- 8 -
Thấy vụ này quai quái, tôi biên tập lại những buổi trò chuyện với lão Kiên, thêm thắt chi tiết, dựng đứng một vài cảnh ngộ, biến nó thành truyện huyền bí hù thiên hạ chơi, đầu truyện ghi rõ không nên đọc lúc nửa đêm, xong gửi chui cho một tạp chí văn học hải ngoại được đánh giá là cấp tiến, đăng tả-pín-lù bài vở phe ta phe địch. Thật bất ngờ, ít tháng sau tôi nhận được thư mời lĩnh nhuận bút chợ đen qua trung gian người môi giới, kèm theo là mấy lời khen nhã nhặn khích lệ gửi thêm sáng tác mới.
Không phải tôi muốn trở thành nhà văn hay làm thêm để tăng thu nhập. Âm vọng từ những bài thơ chép trong tập giấy pơ-luya hồng, mớ tiểu thuyết diễm tình với những nhân vật thuộc thế hệ lạc loài mất phương hướng, tư tưởng hàn lâm siêu hình của các triết gia nội ngoại, nhạc vàng với ca từ đầy dẫy những ngu ngơ thụy du vô thường miên trường tinh cầu ngã son vàng lả tả... bấy lâu nay ngủ đông đâu đó, bỗng chỗi dậy xô giạt các công thức hình học đại số, lao động tiền lương, kết toán cuối năm, ca đêm trực hãng dệt, thi đua bình bầu... Những câu chuyện của tôi mang khí hậu nhiệt đới oi oi âm ẩm lồng trong bối cảnh ma quái đầy ám ảnh dĩ vãng có vẻ như hợp khẩu vị độc giả Việt kiều xa quê. Thời kỳ này tôi nhũn xuống, mềm đi. Chỉ là nhu cầu bày hàng cảm xúc thôi, nhưng khi viết tôi thấy thống khoái như đang rong chơi với một người bạn đường đồng điệu. Người bạn này không lêu lêu mắc cỡ lé kim liếm ke hay Dũng-Lang Lãng Dung. Đại khái là ban ngày đứng làm việc xác, ban đêm ngồi vọc phần hồn. Không thể có sự quân bình nào tuyệt đối hơn.
Sực đếm ngược thấy thấm thoát đã gần 10 năm tính từ cuộc ba đào của chị Du. Không lần nào chị về thăm. Thằng cu hẳn sắp xong trung học. Mẹ nhiều tóc bạc hơn nhưng lưng vẫn thẳng trong khi ông Dũng càng ngày càng cong vẹo. Yếu rồi. Chỉ ngửi ngửi chút đế đã lừ đừ, làm như trong người có sẵn hèm, hơi cồn bay thoảng qua cũng đủ làm dậy men. Nội công chửi thề cũng xìu, miệng ú ớ phát ra hết nổi hai chữ đụ mẹ vành vạnh như trước kia. Tôi được tay quản đốc tin dùng, cất nhắc lên làm phó phòng nhân sự, thôi đứng máy. Lực viết vẫn vậy, đều đều tâm cảnh nhiệt đới với các nhân vật không ai khác hơn là người trong nhà, không có dấu hiệu đột phá hay cách tân khiến các nhà phê bình văn học lúc đầu nhấp nha nhấp nhổm, nay chỉ ngồi ngáp ruồi ứ hự. Lâu lâu chị Du gửi về 100 đô-la cho mẹ ăn trầu. Chị quên là dạo phải chắt bóp từng đồng mua gạo, mẹ đã trải qua thời kỳ cai trầu vất vả thấy thương đứt ruột.
Giữa lúc mọi thứ như đã vào nếp, kể cả nếp nhăn cuối hai đuôi mắt mông lung của cô em gái nay đã 30, chị Du gửi thư về tỏ ý muốn bảo lãnh mẹ qua Mỹ. Trong thư chị kể chuyện đi làm phải lái xe rất xa giữa trời tuyết, chuyện chị đi học lại, vừa lấy được bằng cử nhân trễ tràng ở tuổi 40, chuyện thằng cu rất ngoan biết săn sóc khi mẹ bệnh, chuyện chỗ ở gần chợ có bán cả trầu cau. Cuối thư chị không quên kèm thêm một câu mặn chát, mẹ đừng để con Dung giặt quần áo dơ ở máy nước công cộng. Mẹ tôi hỏi, chị Hai mầy nói vậy là sao? Tôi cười một mình đắc thắng. Chị Du, vì lý do nào đó, vẫn theo dõi cuộc chạy bộ việt dã của con nặc nô.
Để xúc tiến giấy tờ xuất cảnh, tôi phải đưa hai ông bà già 70 tuổi lụm cụm ra tòa án nhân dân quận làm thủ tục ly dị tuy trước giờ họ chưa hề có giấy hôn thú. Luật pháp gọi đó là hôn nhân xã hội vì hai cụ đã có 30 năm chung sống như vợ chồng xóm giềng ai cũng biết. Tôi được giải thích rằng việc ly dị đơn giản chỉ để làm cho thủ tục xuất cảnh của bà cụ được dễ dàng, không bị ràng buộc tài sản chung. Hiểu vậy nhưng vẫn thấy oái oăm, mặc dù trong những năm qua đã biết bao nhiêu phen tôi muốn rủ mẹ bỏ trốn lần nữa mà không phải nhờ đến pháp luật. Nhà ái quốc biết phận, chẳng những không đòi xuất ngoại còn khẩu khí bảo:
- Sang đó khó chơi. Muốn giấy tờ chi tao ký tuốt miễn mẹ tụi bây sung sướng tuổi già.
Bà thẩm phán nheo nheo mắt tra vấn từng người vì tò mò hơn là nguyên tắc. Tới một lúc tự dưng ông Dũng mếu máo:
- Tôi còn thương bả lắm, bởi thời cuộc đưa đẩy mới ra nông nỗi này.
Mẹ tôi hứ một tiếng rồi quay ngang.
Lình xình giấy này giấy nọ cũng lâu mẹ mới thực sự chuẩn bị cho ngày đi. Trước khi rời nhà mẹ đi vòng vòng vừa sờ món này nắn món nọ vừa quệt nước mắt. Cầm cả hai tay của tôi bóp bóp, giọng mẹ rớt ra từng mảng:
- Thôi con ở lại rán lo cho ba, ổng già rồi chắc không còn sống được bao lâu ; chị con số phận chìm nổi phải vượt sông vượt biển tính mệnh lắt lẻo vậy mà bây giờ mẹ đường hoàng bay trên trời thật quá bất công...
Ông Dũng đang sần sần ngồi gần đó nghe vậy đâm hơi:
- Giày dép nó còn có số...
Hai người có nhìn nhau một khắc, tình như một đường gươm... Không ngờ đó là nhát cuối cùng họ đả thương nhau.Tôi đưa mẹ ra phi trường, hai mẹ con ôm nhau hoài đến nóng cả ngực.
Mẹ khuất trong kia rồi tôi còn đứng nán lại rất lâu, mắt nhìn xuống chỉ thấy chân người rộn rịp đan mắc chằng chéo với hành lý kéo rèn rẹt trên sàn gạch trơn bóng. Họ nô nức đi đâu vậy, có bao nhiêu tâm trạng? Phần lớn chắc hăm hở đi tìm chân trời mới, chỉ có mẹ ê chề nghĩ chính ở cái lằn tiếp giáp với mặt đất đó, mặt trời sẽ lặn xuống. Nói theo lão Kiên, ai cũng ôm ấp một chân trời, sắc độ tùy gu thẩm mỹ. Gu của mẹ giờ đây là màu vàng cam đang ngã tía và bầm. Thử tưởng tượng xem mẹ sẽ làm gì nơi đó? Xần quần trong căn hộ chung cư của chị Du trong khi chị đi làm, thằng cu đi học, cuồng cẳng nhưng không biết đường sá để có thể trưa trưa chụp cái nón lá lên đầu đi bộ qua nhà bà giáo Lương nói chuyện chợ búa chơi, trời lạnh co ro nằm đến xoạc cả tóc tai, vật dụng trong nhà không dám mó tới sợ cháy nổ... Mẹ đi vì mỏi mệt. Mẹ đầu hàng cuộc kháng chiến trường kỳ của ông Dũng, dù ánh nhìn vẫn còn bén mà không ác và xương quai hàm vẫn cứ vuông vuông.
Còn chân trời của tôi màu gì? Chắc như đinh đóng cột, màu tím không phải gu tôi. Nó phải xanh lá cây, vì thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ điếng khu vườn bao quanh căn nhà ba gian hai chái ở Vàm Mương. Có khi nó có màu nâu quạch của đất, đỏ tươi của chuồn chuồn, trắng ngà của bông dừa rụng đầy lạch nước sau hè. Hiện giờ nó màu gì vằn vện thấy ớn. Đã đến lúc xếp đặt lại cuộc đời một lần nữa. Ôi, sao chỉ có một cuộc đời mà cứ phải làm đi làm lại hoài phát mệt.
Không thể bỏ ông già 70 lớ ngớ một mình cả ngày để bươn chải cho chuyện bá láp bá xàm ở hãng dệt, tôi nộp đơn xin thôi việc. Lương lậu ổn định nhưng tính ra không bao nhiêu, nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn công nhân viên thì ai nấy cũng đã ngán ngược chuyện chia chác lụn vụn, gây thù chuốc oán, nói hành nói tỏi miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Mỗi người cố sức làm như chỉ có mình là thanh cao. Cầm lá đơn, quản đốc ớ ra, nói một câu na ná kiểu ông Dũng phê lão Kiên:
- Bức xúc gì anh em tính cho, sao lại nghỉ việc?
- Anh Mười thông cảm, ba em già quá rồi, nhà lại neo đơn không có ai trông nom. Em đã được anh em giúp đỡ rất nhiều trong thời gian dài làm việc ở đây.
- Rồi em làm gì để sống?
- Có chị Bảy ở gần nhà rủ em hùn hạp bán cơm tấm cho khách trong xóm.
- Bán như vậy mỗi ngày được bao nhiêu đâu! Em suy nghĩ cho kỹ, cần gì nói anh giúp cho.
Quản đốc tử tế thật. Ngoài cái miệng bông lơn tán phét với đám thợ nữ cho vui qua ngày, ông ta không hề bốc hốt suồng sã. Nghe thì tưởng âm mưu lừa con phản vợ rủ các em gái ngồi quán cà phê với ý đồ đen tối, thực sự ông ta chỉ muốn giao lưu tình cảm vu vơ để châm cứu dây thần kinh cười vốn bị triệt vì có mụ vợ bị liệt cơ môi. Nghe giọng cười ha hả hào sãng thì biết người lành. Vậy chứ đã có lúc tôi hiểu lầm nghĩ đàn ông là cái thứ...