ lại mặt bằng của ngôi nhà.

Trí nhớ của tôi không tốt, cũng không biết chính xác các kích thước, nhưng mất vài phút loay hoay vẫn có được sơ đồ mặt bằng. Tôi lần lượt khoanh tròn để đánh dấu vị trí của sáu hình nhân.

Bên cạnh tiền sảnh nhà chính. Cuối hành lang chỗ cửa xưởng vẽ. Hàng hiên bên ngoài buồng ngủ ngày trước của má. Góc ngoặt hành lang trước phòng 1-B, với hai hình nhân cùng vị trí này chỉ khác tầng dưới tầng trên thì tôi khoanh hai vòng tròn vào vị trí hình nhân đặt ngay tầng dưới. Một cô nữa đặt ở góc Đông Nam hành lang chạy vòng quanh đại sảnh.

Đánh dấu xong xuôi, tôi ngồi nhớ lại hướng nhìn của từng hình nhân.

Đứng từ của chính, hình nhân đặt ở đó có hướng nhìn chếch về bên trái. Hình nhân ở hiên ngoài thì quay lưng vào phòng, mặt hơi chếch sang trái.

Cô ở lối đi đến xưởng vẽ thì không có đầu nhưng vẫn là hướng về phía trước.

Ngoài ra, như tôi vừa nói, ở chỗ ngoặt hành lang tầng một và tầng hai, cùng một vị trí, hai hình nhân đều hướng về bên trái. Hình nhân đặt ở góc hành lang phía trên đại sảnh thì ngược lại, hướng về bên phải.

Tôi đánh dấu các hướng nhìn bằng mũi tên, rồi nhận ra rằng sáu mũi tên cùng chĩa về một phía!

Vì sơ đồ không chính xác nên cũng không được rõ ràng lắm. Tuy nhiên, nếu kéo dài chúng thì sáu đường thẳng này gần như gặp nhau ở chính giữa sân trong.

Xong xuôi, tôi lại bước ra hành lang, đi đến chỗ ngoặt, đứng bên cạnh ma nơ canh mất chân trái, dõi mắt theo hướng nhìn của cô ta.

Bên ngoài cửa sổ là khoảnh sân vắng vẻ dưới ánh sao đêm yếu ớt. Tôi nhìn vào chỗ gặp nhau của các mũi tên kéo dài…

Và nhận ra.

Đó chính là cây anh đào nơi cha tôi treo cổ.

44

Do cũng đã muộn nên tôi quyết định ngày mai sẽ hành động, cụ thể là kiểm tra xung quanh cây anh đào xem có điều gì khác thường không.

Tại sao ánh mắt sáu ma nơ canh đều tập trung về phía cây anh đào đó?

Chắc chắn không phải ngẫu nhiên. Hẳn cha tôi đã cố tình làm như vậy.

Lý do là gì?

Để các cô trông coi nơi mình ra đi? Chỉ thế thôi sao? Không, tôi không cho là vậy. Chắc chắn phải có ngụ ý khác. Các ma nơ canh nhìn cây anh đào hay nhìn cả khoảnh đất này? Nhất định phải có ẩn ý đằng sau.

Vẽ sơ đồ mặt bằng căn nhà, rồi đánh dấu vị trí của đám ma nơ canh, khiến tôi liên tưởng đến việc săn tìm kho báu. Tôi không thể không nghĩ rằng có gì đó được chôn giấu xung quanh cây anh đào.

9 giờ sáng hôm sau, ngày mùng 7 tháng Giêng.

Vừa tỉnh giấc, tôi liền tới xem cửa phòng ông mù Kizugawa Shinjo.

Mảnh giấy tối qua ghim trên cánh cửa vẫn nguyên vẹn. Tôi kiểm tra thật kỹ, không hề có dấu vết bị đụng đến.

Kizugawa Shinjo không phải nghi phạm.

Tôi lặng lẽ tháo ghim, gỡ mảnh giấy xuống, nhét vào túi quần.

Xem ra tôi đã quá đa nghi, đến nỗi ngờ rằng ông ta không bị mù.

Tôi rời khỏi cửa phòng 1-D, bước về phía sân trong. Đi qua cửa tiền sảnh rồi từ phía Nam Lục Ảnh Trang đi vòng vào.

Bầu trời rất thoáng đãng, cũng không có gió từ trên núi thổi lại, nhưng đã là giữa đông nên không khí vô cùng giá lạnh. Những tia nắng nhỏ lách qua tán thường xuân mọc ngoài sân rọi xuống, khiến người ta chợt lãng quên cảm giác rét buốt, nhưng lại chìm trong nỗi cô đơn.

Cây anh đào xù xì, lá đã rụng gần hết chỉ còn trơ lại vô số cành cứng đơ, càng khiến người ta phải chú ý. Tôi đứng bên gốc anh đào, hai tay đút túi áo, quan sát mặt đất xung quanh.

Lá rụng, cỏ khô chất đống, cỏ dại đua nhau mọc dù đang giữa mùa đông. Tro than của vụ cháy để lại vẫn còn đây.

Nếu có thứ gì đó chôn phía dưới, chắc sẽ không chôn quá gần gốc cây, vì e vướng phải bộ rễ.

Tôi sục mũi giày gạt đám cỏ khô, cứ thế đi vòng quanh gốc cây.

Lát sau, tôi phát hiện ra một thứ gì đó. Mặt đất cách gốc cây độ một mét về phía Bắc không giống những chỗ khác.

Cỏ dại cũng có vẻ thưa thớt hơn. Nếu cha tôi đã chôn thứ gì đó quanh đây thì là chuyện hơn một năm về trước. Dấu hiệu độ dày của cỏ chắc chắn không đáng tin tưởng nhưng…

Tôi thử đứng vào vị trí đó rồi nhìn về phía Lục Ảnh Trang.

Dưới hành lang tầng trệt, nhìn qua các ô cửa sổ sơn trắng bị bong lỗ chỗ, tôi tìm hình nhân đó.

… Và thấy ngay lập tức. Dù bị ngược sáng, không thể nhìn thật rõ, nhưng phía bên kia một ô cửa sổ, tôi vẫn nhận ra bóng cô ta đang đứng ở góc ngoặt hành lang âm u, khuôn mặt hướng thẳng về phía tôi.

Tiếp đó, tôi nhìn hai hình nhân đứng ở hành lang tầng hai, mặt cũng hướng về phía tôi.

Quả nhiên… là chỗ này!

Tôi tìm một viên ngói trong đống đổ nát của nhà chính, đặt vào đánh dấu vị trí.

Nếu bên dưới chôn gì đó thật… thì nó có thể là cái gì?

Lúc này, tôi lờ mờ cảm thấy mình đã có câu trả lời