Chương ba PHIÊN TÒA VÀ NỖI ĐAU
Sau hàng tháng trời mệt mỏi, thất bại và ngày càng bị công chúng coi thường, cảnh sát trưởng Thomas Tate, điều tra viên chính của ABI Simon Benson, và điều tra viên của ủy viên công tố Larry Ikner quyết định bắt giữ Walter McMillian dựa trên cáo buộc của Ralph Myers. Họ chưa điều tra kỹ về McMillian, vì vậy họ quyết định kiếm cớ bắt giữ anh trong khi chờ xây dựng cáo trạng. Khi Myers tuyên bố mình rất sợ McMillian, một cán bộ gợi ý liệu có phải McMillian đã tấn công tình dục y. Ý tưởng đó khiêu khích và kích động đến nỗi Myers lập tức nhận ra tác dụng của nó và buồn bã thừa nhận đó là sự thật. Luật pháp bang Alabama khi đó nghiêm cấm hoạt động tình dục phi sinh sản, vì vậy các quan chức lên kế hoạch bắt giữ McMillian về tội kê gian.*
Kê gian là hành vi quan hệ tình dục qua đường miệng hoặc đường hậu môn, hoặc quan hệ tình dục giữa người và động vật. Tại Mỹ, kê gian từng bị coi là phạm pháp theo luật pháp của từng tiểu bang; cho tới năm 2003, những đạo luật cấm kê gian cuối cùng đã bị Tối cao Pháp viện vô hiệu hóa trong vụ Lawrence V. Texas. (ND.)
Ngày 7 tháng Sáu năm 1987, cảnh sát trưởng Tate dẫn đầu một đội quân gồm hơn chục cảnh sát tới con đường ngoại ô mà họ biết rằng Walter sẽ đi qua trên đường về nhà. Cảnh sát chặn xe tải của Walter, chĩa súng, buộc anh rời xe và bao vây anh. Tate tuyên bố anh đã bị bắt. Khi Walter hoảng hốt hỏi cảnh sát trưởng anh đã làm gì sai, ông ta nói anh bị buộc tội kê gian. Bối rối trước thuật ngữ xa lạ, Walter bảo anh không hiểu kê gian nghĩa là gì. Khi cảnh sát trưởng giải thích lời buộc tội bằng ngôn ngữ thông tục, Walter không thể tin vào tai mình, anh không nhịn nổi cười.
Thái độ này khiêu khích Tate, làm ông ta phun ra một tràng những lời đe dọa và lăng mạ chủng tộc. Nhiều năm sau, Walter vẫn kể lại rằng tất cả những gì anh nghe thấy trong suốt cuộc bắt giữ là từ thằng mọi đen, lặp đi lặp lại. “Thằng mọi này”, “thằng mọi kia”, kế đến là những lời lăng mạ và đe dọa hành hình.
“Bọn tao sẽ không để lũ mọi đen chúng mày [1] chạy loăng quăng với mấy con da trắng nữa. Tao sẽ trừ khử và treo cổ mày giống như thằng mọi ở Mobile,” Tate nói với Walter.
Viên cảnh sát trưởng nói đến vụ hành hình một thanh niên gốc Phi tên là Michael Donald ở hạt Mobile, cách đó khoảng sáu mươi dặm về phía Nam. Một buổi tối, Donald đi bộ từ cửa hàng về nhà; trước đó nhiều giờ, phiên tòa xử một người đàn ông da đen tội bắn một cảnh sát da trắng vừa được tuyên bố đình chỉ. Nhiều người da trắng bị sốc và cho rằng quyết định đình chỉ này là do những người gốc Phi trong bồi thẩm đoàn gây ra. Sau khi đốt một cây thập tự trên bãi cỏ tòa án, một nhóm đàn ông da trắng dữ tợn là thành viên của hội Ku Klux Klan lùng sục tìm kiếm ai đó để trừng phạt cho hả. Bọn họ thấy Donald khi anh đang đi trên đường và bỗng chốc anh trở thành con mồi. Sau khi đánh đập anh dã man, bọn họ treo anh lên một cái cây gần đó, nơi thi thể bất động của anh được tìm thấy sau vài giờ.
Cảnh sát địa phương bỏ qua bằng chứng hiển nhiên rằng cái chết của Donald là một tội ác vì thù ghét, họ đưa ra giả thuyết Donald chắc chắn có dính dáng đến buôn bán ma túy. Mẹ anh thẳng thừng bác bỏ cáo buộc này. Phẫn nộ trước sự thờ ơ của các nhà chấp pháp địa phương trước vụ việc, cộng đồng người da đen và các nhà vận động dân quyền đã thuyết phục Bộ Tư pháp Hoa Kỳ can thiệp. Hai năm sau, ba người da trắng bị bắt giữ và chi tiết của vụ hành hình cuối cùng cũng được công bố.
Đã hơn ba năm trôi qua kể từ sau vụ bắt giữ đó, nhưng khi bị Tate và các viên chức khác dọa hành hình, Walter vẫn hoảng sợ. Anh cũng bối rối không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Họ nói anh bị bắt vì tội cưỡng hiếp một người đàn ông khác, nhưng lại thẩm vấn anh về vụ sát hại Ronda Morrison. Walter kịch liệt bác bỏ cả hai cáo buộc. Khi các viên chức ngộ ra rằng họ không thể trông đợi thu được gì ở Walter để xây dựng cáo trạng chống lại anh, họ tống giam anh và tiếp tục điều tra.
Khi nghe những bằng chứng chống lại Walter McMillian do các điều tra viên cung cấp lần đầu, công tố viên của hạt Monroe, Ted Pearson, hẳn phải rất thất vọng. Câu chuyện do Ralph Myers sáng tác khá vô lý; tài tô vẽ của y đã khiến cho những cáo buộc dù đơn giản nhất cũng trở nên rối rắm một cách không cần thiết.
Myers đã khai về vụ sát hại Ronda Morrison như sau: Vào ngày xảy ra án mạng, Myers đang mua xăng thì Walter McMillian trông thấy y ở trạm xăng. Walter chĩa súng ép y lên xe tải của Myers và lái đi Monroeville. Trước đó Myers còn không thực sự quen biết Walter. Yên vị trên xe, Walter bảo Myers rằng anh ta cần Myers lái xe vì tay anh ta bị đau. Myers từ chối nhưng không còn lựa chọn nào khác. Walter yêu cầu Myers lái xe tới hiệu giặt là Jackson ở trung tâm Monroeville, rồi bảo y ngồi chờ trong xe còn McMillian đi vào một mình. Đợi lâu quá, Myers lái xe dọc phố tới một cửa hàng tạp hóa để mua thuốc lá. Mười phút sau, y trở lại. Sau khi chờ một lúc lâu, cuối cùng Myers thấy McMillian bước ra khỏi cửa hiệu và quay trở lại xe. Trong xe, McMillian thừa nhận anh ta đã giết người thu ngân. Sau đó, Myers lái xe đưa McMillian quay lại trạm xăng để anh ta lấy xe của mình. Trước khi Myers đi, Walter dọa giết nếu Myers kể với bất kỳ ai về những chuyện y đã làm và chứng kiến.
Tóm lại, một người đàn ông gốc Phi lên kế hoạch cướp của giết người giữa ban ngày ở trung tâm Monroeville, dừng xe ở một trạm xăng và chọn ngẫu nhiên một người đàn ông da trắng làm đồng phạm với mình, viện lý do đau tay để bắt anh này giúp lái xe đến rồi rời khỏi nơi gây án, mặc dù anh ta có thể tự lái xe đến trạm xăng nơi anh ta gặp Myers và tự lái xe về sau khi thả Myers ở trạm xăng.
Các nhà chấp pháp biết câu chuyện của Myers rất khó xác minh, vì vậy họ bắt giữ Walter vì tội kê gian. Điều này gây sốc cho cộng đồng và bôi nhọ hình ảnh của McMillian, đồng thời là cái cớ để cảnh sát mang chiếc xe tải của Walter về trại giam cho Bill Hooks xem.
Bill Hooks là một thanh niên da đen nổi tiếng là một tay chỉ điểm trong tù. Hắn đã bị giam trong trại tạm giam của hạt vì tội trộm cắp được vài ngày khi McMillian bị bắt. Cảnh sát hứa sẽ phóng thích và cho Hooks tiền nếu hắn có thể kết nối vụ sát hại Morrison với chiếc xe tải của McMillian. Hooks hăm hở khai với các điều tra viên rằng hắn đã lái xe qua hiệu Jackson Clearners gần thời điểm xảy ra án mạng và trông thấy một chiếc xe tải chuồn khỏi cửa hiệu với hai người đàn ông ngồi trong. Trong trại, Hooks tích cực khẳng định chiếc xe tải của Walter chính là chiếc xe mà hắn đã nhìn thấy ở cửa hiệu giặt là gần sáu tháng trước.
Nhân chứng thứ hai này đã cho các nhà chấp pháp thứ mà họ cần để cáo buộc Walter McMillian tội giết người với mức án tử hình trong vụ án Ronda Morrrison.
Khi bản cáo trạng được công bố, cộng đồng mừng vui như trút được gánh nặng vì có kẻ đã bị khép tội. Cảnh sát trưởng Tate, công tố viên, và các nhà chấp pháp khác vốn là đối tượng bị chỉ trích, giờ lại được tung hô. Cuộc sống yên bình ở Monroeville bị phá vỡ vì sự nhởn nhơ của “thủ phạm” lúc chưa bị bắt, giờ có thể ổn định trở lại.
Những người biết Walter thấy khó mà tin được chuyện anh phải chịu trách nhiệm cho một vụ thảm án như vậy. Anh không có tiền án phạm tội hay gây gổ gì, và với phần lớn những người quen biết anh, chuyện một người làm ăn chăm chỉ như Walter trộm cướp nghe thật phi lý.
Những người dân da đen nói với cảnh sát trưởng Tate rằng ông ta đã bắt nhầm người. Tate vẫn chưa điều tra chút gì về con người McMillian, về cuộc đời, thân thế, thậm chí cả về hành tung của anh hôm xảy ra án mạng. Ông ta biết về cuộc tình của anh với Karen Kelly và nghe thấy dân tình nghi ngờ, đồn đại rằng phải buôn bán ma túy thì Walter mới có thể sống độc lập như vậy. Vì nóng lòng muốn bắt giữ thủ phạm, chừng đó bằng chứng là đủ để Tate chấp nhận cáo buộc của Myers. Nhưng hóa ra vào ngày xảy ra án mạng, một buổi chiên cá* đã được tổ chức tại nhà Walter. Các thành viên trong gia đình anh tụ tập cả ngày ở ngoài, phía trước ngôi nhà, bán đồ ăn cho người qua đường. Evelyn Smith, chị gái của Walter, là mục sư ở nhà thờ địa phương. Chị và gia đình thỉnh thoảng lại tổ chức gây quỹ cho nhà thờ bằng cách bán đồ ăn bên đường. Vì nhà Walter ở gần đường cái hơn, nên họ thường bán hàng ở sân trước nhà anh. Buổi sáng hôm Ronda Morrison bị giết, có ít nhất hơn chục giáo dân cũng có mặt ở đó cùng Walter và gia đình anh.
Nguyên văn: fish fry (từ Mỹ, nghĩa Mỹ), là một sự kiện ngoài trời tổ chức với mục đích gây quỹ, trong đó cá là món ăn chính, (ND.)
Hôm ấy Walter không đi đốn cây. Anh quyết định thay hộp số xe tải và gọi người bạn thợ máy tên là Jimmy Hunter tới giúp. Tới 9 giờ 30 phút sáng, hai người tháo xong hộp số. 11 giờ trưa, họ hàng đến đông đủ, và mọi người bắt đầu chiên cá cùng các món khác để bán. Một lúc sau, một vài thành viên nhà thờ mới tới.
“Sơ ạ, chúng tôi định đến sớm hơn, nhưng đường sá ở Monroeville tắc cứng. Khắp nơi là xe cảnh sát với xe cứu hỏa, hình như có chuyện không hay xảy ra ở chỗ hiệu giặt là,” Evelyn Smith nhớ rằng một người đã kể lại như thế.
Theo báo cáo của cảnh sát, vụ sát hại Morrison xảy ra vào khoảng 10 giờ 15 phút sáng, cách nhà McMillian khoảng mười một dặm, đúng thời điểm đó, có hơn một chục thành viên nhà thờ đang ở nhà Walter bán đồ ăn trong khi Walter và Jimmy sửa xe. Đầu giờ chiều hôm đó, Ernest Welch, một người đàn ông da trắng, mà những người dân da đen quanh vùng gọi là “lão đồ gỗ” vì ông này làm việc cho một cửa hàng đồ gỗ địa phương, tới thu tiền một món đồ mà mẹ Walter mua chịu. Welch kể với mọi người ở nhà Walter rằng sáng đó cháu gái ông ta đã bị giết tại hiệu giặt là Jackson. Họ đã nói chuyện với Welch một lúc về cái tin gây sốc đó.
Tính cả các thành viên nhà thờ, gia đình Walter và những người dừng lại để mua bánh mì kẹp tại sân nhà anh, có tới hàng chục người có thể xác nhận rằng Walter không thể gây ra vụ giết người. Trong số đó có một viên cảnh sát, anh này đã ghé mua bánh mì và ghi lại trong nhật ký công vụ rằng anh ta đã mua đồ ăn ở nhà McMillian, nơi có mặt Walter và một nhóm người của nhà thờ.
Biết rõ Walter ở đâu vào thời điểm xảy ra vụ giết Morrison, các thành viên trong gia đình, thành viên nhà thờ, các mục sư da đen và nhiều người khác đã khẩn nài cảnh sát trưởng Tate thả McMillian. Nhưng Tate bất chấp. Lâu lắm mới bắt được một người, vì vậy cảnh sát không thể thừa nhận thất bại một lần nữa. Sau khi bàn bạc, công tố viên bang, cảnh sát trưởng, và điều tra viên của ABI nhất trí kiên định với cáo buộc dành cho McMillian.
Chứng cứ ngoại phạm của Walter không phải là vấn đề duy nhất đối với những người thực thi pháp luật. Ralph Myers bắt đầu băn khoăn về cáo buộc của y đối với McMillian. Y cũng có nguy cơ bị buộc tội trong vụ sát hại Morrison. Y đã được hứa hẹn sẽ không bị kết án tử hình và sẽ được đối xử ưu ái để đổi lấy lời khai, nhưng y bắt đầu ngộ ra rằng việc thừa nhận có liên can tới một vụ giết người nghiêm trọng mà thực ra y không hề nhúng tay vào không phải là một hành động thông minh lắm.
Vài ngày trước khi cáo buộc giết người chống lại McMillian được công bố, Myers đòi gặp các điều tra viên và nói với họ rằng lời buộc tội của y đối với McMillian là sai sự thật. Tới lúc này, Tate và các điều tra viên không còn quan tâm tới việc Myers rút lại lời khai nữa. Thay vào đó, họ quyết định gây sức ép để Myers sáng tác thêm các chi tiết buộc tội. Khi Myers phản ứng rằng y không còn chi tiết buộc tội nào nữa vì câu chuyện của anh ta là bịa đặt, các điều tra viên không tin. Không rõ ai đã quyết định tống cả Myers và McMillian vào trại tử tù trước khi xét xử để tạo thêm áp lực, nhưng chiêu thức gần như chưa từng có tiền lệ này tỏ ra hiệu nghiệm.
Bỏ tù những nghi phạm như Walter và Myers để trừng phạt là bất hợp pháp. Người bị tạm giữ trước khi xét xử thường được giam trong các trại tạm giam địa phương; ở đấy, họ được hưởng nhiều đặc quyền và tự do hơn so với những tù nhân đã bị kết án. Giam một người chưa qua xét xử vào nhà tù dành riêng cho những người mắc trọng tội đã bị kết án, hay giam một người chưa bị kết án vào trại tử tù là việc hầu như chưa từng có. Ngay cả các tử tù khác cũng bị sốc. Trại tử tù là nơi giam giữ hà khắc nhất được phép hoạt động. Tù nhân bị giam riêng rẽ trong những xà lim nhỏ hẹp hai mươi ba tiếng một ngày. Họ không có nhiều cơ hội vận động thể chất hay được người thân tới thăm nom, khoảng cách giữa buồng giam và ghế điện gần đến rợn người.
Cảnh sát trưởng Tate đã lái xe một quãng ngắn để áp tải Walter tới Trại Cải huấn Holman ở Atmore, Alabama. Trước chuyến đi, viên cảnh sát trưởng lại một lần nữa dọa dẫm Walter bằng những lời lẽ sỉ nhục chủng tộc và những kế hoạch ghê sợ. Dù Tate có quen biết người của nhà tù từ ngày còn làm quản chế, song không rõ bằng cách nào Tate đã thuyết phục được giám đốc trại Holman cho giam hai nghi phạm tại đây. Ngày 1 tháng Tám năm 1987, Myers và McMillian bị chuyển từ trại tạm giam của hạt tới trại tử tù, khi chỉ còn chưa đầy một tháng là sẽ đến ngày Wayne Ritter bị xử tử.
Khi Walter McMillian tới trại tử tù Alabama - mười năm sau khi hình phạt tử hình hiện đại được khôi phục, có cả một cộng đồng những người bị kết án đang chờ đợi anh. Kể từ khi hình phạt tử hình được khôi phục năm 1975, đa số trong khoảng một trăm tử tù bị kết án ở Alabama là người da đen, dù vậy Walter không khỏi ngạc nhiên khi biết gần bốn mươi phần trăm trong số đó là người da trắng. Tất cả đều nghèo, và họ đều hỏi tại sao anh lại ở đây.
Các tù nhân chịu án ở trại tử tù Alabama bị giam trong những khối nhà bê tông không có cửa sổ, nóng bức và khó chịu kinh hoàng. Mỗi người ở trong một xà lim rộng chưa đầy bốn mét vuông có cửa kim loại, bồn cầu và một cái giường bằng thép. Tháng Tám thường có những đợt nóng kéo dài nhiều ngày hoặc nhiều tuần, nhiệt độ luôn ở mức trên 38 độ C. Tù nhân thường bẫy chuột, nhện độc và rắn trong tù để giải khuây và tự vệ. Bị cô lập và ở chốn xa xôi, hầu hết các tù nhân ít khi được thăm nuôi và được hưởng rất ít quyền lợi.
Sự tồn tại ở Holman tập trung quanh chiếc ghế điện. Chiếc ghế lớn bằng gỗ được lắp ở đây từ những năm 1930, các tù nhân đã phủ sơn vàng trước khi gắn đai da và các điện cực cho nó. Họ gọi nó là “Mama Vàng”. Các cuộc xử tử ở Holman đã được khôi phục vài năm trước khi Walter đến. John Evans và Arthur Jones mới bị cho điện giật chết trong phòng thi hành án của Holman trước đó không lâu. Russ Canan, một luật sư của Ủy ban Bảo vệ Tù nhân miền Nam Atlanta, đã tình nguyện đại diện cho Evans. Evans từng tham gia một bộ phim mà sau này trở thành học liệu ngoại khóa đặc biệt dành cho trẻ em, trong đó anh chia sẻ câu chuyện đời mình với các học sinh và khuyên các em tránh những sai lầm mà anh đã phạm phải.
Sau khi tòa án từ chối đình chỉ thi hành án Evans sau một loạt đơn kháng cáo, Canan đã tới nhà tù chứng kiến vụ tử hình theo đề nghị của Evans. Nó khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng của Canan. Về sau, anh đã viết một bản khai miêu tả chi tiết toàn bộ quá trình ghê rợn đó.
8 giờ 30 phút tối, luồng điện đầu tiên mạnh 1900 vôn chạy qua cơ thể Evans. Nó kéo dài 30 giây. Những tia lửa và lưỡi lửa bắn ra từ điện cực gắn ở chân trái Evans. Thân người Evans giật mạnh giữa những dây đai buộc anh vào chiếc ghế điện, tay anh nắm chặt. Điện cực hình như bật tung khỏi chiếc đai. Một luồng khói xám và tia lửa phun ra từ dưới chiếc mũ trùm mặt Evans. Cái mùi ghê rợn của thịt và quần áo cháy bắt đầu lan sang buồng nhân chứng. Hai bác sĩ khám nghiệm Evans và tuyên bố anh chưa chết.
Điện cực trên chân trái được thít chặt lại. Lúc 8 giờ 30 phút tối [tác giả viết nhầm], Evans trải qua luồng điện thứ hai. Mùi thịt cháy buồn nôn kinh khủng. Khói tiếp tục bốc ra từ chân và đầu anh. Các bác sĩ khám nghiệm Evans một lần nữa. Họ thông báo tim anh vẫn đập, và anh vẫn sống.
Tôi đề nghị giám đốc nhà tù, lúc đó đang nói chuyện điện thoại với Thống đốc George Wallace, mở lượng khoan hồng với lý do Evans đang phải chịu sự trừng phạt dã man và bất thường. Đề nghị của tôi bị từ chối.
8 giờ 40 phút tối, luồng điện thứ ba [2] kéo dài 30 giây chạy qua cơ thể Evans. 8 giờ 44 phút, các bác sĩ tuyên bố anh đã chết. Vụ tử hình John Evans kéo dài 14 phút.
Trước khi tới Holman, Walter McMillian không hay biết chút gì về những chuyện như thế này. Nhưng vì một cuộc tử hình nữa sắp diễn ra, nên khi Walter đến, các tù nhân chỉ nói chuyện về chiếc ghế điện. Trong ba tuần đầu tiên ở trại tử tù Alabama, cuộc xử tử đáng sợ của John Evans gần như là tất cả những gì anh nghe được.
Cơn sóng gió không tưởng của những tuần qua đã làm Walter suy sụp. Sau khi sống cả cuộc đời tự do và không bị kìm hãm bởi bất cứ ai hay bất cứ điều gì, anh bỗng chốc bị giam hãm và đe dọa theo cách anh không bao giờ tưởng tượng nổi. Sự hung bạo của những người bắt giữ anh, những lời sỉ nhục sặc mùi kỳ thị chủng tộc và hăm dọa từ các sĩ quan cảnh sát không quen biết làm Walter bị sốc. Anh cảm thấy ở những người đã bắt giữ và xét xử anh, thậm chí cả những tù nhân khác trong trại tạm giam, một sự khinh rẻ mà anh chưa từng trải qua. Anh từng được quý mến và có quan hệ tốt với hầu hết mọi người. Anh thực tâm tin rằng những lời cáo buộc chống lại anh là một sự hiểu lầm tai hại, và rằng khi các nhà chức trách nói chuyện với gia đình anh để xác nhận bằng chứng ngoại phạm của anh, chỉ một hai ngày là anh sẽ được trả tự do. Khi ngày kéo dài mãi thành tuần, Walter bắt đầu chìm vào tuyệt vọng. Gia đình động viên anh rằng anh sẽ sớm được thả, nhưng mọi sự vẫn im lìm như không.
Cơ thể anh phản ứng với cú sốc đó. Là người nghiện thuốc lá, Walter cố hút thuốc để giữ bình tĩnh, nhưng ở Holman, anh cảm thấy buồn nôn mỗi khi hút thuốc và phải bỏ ngay lập tức. Suốt nhiều ngày liền, anh không thể nuốt trôi thứ gì. Anh bị mất phương hướng và không thể giữ bình tĩnh. Mỗi sớm thức dậy, anh chỉ cảm thấy bình thường trong vài phút rồi lại chìm sâu vào nỗi khiếp sợ khi nhớ ra mình đang ở đâu. Nhân viên nhà tù đã cạo hết râu tóc của anh. Nhìn vào gương, anh không nhận ra nổi mình.
Trại tạm giam của hạt, nơi giam giữ Walter trước khi anh bị thuyên chuyển, rất khủng khiếp. Nhưng xà lim chật chội, nóng bức của trại tử tù Holman còn tồi tệ hơn nhiều. Anh đã quen làm việc ngoài trời với cây cối và mùi thông tươi thoảng trong gió mát. Lúc này anh chỉ biết dán mắt vào những bức tường ảm đạm của trại tử tù. Nỗi sợ hãi và tuyệt vọng khác với tất cả những gì từng trải qua bắt đầu bắt rễ trong con người Walter.
Các bạn tù liên tục an ủi, nhưng anh không biết phải tin ai. Thẩm phán đã chỉ định luật sư đại diện cho anh, đó là một người da trắng mà Walter không tin tưởng. Gia đình anh đã quyên tiền để thuê những luật sư hình sự da đen duy nhất trong vùng, J. L. Chestnut và Bruce Boynton đến từ Selma. Chestnut rất nhiệt huyết và đã làm nhiều việc trong cộng đồng da đen để củng cố quyền dân sự của các thành viên cộng đồng. Mẹ của Boynton, Amelia Boynton Robinson, là một nhà hoạt động huyền thoại; bản thân Boynton cũng rất có uy tín trong lĩnh vực bảo vệ quyền dân sự.
Dù hợp sức với nhau nhưng Chestnut và Boynton không thể thuyết phục quan chức địa phương thả Walter và không ngăn được việc anh bị chuyển tới Holman. Ngược lại, việc gia đình Walter thuê luật sư bên ngoài thậm chí còn chọc tức các viên chức hạt Monroe. Trên đường đi Holman, Tate tỏ ra bực bội vì nhà McMillian đã thuê luật sư bên ngoài; ông ta chế giễu Walter vì anh tưởng rằng luật sư riêng có thể làm thay đổi tình hình. Mặc dù số tiền để thuê Chestnut và Boynton mà gia đình Walter có được từ việc nhờ quyên góp qua nhà thờ và cầm cố chút tài sản ít ỏi, các nhà chấp pháp địa phương lại coi đó là bằng chứng về quỹ đen và sự hai mặt của Walter - họ khẳng định Walter không phải là một người da đen hiền lành như anh vẫn tỏ ra.
Walter cố gắng làm quen với trại Holman, nhưng mọi thứ chỉ xấu đi. Vụ xử tử sắp diễn ra làm các tử tù hoang mang và giận dữ. Các bạn tù khuyên anh nên hành động và khiếu kiện ở cấp liên bang, bởi việc anh bị giam ở trại tử tù là bất hợp pháp. Khi Walter, vốn chỉ biết chữ lõm bõm, không thể viết các loại đơn thư, giấy tờ, kiến nghị theo lời khuyên của các tù nhân khác, họ cho rằng chính anh đã khiến mình lâm vào tình cảnh này.
“Đấu tranh cho chính mình đi chứ. Đừng tin luật sư. Bọn chúng không thể chưa kết án mà giam anh ở đây được.” Walter thường xuyên nghe thấy những lời này, nhưng anh không biết làm thế nào để tự gửi kháng nghị.
“Có những ngày tôi không thở nổi,” về sau Walter nhớ lại. “Đời tôi chưa từng trải qua bất cứ chuyện gì như thế. Xung quanh tôi toàn là những kẻ giết người, nhưng đôi khi họ lại là những người duy nhất cố gắng giúp đỡ tôi. Tôi cầu nguyện, tôi đọc Kinh Thánh, và tôi không hề nói dối chút nào nếu tôi nói với cậu rằng ngày nào tôi cũng sống trong sợ hãi.”
Tình trạng của Ralph Myers cũng không khá hơn. Y cũng bị buộc tội giết người trong cái chết của Ronda Morrison, và việc từ chối tiếp tục hợp tác với nhà chức trách cũng đẩy y vào trại tử tù. Y bị giam ở một tầng khác để không thể liên lạc với McMillian. Bất kỳ lợi thế nào mà Myers tưởng rằng mình có thể giành được bằng cách tỏ ra biết chút gì đó về vụ sát hại Morrison giờ đã tiêu tan. Y suy sụp và chìm trong khủng hoảng tâm lý. Từ khi bị bỏng nặng hồi còn nhỏ, y đã luôn sợ lửa, hơi nóng và những nơi chật hẹp. Khi các tù nhân ngày càng bàn tán về các chi tiết trong vụ xử tử Evans và về vụ xử tử sắp tới của Wayne Ritter, Myers trở nên quẫn trí.
Vào đêm Ritter bị xử tử, Myers rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, y khóc nức nở trong buồng giam, ở trại tử tù Alabama có một truyền thống, đó là khi một vụ xử tử diễn ra, các tù nhân sẽ dùng cốc đập vào cửa buồng giam để phản đối. Lúc nửa đêm, khi tất cả các tù nhân khác đang rầm rầm đập cửa xà lim, Myers nằm co rúm trong góc buồng, thở dốc, cố giấu mình khỏi những âm thanh cuồng nộ đó. Khi mùi hôi của thịt cháy mà nhiều người trong trại ngửi thấy lan vào buồng giam của Myers, y hoảng loạn. Sáng hôm sau, y gọi cho Tate và nói sẽ khai bất cứ điều gì ông ta muốn nếu ông ta có thể giúp y thoát khỏi trại tử tù.
Lúc đầu Tate biện minh cho việc giam cả Myers và McMillian ở trại tử tù là vì lý do an toàn. Nhưng sau ngày xử tử Ritter, Tate lập tức tới đón Myers và đưa y quay lại trại giam của hạt. Dường như Tate không bàn bạc với ai về quyết định đưa Myers ra khỏi trại tử tù. Thông thường, Sở Cải huấn Alabama không thể đưa người ra vào trại tử tù mà không có lệnh tòa hay hồ sơ pháp lý - và tất nhiên không một giám đốc trại giam nào có thể tự ý làm như vậy. Nhưng không có gì là bình thường trong quá trình truy tố Walter McMillian.
Sau khi thoát khỏi trại tử tù và trở về hạt Monroe, Myers khẳng định lại cáo buộc ban đầu của y chống lại McMillian. Với việc Myers chấp thuận làm nhân chứng chính và Bill Hooks sẵn sàng khai rằng hắn trông thấy chiếc xe tải của Walter ở hiện trường vụ án, công tố viên tin rằng ông ta có thể truy tố McMillian. Vụ việc dự kiến được xét xử vào tháng Hai năm 1988.
Ted Pearson đã làm công tố viên gần hai mươi năm. Ông và gia đình đã sống ở Nam Alabama nhiều thế hệ. Ông hiểu biết về tập quán, giá trị và truyền thống địa phương và đã tận dụng chúng một cách hiệu quả trong phòng xử. Đã nhiều tuổi và có kế hoạch nghỉ hưu sớm, nhưng Pearson khó chịu khi thấy văn phòng của mình bị chỉ trích do chậm trễ giải quyết vụ sát hại Morrison. Pearson quyết tâm rời nhiệm sở với một chiến công, và có lẽ ông coi việc truy tố Walter McMillian là một trong những vụ quan trọng nhất trong sự nghiệp của mình.
Năm 1987, toàn bộ bốn mươi [3] công tố viên được bầu ở Alabama đều là người da trắng, mặc dù bang này có tới 16 hạt mà người da đen chiếm đa số. Khi người Mỹ gốc Phi bắt đầu thực hành quyền bầu cử của mình vào những năm 1970, một số công tố viên và thẩm phán lo ngại sâu sắc về nguy cơ thành phần chủng tộc ở một số hạt có thể cản trở việc họ tái đắc cử. Vì thế, các nhà lập pháp tiểu bang đã liên kết các hạt lại với nhau để bằng mọi cách bảo đảm người da trắng chiếm đa số trong phạm vi các tòa khu vực, bất kể khu vực này bao gồm một hạt có đa số dân là người da đen. Hiện tại, Pearson phải để ý tới tâm tư của người dân da đen hơn so với lúc mới bắt đầu sự nghiệp - dù vậy, sự quan tâm đó không tạo ra thay đổi gì đáng kể trong suốt nhiệm kỳ của ông ta.
Giống như Tate, Pearson đã nghe nhiều cư dân da đen nói rằng họ tin Walter McMillian vô tội. Nhưng Pearson tự tin rằng ông ta có thể kết tội McMillian, bất chấp những lời khai hoang đường của Ralph Myers và Bill Hooks cùng những nghi ngờ mạnh mẽ trong cộng đồng da đen. Điều khiến ông ta lo lắng hơn cả có lẽ là một điều khác. Đó là một phán quyết trước đó không lâu của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, mà kết quả của nó đã đe dọa đến một “đặc sản” lâu đời của các phiên tòa hình sự nổi tiếng ở miền Nam: bồi thẩm đoàn hoàn toàn là người da trắng.
Khi một vụ án đại hình nghiêm trọng được đưa ra xét xử ở một hạt như Monroe, nơi người da đen chiếm 40% dân số, các công tố viên thường loại tất cả những người gốc Phi ra khỏi nghĩa vụ bồi thẩm. Trên thực tế, hai mươi năm sau cuộc cách mạng dân quyền, bồi thẩm đoàn là một thiết chế hầu như vẫn giữ nguyên trạng bất chấp những yêu cầu pháp lý về hội nhập và đa dạng chủng tộc. Ngay từ những năm 1880, Tối cao Pháp viện đã phán quyết trong vụ Strauder v. West Virginia rằng, hành vi loại trừ người da đen khỏi nghĩa vụ bồi thẩm là vi hiến, song suốt nhiều thập kỷ sau đó, thành viên các bồi thẩm đoàn vẫn chỉ toàn người da trắng. Năm 1945, Tối cao Pháp viện thừa nhận một đạo luật của bang Texas [4] , cho phép giới hạn số lượng bồi thẩm viên da đen là duy nhất một người cho mỗi vụ việc, ở các bang miền Thâm Nam, danh sách bồi thẩm viên được lấy từ danh sách cử tri vốn đã loại trừ người Mỹ gốc Phi. Sau khi Đạo luật Quyền bầu cử được thông qua, các lục sự tòa án và thẩm phán vẫn bảo đảm người da trắng chiếm phần lớn danh sách bồi thẩm viên nhờ những chiêu trò lách luật. Các ủy ban bồi thẩm địa phương lợi dụng quy định của pháp luật rằng [5] bồi thẩm viên phải là người “có trí tuệ và ngay thẳng” để loại trừ người gốc Phi và phụ nữ.
Sang những năm 1970, Tối cao Pháp viện đã đưa ra phán quyết [6] tuyên bố tình trạng thiếu tính đại diện của những người thuộc chủng tộc thiểu số và phụ nữ trong danh sách bồi thẩm viên là vi hiến. Tại một số nơi, phán quyết này ít nhất cũng giúp người dân da đen được triệu tập tới tòa án làm ứng viên bồi thẩm đoàn. Mặc dù vậy, Pháp viện liên tục khẳng định, Hiến pháp không yêu cầu người thuộc chủng tộc thiểu số và phụ nữ nhất định phải được thực hiện nghĩa vụ bồi thẩm - nó chỉ cấm loại trừ bồi thẩm viên trên cơ sở giới tính và chủng tộc mà thôi.
Đối với nhiều người Mỹ gốc Phi, quyền bãi miễn bồi thẩm* được sử dụng hoàn toàn tùy ý để lựa chọn bồi thẩm đoàn mười hai người là một rào cản nghiêm trọng đối với nguyện vọng làm bồi thẩm viên của họ. Từ giữa thập niên 1960, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã phán quyết [7] , việc sử dụng quyền bãi miễn bồi thẩm với thái độ phân biệt chủng tộc là vi hiến. Thế nhưng, các thẩm phán đã đặt ra tiêu chuẩn rất cao cho những bằng chứng có thể dùng để chứng minh một hành vi là kỳ thị chủng tộc. Điều này khiến không một ai có thể thách thức quyền bãi miễn bồi thẩm suốt hai mươi năm sau đó. Hành động bãi miễn toàn bộ [8] hoặc gần như toàn bộ bồi thẩm viên gốc Phi tiềm năng vẫn tiếp diễn sau phán quyết của Tối cao Pháp viện.
Quyền bãi miễn bồi thẩm (peremptory strike, peremptory challenge) là quyền loại trừ một số bồi thẩm viên tiềm năng trong quá trình lựa chọn bồi thẩm đoàn mà không cần nêu lý do. (ND.)
Do đó, kể cả ở những hạt mà người da đen chiếm tới 40, 50% dân số, những bị cáo như Walter McMillian thường xuyên phải đối mặt với bồi thẩm đoàn toàn là người da trắng, đặc biệt trong những trường hợp có liên quan đến án phạt tử hình. Về sau, vào năm 1986, trong vụ án Batson v. Kentucky, Tối cao Pháp viện đã ra phán quyết cho phép bên bị có thể trực tiếp phản đối quyết định bãi miễn bồi thẩm mang thái độ phân biệt chủng tộc ở các công tố viên. Phán quyết này đem lại hy vọng cho các bị cáo da đen, đồng thời buộc các công tố viên phải tìm ra những cách thức sáng tạo hơn để loại trừ bồi thẩm viên da đen.
Walter đã biết được câu chuyện lịch sử này sau nhiều tháng ngồi tù. Tất cả các bạn tù đều muốn tư vấn cho anh, mỗi người đều có một câu chuyện để kể. Sự phi lý của việc giam giữ một nghi phạm chưa qua xét xử trong trại tử tù dường như đã thôi thúc các tù nhân khác ngày ngày thủ thỉ với Walter. Walter cố lịch sự lắng nghe, nhưng anh đã quyết định để dành vấn đề pháp lý cho các luật sư. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là anh không quan tâm lắm tới những điều mình nghe được từ các bạn tù, đặc biệt về vấn đề chủng tộc và kiểu bồi thẩm đoàn mà anh sẽ phải đối mặt.
Gần như tất cả các tử tù trong trại đều bị xét xử trước bồi thẩm đoàn toàn người da trắng hoặc gần như thế. Tử tù Jesse Morrison kể với Walter rằng công tố viên trong vụ của anh ta ở hạt Barbour đã sử dụng 21 trong số 22 quyền bãi miễn bồi thẩm để loại trừ toàn bộ ứng viên người da đen khỏi danh sách bồi thẩm viên. Vernon Madison đến từ Mobile thì kể, trong vụ việc của anh, công tố viên đã loại toàn bộ mười ứng viên người da đen mặc dù họ đủ tiêu chuẩn làm bồi thẩm viên. Willie Tabb từ hạt Lamar, Willie Williams từ hạt Houston, Claude Raines từ hạt Jefferson, Gregory Acres từ hạt Montgomery, và Neil Owens từ hạt Russel chỉ là một số ít trong rất nhiều tử tù da đen đã bị phán xử trước bồi thẩm đoàn da trắng sau khi công tố viên loại bỏ tất cả những bồi thẩm viên người Mỹ gốc Phi tiềm năng. Earl McGahee bị xét xử trước một bồi thẩm đoàn toàn người da trắng ở hạt Dallas, mặc dù người gốc Phi chiếm tới 60% dân số hạt này. Trong vụ việc của Albert Jefferson, công tố viên đã chia danh sách các bồi thẩm viên tiềm năng được triệu tập tới tòa án thành bốn nhóm, mỗi nhóm khoảng hai mươi lăm người, được gắn nhãn là “mạnh”, “trung bình”, “kém”, và “da đen”. Toàn bộ hai mươi sáu ứng viên người da đen trong danh sách bồi thẩm viên đều bị xếp vào nhóm “da đen” rồi bị loại bỏ. Một số tù nhân da trắng như Joe Duncan, Grady Bankhead, và Colon Guthrie cũng kể những câu chuyện tương tự.
Công tố viên Ted Pearson phải cảnh giác với phán quyết Batson. Ông ta biết các luật sư dân quyền kỳ cựu như Chestnut và Boynton sẽ không ngần ngại phản bác khi quyết định lựa chọn bồi thẩm đoàn có hơi hướng phân biệt chủng tộc, mặc dù ông ta không quá lo rằng thẩm phán Robert E. Lee Key sẽ để tâm tới những phản bác đó. Nhưng sự nổi tiếng của án mạng Morrison đã làm Pearson nảy ra một ý tưởng khác.
Đã thành thông lệ trong những vụ án nổi tiếng, các luật sư bào chữa thường đề nghị chuyển địa điểm xét xử từ hạt xảy ra vụ án sang một hạt khác, nơi vụ việc ít bị chú ý và ít chịu ảnh hưởng tâm lý cộng đồng hơn. Những đề nghị này hầu như không bao giờ được chấp thuận, nhưng thỉnh thoảng một tòa phúc thẩm lại nhận ra rằng không khí ở địa phương quá thành kiến và lẽ ra phiên tòa nên được chuyển sang hạt khác. Ở Alabama, đề nghị chuyển địa điểm xét xử là một hành động vô nghĩa. Các tòa án Alabama hầu như không bao giờ rút lại một bản án chỉ vì thẩm phán tòa sơ thẩm từ chối chuyển địa điểm xét xử.
Tháng Mười năm 1987, khi tòa án tổ chức một phiên xem xét các kiến nghị trong vụ việc của Walter, Chestnut và Boynton không hề kỳ vọng các kiến nghị của họ sẽ được đáp ứng. Họ tập trung hơn vào việc chuẩn bị cho phiên xử, dự kiến bắt đầu vào tháng Hai năm 1988. Phiên xem xét kiến nghị trước xét xử chỉ là một thủ tục.
Chestnut và Boynton trình bày kiến nghị chuyển địa điểm. Pearson đứng dậy và tuyên bố chấp thuận thay đổi địa điểm xét xử do vụ án mạng Morrison thu hút quá nhiều sự chú ý của công chúng. Thẩm phán Key gật đầu đồng tình; Chestnut, vốn quá rõ đường đi nước bước trong các tòa án ở Alabama, đoan chắc có chuyện không hay sắp xảy ra. Anh cũng tin rằng thẩm phán và công tố viên đã thông đồng với nhau.
“Kiến nghị xin thay đổi địa điểm xét xử của bị cáo được chấp thuận,” thẩm phán tuyên bố.
Khi thẩm phán đề xuất rời phiên tòa đến một hạt lân cận để các nhân chứng không phải đi xa, Chestnut nuôi hy vọng. Hầu như tất cả các hạt lân cận đều có dân số da đen khá đông: Hạt Wilcox có 72% dân số là người da đen, Conecuh 46% người da đen, Clarke 45%, Butler 42%, Escambia 32% người da đen. Chỉ duy nhất hạt Baldwin trù phú ở phía Nam với những bãi biển tuyệt đẹp của Vịnh Mexico là không điển hình khi dân số gốc Phi chỉ chiếm 9%.
Thẩm phán không mất nhiều thời gian để quyết định địa điểm xét xử.
“Chúng ta sẽ tới hạt Baldwin.”
Chestnut và Boynton lập tức phản đối, nhưng thẩm phán nhắc nhở rằng chính họ đã đề nghị như thế. Khi các luật sư tỏ ý muốn rút lại kiến nghị, thẩm phán nói ông ta không thể cho phép phiên xét xử diễn ra tại một cộng đồng đã có sẵn thành kiến với bị cáo. Vụ án sẽ được xét xử ở Vịnh Minette, thủ phủ của hạt Baldwin.
Đây là một thảm họa đối với Walter. Chestnut và Boynton đồ rằng phiên tòa sẽ có rất ít bồi thẩm viên da đen, nếu có. Họ cũng hiểu rằng mặc dù có thể các bồi thẩm viên ở Baldwin không có mấy quan hệ cá nhân với Ronda Morrison và gia đình cô, nhưng đây là một hạt cực kỳ bảo thủ, không đạt nhiều tiến bộ trong việc xóa bỏ chế độ chính trị phân biệt chủng tộc Jim Crow như các hạt láng giềng.
Với những điều nghe được từ các tử tù khác về bồi thẩm đoàn da trắng, Walter rất lo lắng khi địa điểm xét xử thay đổi. Nhưng anh vẫn vững niềm tin: Không ai có thể nghe các bằng chứng mà vẫn tin rằng anh là thủ phạm. Đơn giản anh không thể tin rằng một bồi thẩm đoàn dù da trắng hay da đen có thể kết tội anh dựa trên câu chuyện bịa đặt của Ralph Myers - chưa kể anh còn có chứng cứ ngoại phạm không thể phủ nhận với khoảng một chục người làm chứng cho anh.
Phiên xét xử tháng Hai bị hoãn. Một lần nữa, Ralph Myers lại đổi ý. Sau nhiều tháng thoát được trại tử tù và bị giam trong trại tạm giam của hạt, Myers nhận ra rằng y không muốn dính líu tới một vụ giết người mà y không hề gây ra. Y chờ tới buổi sáng lúc phiên tòa sắp diễn ra để nói với các điều tra viên rằng y không thể làm chứng được vì những điều họ muốn y khai là không đúng sự thật. Y cố gắng tranh cãi để được đối xử theo hướng có lợi hơn, nhưng kiên quyết không chấp nhận bất cứ hình phạt nào cho một vụ giết người mà y không hề gây ra.
Quyết định từ chối hợp tác đã đẩy Myers trở lại trại tử tù. Quay lại Holman không lâu, y lại rơi vào khủng hoảng tâm lý và rối loạn cảm xúc nghiêm trọng. Sau hai tuần, các nhân viên nhà tù lo lắng đến nỗi họ đưa y tới bệnh viện tâm thần của bang. Viện Y học An ninh Taylor Hardin ở Tuscaloosa thực hiện tất cả các công việc chẩn đoán và đánh giá cho các phiên tòa, giúp tầm soát những bị cáo có thể không đủ năng lực hầu tòa vì mắc bệnh tâm thần. Viện này thường xuyên bị các luật sư bào chữa phê phán vì họ hầu như không bao giờ tìm ra được những tổn thương tâm thần nghiêm trọng, có thể tránh cho bị cáo khỏi phải hầu tòa.
Thời gian ở Taylor Hardin của Myers không giúp thay đổi tình trạng của y. Sau ba mươi ngày ở bệnh viện, y mong được quay lại trại tạm giam của hạt nhưng lại bị gửi trả về trại tử tù. Nhận thấy không thể thoát nổi cái mồ mà y tự đào cho mình, Myers nói với các điều tra viên rằng y đã sẵn sàng làm chứng chống lại McMilllian.
Ngày xét xử mới được định vào tháng Tám năm 1988. Walter đã ở trại tử tù được hơn một năm. Càng cố gắng để thích nghi, anh càng không thể chấp nhận cơn ác mộng mà mình bị đẩy vào. Dù lo lắng, nhưng anh đã tin mình sẽ được về nhà từ hồi tháng Hai, thời điểm dự kiến diễn ra phiên xét xử đầu tiên. Các luật sư của Walter mừng thầm khi Myers sống dở chết dở, và nói với Walter rằng phiên tòa bị hoãn do Myers từ chối ra làm chứng là một tín hiệu tốt. Nhưng điều đó có nghĩa là Walter sẽ phải ở trại tử tù thêm sáu tháng nữa, đó là một thực tế không mấy sáng sủa đối với anh. Cuối cùng khi được chuyển tới trại tạm giam của hạt Baldwin ở Vịnh Minette để chuẩn bị cho phiên tòa tháng Tám, Walter đã rời trại tử tù với sự đinh ninh rằng mình sẽ không bao giờ phải quay lại đây nữa. Anh đã kết bạn với một vài tử tù và bất ngờ trước cảm xúc mâu thuẫn của mình lúc từ biệt họ, khi biết họ sẽ sớm phải đối mặt với chuyện gì. Nhưng khi được gọi tên lên phòng thuyên chuyển, anh không để mất giây nào gói ghém tư trang và lên xe rời đi.
Một tuần sau, Walter ngồi trong xe tù với chiếc cùm xiết chặt mắt cá chân và dây xích thít quanh eo. Anh cảm thấy bàn chân mình bắt đầu sưng lên vì những miếng kim loại thít chặt vào da khiến máu không lưu thông được. Chiếc còng tay xiết quá chặt, Walter trở nên giận dữ khác với tính cách thường thấy ở anh.
“Sao lại xích tôi chặt thế này?”
Hai viên cảnh sát của hạt Baldwin phụ trách đón Walter một tuần trước đó đã không thân thiện trong suốt chuyến đi từ trại tử tù tới tòa án. Giờ đây, khi anh bị kết tội giết người với bản án tử hình, họ tỏ thái độ thù nghịch ra mặt. Một người phá lên cười khi anh hỏi.
“Dây xích vẫn thế từ lúc bọn tao đón mày. Mày thấy chặt bởi vì mày đang ở trong tay chúng tao.”
“Các ông phải nới xích cho tôi, tôi không thể chịu được.”
“Không có chuyện đó đâu, quên đi.”
Walter chợt nhận ra gã đàn ông đó. Cuối phiên xử, khi bồi thẩm đoàn tuyên bố Walter có tội, gia đình anh và mấy người da đen có mặt trong phiên tòa bàng hoàng không tin nổi. Cảnh sát trưởng Tate tố cáo rằng Johny, cậu con trai hai mươi tư tuổi của Walter, đã nói, “Sẽ có kẻ phải trả giá cho những điều họ làm với cha tôi.” Tate lệnh cho thuộc cấp bắt giữ Johny và một vụ xô xát đã xảy ra. Walter thấy tụi cảnh sát vật con mình xuống đất và còng tay cậu. Càng nhìn kỹ hai người áp tải mình về trại tử tù, anh càng tin chắc một trong hai tên đó đã tấn công con trai anh.
Chiếc xe chuẩn bị chuyển bánh. Họ không cho Walter biết anh sẽ bị chuyển đi đâu, nhưng anh lập tức nhận ra mình đang quay lại trại tử tù. Anh đã đau khổ và quẫn trí khi bị bắt giam, nhưng vẫn đinh ninh rằng mình sẽ sớm được thả. Anh đã thất vọng khi hàng ngày, hàng tuần cứ nối nhau trôi qua ở trại tạm giam của hạt. Anh đã tuyệt vọng và hoảng sợ khi bị chuyển tới trại tử tù mặc dù chưa được xét xử, chưa bị kết án, rồi nhiều tuần kéo dài thành nhiều tháng. Sau mười lăm tháng chờ được minh oan, anh bị sốc và tê dại khi bồi thẩm đoàn gồm gần như toàn người da trắng tuyên bố anh có tội. Lúc này, anh cảm thấy mình đang trở lại với cuộc sống - nhưng tất cả những gì anh cảm thấy là lòng căm phẫn tột độ. Cảnh sát đang lái xe đưa anh về trại tử tù và tán chuyện về một triển lãm súng mà họ định đi xem. Walter nhận ra rằng mình đã thật khờ khạo khi tin tưởng tất cả mọi người. Anh biết Tate là kẻ quỷ quyệt và không tử tế gì, nhưng anh lại tưởng rằng những người khác chỉ đang làm những việc mà họ được cấp trên giao cho. Bây giờ cảm xúc của anh chỉ có thể miêu tả là một cơn thịnh nộ.
“Này, tôi sẽ kiện tất cả các người!”
Anh biết mình đang thét lên và việc đó chẳng ích gì. “Tôi sẽ kiện tất cả các người!” anh nhắc lại. Các cảnh sát không mảy may để ý.
“Nới xích đi. Nới xích đi.”
Anh không nhớ nổi lần cuối mình mất kiểm soát là khi nào, nhưng anh thấy mình như vụn vỡ. Với tâm trạng giằng xé, anh trở nên im lặng. Ký ức về phiên tòa cuộn trở lại trong tâm trí anh. Một phiên tòa nhanh gọn, máy móc và lạnh lùng. Cuộc lựa chọn bồi thẩm đoàn chỉ diễn ra trong vài giờ. Pearson sử dụng quyền bãi miễn bồi thẩm của ông ta để loại bỏ gần như toàn bộ những người gốc Phi được triệu tập làm bồi thẩm viên, chỉ một người được giữ lại. Các luật sư của anh phản đối, nhưng bị thẩm phán bác bỏ nhanh chóng. Công tố viên gọi Myers lên bục nhân chứng để y kể câu chuyện ngớ ngẩn Walter ép y lái xe tới hiệu Jackson do bị đau tay. Phiên bản này có cảnh Myers bước vào cửa hiệu và trông thấy Walter đứng cạnh thi thể của Ronda Morrison. Y cũng ngớ ngẩn khai rằng có một người thứ ba hiện diện và tham gia vào vụ sát hại: một người đàn ông bí ẩn với mái tóc muối tiêu, kẻ chủ mưu trong vụ việc và đã ra lệnh cho Walter giết cả Myers nhưng anh ta không thể vì hết đạn. Walter thấy những lời khai này vô lý đến nỗi anh không thể ngờ có người lại tin nó. Tại sao mọi người lại không cười?
Cuộc thẩm vấn chéo của Chestnut đối với Myers cho thấy rõ ràng nhân chứng nói dối. Khi Chestnut thẩm vấn xong, Walter đoan chắc các quan chức sẽ thừa nhận rằng họ đã sai. Nhưng không ngờ, công tố viên yêu cầu Myers trở lại, nhắc lại lời buộc tội cứ như thể sự phi logic và những mâu thuẫn trong lời khai của y hoàn toàn không liên quan gì, cứ như việc nhắc đi nhắc lại những lời nói dối trong căn phòng tĩnh lặng này sẽ khiến nó trở thành sự thật.
Bill Hooks làm chứng rằng hắn đã nhìn thấy chiếc xe tải của Walter đi ra khỏi cửa hiệu vào thời điểm xảy ra vụ giết người, và hắn nhận ra chiếc xe này bởi nó đã được độ thành xe gầm thấp. Walter lập tức nói nhỏ với luật sư rằng vài tháng sau khi Morrison bị giết, anh mới độ chiếc xe tải của mình thành xe gầm thấp. Nhưng Walter thất vọng khi thấy các luật sư không làm được gì nhiều với thông tin đó. Rồi một người đàn ông da trắng khác mà Walter chưa bao giờ nghe nói đến, Joe Cao kều, bước tới bục nhân chứng và nói rằng ông ta cũng nhìn thấy chiếc xe tải ở hiệu giặt là.
Có cả tá người có thể kể lại buổi tiệc gây quỹ ngoài trời và khẳng định Walter có mặt ở nhà vào thời điểm Ronda Morrison bị giết. Các luật sư bào chữa cho Walter chỉ gọi ba người trong số họ. Walter không thể hiểu nổi khi tất cả dường như chỉ nhanh nhanh chóng chóng để kết thúc phiên tòa. Rồi các quan chức gọi một người đàn ông da trắng tên là Earnest Welch lên làm chứng. Ông ta tự nhận mình là “lão đồ gỗ”, người đã tới nhà McMillian thu tiền vào ngày gia đình anh tổ chức tiệc ngoài trời, nhưng khẳng định đó không phải là ngày Ronda Morrison bị giết. Ông ta nói ông ta nhớ rõ hơn bất kỳ ai ngày Ronda bị giết vì ông ta là bác của cô. Ông ta nói ông ta đã suy sụp đến nỗi phải tới nhà McMillian để đòi tiền vào một hôm khác.
Các luật sư trình bày lý lẽ, bồi thẩm đoàn tạm nghỉ, và chưa đầy ba giờ sau, họ trở lại phòng xử án. Từng người một, mặt lạnh tanh, tuyên bố Walter McMillian có tội.