Chương 7 (tt)
45
Tôi ngồi trong phòng mình, ăn xong bữa cơm do vợ bác Mizujiri chuẩn bị. Sau đó, tôi hỏi mượn cái xẻng. Bác ngạc nhiên hỏi tôi cần xẻng để làm gì, tôi bịa ra rằng mình bỗng nổi hứng muốn dọn dẹp sân vườn…
Rồi tôi hỏi thản nhiên như không, “Hình nhân đặt ở các vị trí đó từ bao giờ vậy ạ?”
“Hình như từ giữa mùa thu năm kia.” Bác Mizujiri Kine đáp. Khoảng hai tháng sau đó thì cha tôi tự sát.
“Hồi đó, cha cháu có làm gì ở sân này không, ví dụ trồng cây hoặc đào hố chẳng hạn?”
“Điều này…” Bác Kine nghiêng đầu nghĩ ngợi, “Hình như là có… nhưng có chuyện gì à?”
Từ chiều, bầu trời đang sáng sủa bỗng chuyển sang âm u, gió thổi ngả nghiêng cây cối, lá cành kêu rào rào. Bác Kine nói, chiều nay có thể có mưa hoặc tuyết rơi.
Tôi muốn sớm hành động trước khi thời tiết chuyển xấu, bèn cầm xẻng ra đào bới vị trí đã đánh dấu. Nhưng đất khá cứng bởi những ngày qua đều nắng ráo, và tôi lại không quen lao động chân tay, nên chưa đầy năm phút, cánh tay và hông đã mỏi nhừ, lưng và nách thấm ướt mồ hôi còn gò má và tay cầm xẻng thì lạnh tái tê, đau nhức.
Sau khoảng hai mươi phút chật vật, tôi đào sâu được chừng ba mươi phân.
Mây đen dày đặc kéo đến rất nhanh, gió thổi vù vù khiến tôi run rẩy.
Phải đào sâu bao nhiêu đây? Ngay khi tôi bắt đầu thấy hối hận và muốn bỏ cuộc thì…
‘Cạch’ một tiếng, cái xẻng chạm vào một vật cứng.
Tôi chăm chú nhìn cái hố, nhưng không thấy gì trong đám đất cỏ hỗn độn này.
Thọc xẻng xuống chỗ đó, lại nghe tiếng ‘cạch’.
Tôi ngồi xuống thò tay bới đất. Lát sau, tay tôi đụng phải một thứ cưng cứng, bằng phẳng.
Tìm thấy rồi!
Nó ở đây.
Tôi cầm lại xẻng, tiếp tục công việc đến quên cả giá rét và mệt mỏi.
Một vật khá to.
Dài khoảng mét rưỡi, rộng chừng bốn, năm mươi phân, cao khoảng ba mươi phân.
Sau hơn một giờ vất vả, tôi đã đào được nó lên.
Lúc này mới là cuối buổi chiều nhưng trời đã âm u tối sầm, chắc là sắp có mưa hoặc tuyết.
Vật được đào lên là một cái hòm gỗ dài.
Với hình dáng này, khỏi cần nói nhiều, rất dễ liên tưởng đến… một cỗ quan tài.
Dù chưa mở nắp, tôi cũng đã hình dung ra thứ gì đặt bên trong.
Nắp hòm được đóng đinh. Tôi trở vào nhà, mượn bác Kine cái kìm nhổ đinh.
“Sao thế cậu chủ?” Thấy mặt mũi tôi lấm lem, bác lo lắng hỏi. “Cậu… đào đất à?”
“Cháu tìm một thứ.” Lần này, tôi thẳng thắn nói.
Bác Kine nhìn tôi bằng ánh mắt kinh ngạc, hỏi, “Tìm một thứ? Là thứ gì?”
“Kỷ vật của cha cháu.”
Để lại bác Kine đang thắc mắc, tôi bước ra sân.
Phải mất hơn mười phút mới nhổ hết đinh đóng trên nắp. Tôi cố trấn tĩnh, thở từ từ, đặt tay lên nắp hòm.
Tôi đoán không nhầm, thứ đó hiện ra trước mắt tôi.
Một pho tượng màu trắng nằm trong hòm.
Đầu, thân trên, hai cánh tay, thân dưới có chân phải, chân trái… tất cả các bộ phận đều đầy đủ. Trên khuôn mặt quay nghiêng như đang ngủ có mắt, mũi, miệng. Còn có cả tóc nữa.
Mẹ…
Cha tôi đã hoàn thành pho tượng này. Nguyên mẫu là mẹ Miwako. Ông đã làm hoàn chỉnh.
Tôi quỳ xuống bên cái hố, đưa hai tay ôm hình hài đó lên.
Một giọt nước lạnh bỗng rỏ vào mặt tôi, tôi ngẩng đầu nhìn. Bầu trời xám xịt bắt đầu mưa nặng hạt.
46
Tôi ôm pho tượng vào nhà.
Mưa càng lúc càng to. Cứ như muốn truy đuổi tôi.
Tôi thận trọng mang pho tượng đi qua hành lang, rảo bước vào xưởng vẽ.
Tôi chưa vội thay quần áo mà dùng khăn bông lau chùi bụi bặm bám trên pho tượng do đã bao ngày tháng nằm trong quan tài, sau đó đặt nó lên chiếc ghế bập bênh có phần lưng ghế đã gãy. Tôi kéo chiếc ghế có tay vịn lại, ngồi đối diện pho tượng.
Mẹ…
Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt đang ngửa lên trần của bà.
Mái tóc đen dài quá vai thả xuống tận lưng. Khuôn mặt trái xoan được điêu khắc, giống hệt những nét còn lưu giữ trong ký ức của tôi.
Tôi thấy mình rất giống bà.
Lần đầu gặp vợ chồng bác Mizujiri, họ nói tôi giống ông nội Hiryu Takenaga, nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt pho tượng do cha tôi tái hiện mẹ Miwako, tôi lại thấy mình giống mẹ.
Mẹ…
Cha tôi đã hoàn thành pho tượng này. Ông đã thành công trong việc tái hiện thần thái người vợ đi khuất, rồi đặt bà bên cạnh mình.
Tôi không biết cha tôi hoàn thành nó khi nào. nhưng tôi rất tin là vậy. Ông chỉ cần một pho tượng hoàn mỹ, thế là đủ rồi.
Sáu hình nhân đặt trong nhà đều không có khuôn mặt, nhưng có lẽ không phải cha tôi cố ý làm như thế từ đầu.
Với mục tiêu phục sinh mẹ Miwako, ông đã chế tạo ra những hình nhân đó. Phải chăng khi mới được tạo ra, chúng đều có khuôn mặt, nhưng cha không ưng ý nên cứ cắt gọt dần, loại bỏ những chi tiết không đạt.
Sau nhiều lần mày mò khám phá, ông mới chế tác ra một pho tuợng hoàn hảo không tỳ vết, chính là pho tượng này đây.
Tôi không thể phân tích tưởng tận diễn biến tâm lý đã dẫn ông đến cái chết, nhưng nếu có thể đưa ra một kết luận chủ quan…
Thì ông không đơn độc ra đi. Ông đã ra đi cùng người vợ Miwako được phục sinh.
Ông tự tay đặt vợ vào quan tài rồi chôn gần gốc anh đào mình sẽ treo cổ. Là tự tử vì tình. Tôi chẳng còn cách lý giải nào khác.
Nếu thế thì có phải sáu hình nhân không hoàn chỉnh kia kia sắm vai những người canh mộ? Hẳn cha tôi đã ra lệnh cho họ trông nom giấc ngủ của người vợ mà ông bí mật mai táng.
Có lẽ đó là thông điệp cha tôi đã cố ý để lại.
Những người phụ nữ thiếu đầu, thiếu thân trên, thân dưới, tay phải, tay trái, chân trái… Những người không hoàn chỉnh đều nhìn về phía người phụ nữ duy nhất hoàn chỉnh. Khiếm khuyết của sáu hình nhân ấy hàm chứa ngụ ý gì?
Là thông điệp dành cho một người nào đó chăng? Dành cho tôi? Dành cho đứa con trai mà ông chưa một lần quay đầu nhìn lại sao?
Nếu đúng vậy thì vì lý do gì?
Tôi ngồi bất động, vừa nghe những tiếng mưa rơi trên mái xưởng vẽ vừa chăm chú nhìn khuôn mặt mẹ Miwako. Bỗng nhiên, tự đáy lòng tôi, lại…
… Những bông hoa đỏ thắm…
… Làn gió thu mát rượi…
Những hình ảnh xa xôi chập chờn ẩn hiện.
… Hai sợi màu đen…
… Thằng bé đang ngồi xổm…
Nó… Nó chính là tôi.
… Hòn đá…
… Hòn đá…
… Nó nắm trong tay…
… Hòn đá…
… Cô độc…
Hòn đá?
Thằng bé cầm hòn đá?
… Uỳnh…
… Uỳnh uỳnh uỳnh…
Thằng bé đó… là tôi, tay cầm hòn đá…
… Uỳnh… uỳnh uỳnh…
Tiếng đoàn tàu chạy đến.
… Trông như xác con rắn khổng lồ…
Bóng đoàn tàu đen sì trật đường ray đổ nghiêng…
… Mẹ ơi!
… Mẹ đâu rồi?
… Ở đâu?
… Mẹ ơi!
… Mẹ ơi!
… Mẹ…!
“Mẹ ơi!” Tôi ôm đầu, gọi ầm lên.
Kể cả với âm thanh như thế, kể cả với sắc mặt trong giây lát đã trở nên tái nhợt của tôi, mẹ vẫn hiển hiện ngay trước mắt, khuôn mặt xinh đẹp không chút biến đổi.
“Mẹ ơi! Mẹ… A, đó là gì vậy?”
Vô số hình ảnh đáng sợ hiện lên trong đầu, tôi rất muốn phủ định chúng!
“Chẳng lẽ… Chẳng lẽ…”
Tôi lắc đâu quầy quậy, ánh mắt rời khỏi pho tượng đang ngồi trên ghế bập bênh. Khuôn mặt nhợt nhạt của bà chợt ánh lên nét thương xót.
Ký ức khi tôi mới lên sáu, cách đây hai mươi tám năm, ký ức vẫn ngủ yên trong tôi bấy lâu.
Sáu hình nhân cha tôi để lại là nhằm đánh thức ký ức này, có phải thế không?
Tôi nhìn lên giá vẽ.
Dù không thể thấy rõ mặt thằng bé ngồi bên cạnh đường sắt, nhưng tôi biết nó chính là tôi. Chính là tôi. Tôi đang làm gì ở đó? Tại sao lại thế?
…
…Tôi chợt hiểu ra.
Tôi hiểu rồi. Tôi đã hiểu ra rồi… Vì vậy, có ai đó hãy cho tôi biết từ giờ tôi phải làm gì.
Thì ra là thế!
Mùa thu hai mươi tám năm về trước, tôi đã hại mẹ, khiến bà phải chết. Không chỉ như vậy, tôi còn làm rất nhiều người khác bỏ mạng.
Tôi tuyệt vọng nhắm mắt lại. Đúng lúc này, tiếng chuông điện thoại vang lên.
47
“A lô, Hiryu phải không?”
“Tôi đây.” Tay nắm chặt ống nghe, tôi yếu ớt trả lời, “Shimada…”
“Kìa, sao vậy? Giọng cậu như thể sắp chết ấy, vẫn chưa đi ngủ à?” Shimada hỏi, “Hay là bỗng nhiên có tiến triển gì mới?”
“Shimada, tôi…” Tôi không do dự mà nói hết những trăn trở trong lòng với anh, “Tôi thực sự không muốn làm như thế, không bao giờ muốn… Đâu ngờ đã gây ra tai nạn khủng khiếp như vậy…”
“Hiryu, cậu sao vậy?”
“Hôm đó… hôm đó, mẹ muốn đưa tôi đi xem xiếc, như đã hứa với tôi từ lâu. Cha nói không nhất thiết phải cho tôi đi xem, cuối cùng chỉ có hai mẹ con đi. Đi mà giấu không cho cha biết. Nhưng…”
Nhưng, đúng vậy, lúc sắp ra khỏi nhà, mẹ bỗng có việc khác nên không đi được nữa. Lần đầu tiên tác phẩm điêu khắc của cha được trao giải thưởng, nên mẹ muốn có mặt ở buổi lẽ (tôi nghĩ vậy). Cho nên…
“Để hôm khác hẵng đi!” Mẹ hiền từ nói với tôi bấy giờ đang thút thít, “Lần sau mẹ nhất định dẫn con đi. Hãy thứ lỗi cho mẹ lần này, được chứ, Soichi?”
Nhưng hôm đó là ngày biểu diễn cuối cùng của đoàn xiếc mà tôi thích. Tôi đã trông chờ từ hơn hai tháng trước.
“Hôm nay là một ngày vô cùng quan trọng với cha, đúng không? Soichi, con hiểu chứ? Con cũng cùng đi, được không nào? Cha đang ở hội trường đợi hai mẹ con mình đấy!”
Tôi không muốn đến những chỗ như thế. Tôi vẫn là trẻ con nên tôi không biết nó quan trọng ra sao với cha mẹ. Huống hồ, tôi sợ và ghét cha. Ông luôn ngồi lì trong xưởng vẽ với khuôn mặt rất đáng sợ, hễ tôi bước vào là bị mắng té tát.
Hôm đó, mẹ đi dự lễ trao giải. Tôi bị bỏ lại một mình. “Thế là tôi…”
Shimada lặng lẽ nghe tôi kể. Tôi cảm thấy giọng mình run run.
“Tôi nghĩ rằng, chỉ cần làm cho đoàn tàu dừng lại là được. Như vậy mẹ sẽ không thể đến chỗ cha. Không đi được thì mẹ sẽ về nhà và đưa tôi đi xem xiếc.”
Đoàn tàu đưa mẹ lên thành phố chạy qua ngay sau nhà tôi, một đứa trẻ con cũng chỉ cần đi bộ vài phút là tới. Đợi mẹ ra khỏi cửa rồi, tôi gắng sức chạy theo.
Tôi chỉ muốn đoàn tàu dừng lại.
“Vì thế, tôi bê một hòn đá lên đường ray. Chẳng rõ tôi đã nghe ai nói, có đứa trẻ hư đặt đá lên đường ray, tàu sẽ dừng lại, nhưng nào ngờ…”
Tàu ra khỏi ga, tăng tốc chạy rất nhanh. Đường ray ở đó lượn vòng cung khá rộng, có lẽ cũng là một phần nguyên nhân gây ra tai họa.
Tôi chạy ra xa khu vực đường ray, ngồi theo dõi đoàn tàu sắp đến.
Lúc tàu lao qua hòn đá, một tiếng động đáng sợ vang lên. Đoàn tàu trật bánh, lắc lư nghiêng ngả và lật nhào… Cuối cùng, nó nằm bất động, vặn vẹo trên mặt đất. Bao quanh đoàn tàu là những khóm hoa bỉ ngạn đung đưa trước gió thu. Hình dáng bất động đó trông như… đúng vậy, xác một con rắn khổng lồ.
Tôi kêu ầm lên, tôi gọi mẹ.
Nhưng không có tiếng trả lời.
Không nên biến thành thế này, tôi không định làm thế này. Tôi chỉ đơn giản là muốn đoàn tàu dừng lại, không ngờ hòn đá đã khiến cả đoàn tàu lật nhào.
“Có lẽ cha tôi đã biết sự việc. Hình như tôi đã vừa khóc vừa kể cho ông nghe.”
Cho nên…
Ông không bao giờ tha thứ cho tôi. Ông không thể nói với ai về tội lỗi của con trai mình, nhưng ông đã ruồng bỏ tôi, một mình đến thành phố này…
“Thì ra chuyện là thế,” chờ tôi kể xong, Shimada nói ngay. “Vậy thì sự kiện đó là ‘tội lỗi’ của cậu. Cho nên, hòn đá đặt ở ngoài tiền sảnh cũng trở nên có ý nghĩa.”
“Shima…”
“Câu chuyện thật bi thảm. Do vậy, cậu đã chôn thật sâu trong ký ức một cách vô thức. Có lẽ… Hiryu, khi cậu thẳng thắn kể lại với cha, cậu đã được ra lệnh làm gì đó đúng không? Ví dụ, nhất định không được kể với bất cứ ai khác chẳng hạn…”
“Nếu là thế thì…”
'Mày hãy quên chuyện này đi!' Khuôn mặt cha tôi rất dữ tợn, giọng trầm trầm ra lệnh cho tôi, 'Hãy quên hết đi. Việc đó chưa từng xảy ra, chưa từng xảy ra. Hiểu không? Hiểu không Soichi?'
“Anh Shimada, tôi…”
“Đừng nói với vẻ bi đát thế.” Giọng Shimada vẫn trầm trầm và ấm áp, “Chắc cậu đang rất sốc, phải không? Nhưng cậu nên nhớ, sự việc cũ rích xảy ra cách đây gần ba mươi năm. Hồi đó, cậu chưa đủ năng lực hành vi, cũng không có ý thức phạm tội, cho nên…”
“Nhưng…”
“Có lẽ đúng là tội lỗi nhưng không thể vì thế mà lại trả thù cậu.”
“…”
“Nếu gã hung thủ kia viện cớ sự việc hai mươi tám năm về trước để hại cậu thì đó mới là bất chấp pháp luật và đạo lý. Xã hội chúng ta cũng không cho phép cá nhân trừng phạt ai vì bất cứ lý do gì. Huống chi, hắn dám sát hại bà Sawako nhằm hành hạ cậu. Xã hội này đâu thể dung thứ lối hành xử bạo ngược như thế.” Giọng Shimada rắn rỏi mạnh mẽ, “Hiryu, cậu hiểu chưa? Cậu không được tuyệt vọng.”
“Vâng.” Tôi gật đầu như thể được giải thoát.
“Thế thì tốt rồi! Hút điếu thuốc cho bình tĩnh đi!”
Tôi châm một điếu thuốc.
“Tóm lại, đã giải quyết được một vấn đề. Một bước tiến lớn trong tình trạng hiện nay.” Shimada lại hỏi tôi, “Điều tôi gợi ý về ông mù Kizugawa, cậu đã thử chưa?”
“Rồi!”
Tôi cho Shimada biết kết quả. Anh tán thành, “Tạm thời loại được một nghi phạm. Nếu bị mù thật, ông ta không thể liên tiếp gây ra những vụ việc như vậy. Hung thủ sẽ nằm trong các nghi phạm còn lại, Tsujii hoặc Kuratani…”
“Nhưng dù là ai thì tại sao hắn lại biết tội lỗi của cậu? Đây cũng là vấn đề quan trọng. Hắn đã chứng kiến sự việc cách đây hai mươi tám năm chắc? Hay dùng cách gì để điều tra? Hay hắn nghe cha cậu kể lại?”
“Tại sao cho đến giờ mà hắn vẫn…”
“Ai mà biết được! Nhưng giả sử tội lỗi của cậu là động cơ để hắn gây án thì tôi cho rằng có hai khả năng.” Giọng Shimada rất tự tin. “Một là thằng cha ấy không liên quan gì đến tội lỗi của cậu, nhưng hắn muốn tuyên phạt cậu. Hắn là một thằng điên tự gán cho mình sứ mệnh phán xét người khác. Thứ hai, hắn là người có liên quan đến vụ tai nạn năm xưa. Ví dụ, hắn là khách đi tàu bị trọng thương, hoặc có người thân, người yêu tử nạn trong vụ đó. Vì vậy, hắn muốn trả thù cậu.”
“Trả thù…”
“Dù sao cũng nên điều tra kỹ vụ tai nạn cách đây hai mươi tám năm. Tôi sẽ làm việc này. Vì tôi không thể để mặc cậu tự làm.”
“Cảm ơn anh, Shimada.”
“Tôi mong cậu đừng phiền não rầu rĩ băn khoăn. Ít hôm nữa tôi sẽ đến chỗ cậu.”
“Thật chứ?”
“Đương nhiên rồi. Tôi đang có chút việc bận không rời ra được nên không thể đến ngay. Trước mắt, cậu nên chú ý khóa cửa nẻo cẩn thận, để ý hành động khả nghi của những người xung quanh. Cậu hiểu chưa?”
“Vâng, tôi hiểu.”
“Tôi sẽ sớm liên lạc với cậu.”
Tối hôm đó gã lại đi ra ngoài.
Đây không phải một hành động có mục đích rõ ràng. Nếu cố gán cho nó một lý do, có thể coi là nhằm nghĩ cách giết kẻ ấy.
Gã biết rất rõ tuyến đường kẻ ấy hay đi bộ. Tối nay, gã sẽ thử đi theo tuyến đường đó.
Chắc kẻ ấy đã suy nghĩ cẩn thận về tội lỗi của mình rồi nhỉ? Và cũng cảnh giác với các hành động của gã.
Nếu thế, gã phải tìm được cách thích hợp, cách khiến kẻ ấy lơ là cảnh giác để gã có thể lợi dụng cơ hội, cách thích hợp để phán xét tội lỗi của kẻ ấy.
Hay cứ xử lý luôn đi, nghĩ nhiều làm gì. Dù bằng cách nào thì kết cục cũng chỉ có một. Vì vậy…
Không! Đợi đã!
Đúng! Còn một việc phải làm trước khi ra tay.
Đêm khuya. Con đường tĩnh mịch không một bóng người.
Phía trước là cổng một ngôi miếu, đứng đối diện với bóng tối vô tận. Gió đêm nhẹ đưa qua cành lá kêu xào xạc. Lúc tình cờ đi ngang qua cổng…
Gã nhìn thấy xa xa có thứ gì đó đang di chuyển.
Gã lập tức nấp vào một góc tối ở cổng miếu.
Bên trong, có hai bóng người một cao lớn một thấp nhỏ.
Cái bóng thấp nhỏ, chắc là đứa trẻ con. Khuya thế này sao lại có trẻ con đi ra ngoài? Gã chưa kịp suy nghĩ thì đã thấy bóng người cao lớn chuyển động, dường như đè lên đứa trẻ…
Có tiếng chó sủa.
Tiếng chó con ngúng ngoẳng phát ra từ bên trong.
Hai bóng người kia nhập làm một, bất động. Cái bóng lớn đứng lên, cái bóng nhỏ thì đổ vật dưới chân cái bóng lớn.
Đó là…
Gã nín thở, chăm chú nhìn thật kỹ.
Người đàn ông đó là…
Thân thể đứa bé bỗng mất hết sức lực. Hắn buông hai tay, không bóp cổ nó nữa, rồi bước lùi lại một bước. Uỵch. Đứa bé nằm vật ra đất.
Đôi mắt vằn đỏ của hắn nhìn khắp xung quanh.
Đêm khuya, trời tối đen, khu miếu không một bóng người.
Không lo.
Không sao, không bị bất cứ ai nhìn thấy.
Tiếng chó con rên ư ử. Đây là một ngôi miếu nhỏ bị bỏ hoang, dân cư trong vùng gần như đã quên mất sự tồn tại của nó. Tiếng chó con hình như vọng ra từ dưới hiên ngôi miếu cũ.
Một đứa bé xúi quẩy!
Hắn lạnh lùng nhìn tấm lưng đứa bé nằm bất động dưới chân.
Chỉ tại con chó đó…
Với hắn, gặp đứa bé này là chuyện bất ngờ. Vì cực hiếm khi thấy trẻ con một mình đi ra ngoài giữa đêm hôm khuya khoắt.
Hắn đang trên đường đi từ chỗ làm thêm về.
Nhìn thấy nó đang nhảy chân sáo trên con đường buổi tối, hắn ngạc nhiên, rồi cảnh giác đề phòng. Hắn cảm thấy đây có thể là một cái bẫy, nhưng nếu không phải thế thì đây lại là một cơ hội quá tốt.
Những bức xúc dồn nén trong lòng bỗng dâng lên, tụ lại, biến thành một ham muốn.
Thằng nhãi con!
Hắn ngay lập tức quyết định phải thăm dò xem sao.
“Em đang làm gì vào giờ này vậy?” Hắn hỏi thằng bé bằng chất giọng nhẹ nhàng.
Đó là một thằng bé khoảng lớp Một hoặc lớp Hai, mặc đồng phục thể thao, bên ngoài khoác áo len màu xanh lam.
Thoạt đầu hình như thằng bé sợ mình sẽ bị mắng, nó giấu hai tay ra sau lưng, ngẩng lên nhìn hắn bằng ánh mắt lo lắng.
“Em có làm gì đâu…” Thằng bé trả lời.
“Anh không giận đâu. Cứ nói xem nào? Chắc phải có chuyện gì đó chứ?”
“Không, thật mà!”
“Nếu không nói thật, anh sẽ đưa em đến đồn công an giao cho các chú cảnh sát. Giờ này trẻ con không được ra đường chơi.”
Thằng bé nghĩ ngợi, rồi chìa hai tay ra. “Em đưa cơm cho Kipi.”
“Kipi? Là ai? Là con chó à?”
“Vâng.” Tay thằng bé cầm một chiếc túi giấy của siêu thị, bên trong có bịch sữa.
“Bố mẹ em ghét nuôi chó, nếu em đưa Kipi về nhà thì bố mẹ sẽ bắt em phải vứt nó đi ngay.”
“À… Cho nên em phải nuôi nó ở một chỗ bí mật chứ gì?”
“Vâng, em nuôi ở ngôi miếu đằng kia.”
“Nhưng tại sao phải ra lúc khuya khoắt thế này?”
Thằng bé lúng túng kể rằng mọi lần nó ra sớm hơn, nhưng tối nay, khi đang tìm cơ hội để chuồn ra mà không bị bố mẹ phát hiện thì nó ngủ quên mất. Nó cũng đã nghĩ ngợi… nhưng cuối cùng lại sợ con chó đói nên vẫn ra để tiếp tế đồ ăn.
Không vấn đề gì. Hắn nghĩ bụng.
Mày là con mồi ngon của tao!
“Anh sẽ đi cùng em! Kẻo đêm khuya thế này, mình em đi sẽ nguy hiểm.”
Nghe xong, thằng bé không chút nghi ngờ hay sợ hãi một người lạ như hắn, lập tức dẫn hắn đến ngôi miếu. Chẳng biết nó vốn ngu ngốc hay ngây thơ, hay tại cha mẹ nó không chỉ bảo…
Mặc kệ! Với hắn thì đây là cơ hội trời ban. Nếu lúc này bất chợt gặp ai đó thì hắn đương nhiên sẽ không ra tay.
Thằng nhãi con!
Hắn chửi thầm, rồi gí mũi chân lật xác thằng bé.
Ai bảo mày ngáng trở công việc của tao!
Ai bảo mày…
Ngáng trở công việc…
Hắn nghĩ bụng, nếu lũ trẻ con ở thành phố này đều chết sạch thì quá hay! Chúng là một bầy động vật vô dụng, không biết suy nghĩ, chẳng sạch sẽ gì. Sao hắn phải trở thành vật hy sinh cho chúng?
Hắn không thích trẻ con, cũng không hiểu tại sao người lớn cứ ra sức tán dương sự trong sáng và khả năng của lũ trẻ. Thật quá vô lý!
Bọn chúng trong sáng ư?
Và tiềm ẩn khả năng vô hạn ư?
Toàn mấy lời nhăng cuội dối trá! Đó không phải thứ ảo tưởng mà xã hội hiện nay tự ý tạo ra à?
Không ai tàn nhẫn bằng lũ trẻ con! Không một kẻ nào chỉ sống vì nhu cầu của bản thân mà chẳng thèm đếm xỉa gì đến người khác như chúng.
Bốn chục đứa trẻ trong một lớp, liệu có mấy đứa đạt được chút ít thành tựu? Chúng đều là đồ rác rưởi. Cái câu ‘có công mài sắt có ngày nên kim’ chỉ là cách an ủi những kẻ thiếu khả năng mà thôi.
Mình là người hiếm hoi đặc biệt tài ba. Hắn tự tin nghĩ. Hắn tin chắc một ngày không xa, hắn sẽ có kiệt tác trong lịch sử văn học tầm cỡ thế giới chứ không chỉ là tầm cỡ quốc gia. Hiện giờ, hắn chưa được công nhận là nhà văn có tài, chỉ bởi vận may chưa đến mà thôi.
Trước tiên là vì tiền. Cha mẹ nghèo khó khiến hắn phải đi làm thuê kiếm sống và không có thì giờ tập trung sáng tác.
Căn phòng trọ lần trước ở một nhà trọ cũ nát, ván sàn ọp ẹp sắp long ra hết, vị trí sát mặt đường, tiếng ồn khiến cửa kính rung suốt ngày đêm. Khách thuê xung quanh vô tư làm ồn. Sống trong không gian tồi tệ như thế, ai mà viết nổi tác phẩm văn học cho ra hồn? Căn phòng trước nữa cũng gần như vậy.
Mùa xuân năm ngoái mới thoát khỏi cái nhà trọ khốn kiếp ấy. Lần này những tưởng được sống tại khu biệt thự ở Kitashiragawa thì sẽ yên thân. Ai dè…
Sau khi đổi phòng, không phải nghe tiếng đàn ghi ta của gã sát vách nữa nhưng công việc vẫn chẳng tiến triển.
Ý tưởng cạn kiệt, câu văn dài dòng, ngôn từ ngây ngô. Chỉ có đống bản thảo bị vo tròn, vứt vào sọt rác là ngày một nhiều lên.
Tại sao một văn sĩ tài hoa xuất chúng như hắn lại không thể sáng tác nổi một tác phẩm? Tại sao hắn phải đau khổ thế này? Tại sao…
Hắn dễ dàng tìm ra câu trả lời.
Tất cả đều tại chúng nó. Do chúng chơi đùa, hò hét ầm ĩ ở bên ngoài.
Chúng quấy rầy hắn, giọng nói của chúng khiến đầu óc hắn rối loạn. Tiếng bước chân của chúng tước đoạt tài năng của hắn.
Ý nghĩ này giống như hòn đá lăn từ trên dốc xuống.
Không chỉ những lúc đối diện với bản thảo, ngay cả khi còn thức hay đã ngủ, dù đi đường, hễ nghe thấy tiếng trẻ con là hắn đều cảm thấy tài năng của mình đang bị bào mòn.
Hoang tưởng bị hại dần dần phình to, chẳng bao lâu sau đã biến thành nỗi căm hận đối với trẻ nhỏ. Hắn nhận ra mình luôn lẩm bẩm ‘Tao sẽ làm thịt chúng mày’ mỗi khi nhìn qua cửa sổ thấy lũ trẻ nô đùa, và hắn tự nghĩ đây là điều tất nhiên.
Tháng Tám năm ngoái, ngày hắn giết đứa trẻ đầu tiên…
Hắn cho rằng mình hoàn toàn vô thức khi giết nó.
Làm xong ca ngày trở về, đi trên con đường bên cạnh mương nước, hắn bị một đứa trẻ va phải.
Thằng nhãi con!
Một ý nghĩ lóe lên, hắn lập tức bóp cổ đứa bé. Đứa bé không kịp kêu một tiếng, cũng tắt thở luôn.
Lúc ấy là hoàng hôn.
Tiếng trẻ con nô đùa gần đó khiến hắn hoảng hốt, vội kéo nạn nhân vứt xuống mương.
Không một chút cảm giác tội lỗi, trái lại, vô cùng nhẹ nhõm. Hắn thậm chí còn nghĩ rằng, “Đó là sự trừng phạt vì đã cản trở việc sáng tác của tao… Tao phải tự bảo vệ mình. Tao phải bảo vệ tài năng của mình khỏi sự tấn công của bọn mày.”
Đứa bé bị giết không gây tiếng ồn trước cửa sổ nhà hắn, nhưng hắn cho rằng đó không phải bản chất của vấn đề.
Giải quyết nó xong, đầu óc hắn hết sức tỉnh táo. Trước đây, cả ngày không viết nổi một trang bản thảo nhưng đêm ấy hắn viết một mạch được hơn chục trang.
Vụ sát hại đứa trẻ thứ hai trong chùa Pháp Nhiên, nên nói là hắn chủ động đi tìm con mồi chứ không phải hành vi bột phát. Vì bấy giờ, hắn đã tìm thấy giá trị tích cực trong hành vi giết người.
Sau khi giết người thì sáng tác thuận lợi nhanh chóng, đến nỗi chính hắn cũng phải ngạc nhiên. Đây là sự thật. Nhưng cùng với thời gian thì hiệu quả lại dần giảm sút. Thế nên, hắn không thể không tiếp tục chiến đấu để bảo vệ tài năng của mình.
Các vụ giết người liên tiếp xảy ra khiến cảnh sát và phụ huynh đều cảnh giác cao độ, hắn không dám chủ quan làm bừa nữa. Cho đến đâu tháng Mười hai, hắn mới tóm được con mồi thứ ba.
Đã một tháng trôi qua. Hôm nay là 12 tháng Giêng, hắn lại cảm thấy cần tự bảo vệ mình.
Cuốn tiểu thuyết đang sáng tác còn lâu mới hoàn thành. Không chỉ vì tiếng trẻ con nô đùa ầm ĩ mà sau vụ cháy năm ngoái, tiếng chân bước của những người chăm sóc tên chủ nhà cũng khiến hắn bực mình. Sau khi đổi phòng trọ, tưởng sẽ nghĩ ra thứ gì đó hay ho thì lại đến phiên tên chủ nhà giở trò đào bới ngoài sân, gây tiếng ồn rất khó chịu.
Tuy nhiên…
Hắn lại nhìn xuống cái xác dưới chân.
Mình đã thấy dễ chịu hơn một chút…
Tiếng con chó con kêu ư ử buồn bã vang bên tai, nó than thở cho sự bất hạnh của đứa trẻ vẫn mang đồ ăn đến cho mình hay chỉ vì đang đói bụng?
Hắn rời khỏi chỗ đó, điều chỉnh nhịp thở gấp gáp, bước về phía cổng ra khỏi khu miếu.
Đằng trước có tiếng bước chân vọng lại. Hắn giật mình sợ hãi, chạy một mạch đến chỗ cổng miếu. Nhưng…
Mình lo hão chăng?
Hắn cố nhìn ngó hai bên đường tối om, không một bóng người.
Không lo, không vấn đề gì.
Hắn vẫn không có chút cảm giác tội lỗi nào.
Nếu trừng trị kẻ ác là chức trách của Thượng đế, thì những người vô tội sẽ không bị trừng trị gì hết. Hắn tin tưởng vào điều đó.