← Quay lại trang sách

Chương bốn THẬP TỰ XƯA

Tháng Hai năm 1989, Eva Ansley và tôi thành lập trung tâm pháp lý phi lợi nhuận riêng ở Tuscaloosa với sứ mệnh cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí và có chất lượng cho những tử tù bị kết án ở Alabama. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ đó là công việc dễ dàng, nhưng hóa ra nó còn khó khăn ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi.

Trong vài tháng đầu hoạt động, giám đốc đầu tiên của chúng tôi từ chức, trường Luật Alabama nơi chúng tôi đặt trụ sở rút lại lời hứa cho mượn văn phòng, và chúng tôi thấy rằng để tìm được những luật sư sẵn lòng tới Alabama làm việc toàn thời gian vì những tử tù với mức lương chưa đầy 25.000 đô-la một năm quả thật khó khăn.

Những trở ngại cứ sinh sôi nhanh chóng. Cơ quan lập pháp tiểu bang từ chối tài trợ khoản vốn đối ứng mà chúng tôi cần để xin được tài trợ từ liên bang. Sau một vài cuộc họp ảm đạm với nhóm quản lý trung tâm, chúng tôi thấy mình rõ ràng không nhận được bất kỳ sự ủng hộ nào cho dự án này từ tiểu bang. Các luật sư hàng đầu của bang rất mong muốn dự án của chúng tôi thành công - có người là vì cảm thấy không thể chấp nhận được tình trạng tù nhân bị kết án mà không được trợ giúp pháp lý, có người là vì muốn các vụ tử hình diễn ra nhanh hơn và cảm thấy tình trạng thiếu sự trợ giúp pháp lý đang làm chậm tiến trình - nhưng giờ đây chúng tôi nhận ra tốt hơn là chúng tôi nên tự thân vận động và tự quyên tiền. Eva và tôi tập hợp lại, quyết định bắt đầu lại từ đầu ở Montgomery, thủ phủ bang. Dự án sau cùng được đặt tên là Sáng kiến Công lý Bình đẳng (Equal Justice Initiative - EJI).

Tôi tìm được một ngôi nhà nhỏ gần trung tâm Montgomery, và mùa hè năm 1989, chúng tôi ký hợp đồng thuê nhà. Đó là một khởi đầu tốt đẹp: Một ngôi nhà hai tầng xây từ năm 1882 với kiến trúc Phục hưng Hy Lạp, tọa lạc gần khu phố cổ lịch sử của Alabama. Nó được sơn màu vàng và có một cổng vòm quyến rũ tạo không khí cởi mở chào đón - tương phản với những phòng xử án rợn ngợp, những phòng chờ lạnh lẽo, và những bức tường xà lim vốn là một phần cuộc sống của gia đình các thân chủ của chúng tôi. Sang mùa đông, văn phòng trở nên lạnh hơn, chúng tôi hầu như không thể ngăn lũ sóc chui vào gác mái, còn điện thì không đủ mạnh để chạy máy photocopy và máy pha cà phê cùng một lúc mà không làm đứt cầu chì. Nhưng ngay từ những ngày đầu, chúng tôi đã cảm thấy nơi ấy vừa như là nhà, vừa như là chốn làm việc. Với thời gian chúng tôi có mặt ở đó, ngôi nhà quả thật luôn mang một chút gì đó của cả hai.

Eva đảm nhận các công việc hành chính cho dự án mới, một nhiệm vụ khá thách thức bởi tiền tài trợ liên bang đi kèm với rất nhiều thủ tục kế toán và báo cáo phức tạp. Eva gan góc và thông minh, chị sắp xếp mọi thứ để tiền có thể đổ về dù chỉ từng chút một. Chúng tôi thuê một nhân viên lễ tân và cố gắng tìm cách tồn tại. Từng đi gây quỹ cho Ủy ban Bảo vệ Tù nhân miền Nam gần như ngay khi bắt đầu làm việc tại đó nên tôi có chút kinh nghiệm xin tài trợ cho công việc của chúng tôi. Tôi tin chắc sẽ có cách gây đủ quỹ cho văn phòng Alabama để đáp ứng được yêu cầu vốn đối ứng của khoản tài trợ liên bang. Chúng tôi chỉ cần chút thời gian - thứ mà hóa ra chúng tôi không có.

Hàng loạt ngày xử tử đang chờ đợi chúng tôi. Từ khi đạo luật tử hình mới của bang Alabama được thông qua năm 1975 cho tới cuối năm 1988, chỉ có ba cuộc xử tử diễn ra ở bang này. Năm 1989, do Tối cao Pháp viện thay đổi cách xử lý các đơn kháng án tử hình và do những biến chuyển trong bầu không khí chính trị, văn phòng Tổng chưởng lý bắt đầu đẩy mạnh việc hành hình những người bị kết án. Tới cuối năm 1989, số người bị xử tử ở bang Alabama đã tăng gấp đôi.

Nhiều tháng trước khi mở cửa trung tâm, tôi bắt đầu tới thăm trại tử tù Alabama đều đặn hàng tháng để gặp một số thân chủ mới, trong đó có Walter McMillian. Tất cả đều cảm kích vì được trợ giúp, nhưng khi mùa xuân 1989 đến gần, họ đều đưa ra cùng một lời đề nghị vào cuối mỗi buổi gặp mặt: Hãy giúp Michael Lindsey. Ngày xử tử Lindsey dự kiến sẽ rơi vào tháng Năm năm 1989. Sau đó, họ lại đề nghị tôi giúp Horace Dunkins khi ngày xử tử anh được ấn định vào tháng Bảy năm 1989. Tôi khổ sở giải thích với họ về nguồn lực và thời gian eo hẹp của mình, kể với họ rằng chỉ để văn phòng thành hình và chạy được thôi, chúng tôi đã phải làm việc điên cuồng. Dù thông cảm, song họ vẫn rất khổ tâm vì bản thân thì được trợ giúp pháp lý trong khi những người khác lại phải đối mặt với cuộc hành hình đang cận kề.

Cả Lindsey và Dunkins đều có các luật sư thiện nguyện bào chữa, song những luật sư này lại tìm đến tôi nhờ hỗ trợ vì họ bị quá tải. David Bagwell, luật sư của Lindsey, là một luật sư dân sự có tiếng ở Mobile; ông đã đảm nhận vụ của Wayne Ritter, người bị tử hình một năm trước. Trải nghiệm đó làm Bagwell thất vọng và tức giận. Ông đã viết một bức thư gay gắt cho tạp chí của Đoàn Luật sư bang, trong đó ông tuyên bố sẽ “không bao giờ nhận bất cứ một vụ án tử hình nào nữa, bất kể có bị tước giấy phép hành nghề vì từ chối” và kêu gọi các luật sư dân sự khác từ chối nhận các vụ án tử hình. Lời than phiền công khai của Bagwell khiến các tòa án khó có thể chỉ định các luật sư dân sự khác cho những đơn kháng án ở giai đoạn cuối của một vụ án tử hình, chứ không phải vì tòa thật sự muốn như vậy. Thế nhưng, bức thư cũng để lại hiệu ứng khác. Các tù nhân nghe nói về bức thư và bàn tán với nhau về nội dung của nó, đặc biệt về một lời bình luận rợn người ẩn trong những dòng than vãn của Bagwell: “Nói chung tôi ủng hộ hình phạt tử hình vì lũ chó dại đáng phải chết.” Tù nhân mất dần lòng tin vào các luật sư, kể cả những người tuyên bố sẽ giúp đỡ họ.

Vì lời đề nghị khẩn khoản của các thân chủ, chúng tôi quyết định làm tất cả những gì có thể để giúp Michael Lindsey khi ngày xử tử anh cận kề. Chúng tôi cố gắng phản biện về một tình tiết thú vị trong vụ án đó: Bồi thẩm đoàn chưa bao giờ phán quyết rằng Michael Lindsey đáng bị tử hình.

Lindsey lĩnh án chung thân không ân xá theo phán quyết của bồi thẩm đoàn, nhưng thẩm phán lại “bác” phán quyết này và tự tuyên án tử hình. Những bản án tử hình do thẩm phán bác phán quyết của bồi thẩm đoàn là bất thường, kể cả ở vào thời điểm năm 1989. Ở hầu hết các tiểu bang, bồi thẩm đoàn sẽ ra quyết định tử hình hay chung thân không ân xá. Dù bồi thẩm đoàn có áp dụng hình phạt tử hình hay không, thì đó cũng là phán quyết chung cuộc. Chỉ có Florida và Alabama cho phép thẩm phán bác quyết định của bồi thẩm đoàn, nhưng Florida về sau đã kiểm soát nghiêm ngặt đến mức gần như cắt giảm đáng kể thực hành này. Dù vậy, nó vẫn là luật ở Alabama, nơi mà thẩm phán hầu như chỉ sử dụng quyền này để đẩy án chung thân thành án tử hình, dù họ hoàn toàn có quyền giảm án tử hình thành chung thân nếu muốn. Từ năm 1976, các thẩm phán ở Alabama đã 111 lần bác bản án của bồi thẩm đoàn. Trong 91% các trường hợp đó [1] , bản án tù chung thân của bồi thẩm đoàn được thay thế bằng án tử hình của thẩm phán.

Thực hành này thậm chí còn trở nên rắc rối hơn nữa bởi tính cạnh tranh ngày một gay cấn trong các cuộc bầu cử tư pháp của bang. Toàn bộ thẩm phán của Alabama [2] được bầu chọn qua những cuộc bầu cử mang tính đảng phái có tính cạnh tranh cao độ. Đây là một trong sáu bang có chế độ bầu bán này (ba mươi hai bang khác có dạng thức bầu cử tư pháp phi đảng phái). Các chiến dịch vận động bầu cử thu hút tiền tài trợ từ những doanh nghiệp muốn cải cách luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc từ những luật sư tranh tụng muốn bảo vệ những bản án dân sự lớn, nhưng do phần lớn cử tri không có kiến thức về lĩnh vực này, nên các chiến dịch luôn tập trung vào tội hình sự và án phạt. Các thẩm phán đua nhau trở thành người nghiêm khắc nhất đối với tội hình sự. Các mạnh thường quân tài trợ cho các cuộc bầu cử hầu như không quan tâm tới bất cứ khác biệt nhỏ nào trong quan điểm của các ứng viên về tội hình sự, nhưng cứ ai áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn thì người đó sẽ được bầu. Quyền phủ quyết của thẩm phán là một công cụ chính trị cực kỳ hiệu quả [3] . Không thẩm phán nào muốn phải đối mặt với những bài viết công kích nhấn mạnh những chi tiết ghê rợn của một vụ giết người mà trong đó họ đã không áp dụng hình thức trừng phạt nghiêm khắc nhất. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi số trường hợp thẩm phán bác bỏ phán quyết [4] của bồi thẩm đoàn có xu hướng tăng cao vào những năm bầu cử thẩm phán.

Chúng tôi viết một lá thư gửi Thống đốc bang Alabama, Guy Hunt, đề nghị ông đình chỉ vụ xử tử Lindsey với lý do bồi thẩm đoàn, với đầy đủ thẩm quyền kết án, đã quyết định không áp dụng hình phạt tử hình. Thống đốc Hunt lập tức từ chối yêu cầu khoan hồng của chúng tôi, ông khẳng định sẽ “không làm trái nguyện vọng của cộng đồng, mà đại diện là bồi thẩm đoàn, rằng Lindsey phải bị xử tử” dù chúng tôi nhấn mạnh rằng đại diện của nhân dân - bồi thẩm đoàn - đã làm điều ngược lại; rõ ràng họ đã quyết định giữ mạng sống của Lindsey. Việc này chẳng có tác dụng gì. Cũng quái gở như chính thực hành này [5] , Tối cao Pháp viện đã ủng hộ quyền phủ quyết của thẩm phán trong một vụ án trước đó ở Florida, khiến chúng tôi không có cơ sở hợp hiến nào để ngăn chặn vụ xử tử Michael Lindsey. Lindsey bị tử hình bằng điện vào ngày 26 tháng Năm năm 1989.

Ngay sau vụ Lindsey, chúng tôi phải đối mặt với ngày tử hình của Horace Dunkin. Một lần nữa, mặc dù thời gian đang cạn dần mà hy vọng thì mong manh, chúng tôi vẫn cố gắng giúp đỡ anh bằng mọi cách có thể. Anh Dunkins là người chậm trí [6] , và thẩm phán cũng nhận thấy anh bị “thiểu năng trí tuệ” dựa trên học bạ và bệnh án của anh. Chỉ vài tháng trước khi ngày xử tử đã định, Tối cao Pháp viện đưa ra phán quyết giữ nguyên hình phạt tử hình đối với người “thiểu năng trí tuệ”. Mười ba năm sau [7] , trong vụ Atkins v.Virginia , Tối cao Pháp viện thừa nhận rằng xử tử người khuyết tật trí tuệ là hình phạt tàn nhẫn và bất thường, và ra lệnh cấm hành vi vi hiến này. Đối với nhiều người khuyết tật bị buộc tội như Horace Dunkins, lệnh cấm này đã tới quá muộn.

Gia đình Dunkins gọi điện liên tục, cố gắng tìm lối thoát khi chỉ còn vài ngày nữa là anh bị xử tử, nhưng họ chẳng có mấy lựa chọn. Chấp nhận thực tế rằng không còn cách nào để cứu Dunkins, gia đình chuyển mối quan tâm sang chuyện điều gì sẽ xảy đến với thi thể anh sau khi anh chết. Vì lý do tôn giáo, họ dường như đặc biệt quan tâm tới việc ngăn chặn nhà chức trách tiến hành khám nghiệm thi thể con trai họ. Rồi ngày xử tử cũng đến, và Horace Dunkins bị giết trong một cuộc xử tử vụng về được truyền thông cả nước đưa tin. Quản giáo đã cắm lệch các điện cực, vì vậy khi ghế điện được kích hoạt, chỉ có một phần dòng điện chạy vào cơ thể Dunkins. Sau mấy phút đau đớn quằn quại, điện ngắt nhưng Dunkins vẫn sống, vẫn thở dù bất tỉnh. Quản giáo chỉ phát hiện ra các điện cực đã bị cắm lệch sau khi chờ vài phút cho “thi thể nguội bớt”. Họ chỉnh lại điện cực và cho điện giật Dunkins một lần nữa, lần này ghế điện hoạt động tốt. Họ đã giết anh [8] . Sau màn xử tử vụng về tàn nhẫn, nhà chức trách tiến hành khám nghiệm tử thi - bất chấp yêu cầu khẩn thiết của gia đình phạm nhân.

Tôi nhận được một cuộc điện thoại từ người cha quẫn trí của Dunkins sau vụ xử tử. Ông nói, “Họ có thể lấy đi mạng sống của nó, mặc dù họ đã xét xử không công bằng và nó không đáng bị như thế, nhưng họ không có quyền giày xéo thân thể và tâm hồn nó. Chúng tôi muốn kiện họ.” Chúng tôi hỗ trợ luật sư thiện nguyện đảm trách vụ này, đơn kiện được gửi đi dù không có nhiều hy vọng. Có một số lời cung khai đã được dùng làm bằng chứng nhưng không có phán quyết bồi thường nào được đưa ra. Vụ kiện dân sự này không kìm chân được bang Alabama, vốn đang trên đà hăng hái đẩy mạnh các cuộc thi hành án tử hình.

Chúng tôi trở về văn phòng mới ở Montgomery với nỗi ám ảnh về hai vụ xử tử. Các tử tù bị kích động và hoang mang hơn bao giờ hết. Khi Herbert Richardson nhận được tin vào tháng Bảy rằng anh sẽ bị xử tử vào ngày 18 tháng Tám, anh gọi điện cho tôi từ trại tử tù: “Anh Stevenson, tôi là Herbert Richardson. Tôi mới nhận được thông báo mình sẽ bị xử tử vào ngày 18 tháng Tám. Tôi cần anh giúp. Đừng từ chối nhé. Tôi biết anh đang giúp mấy người và cũng đang mở văn phòng luật, anh giúp tôi nhé.”

Tôi trả lời, “Tôi thật sự rất tiếc khi được biết về ngày tử hình của anh. Mùa hè này khó khăn quá. Luật sư thiện nguyện của anh nói sao?” Tôi vẫn đang tìm cách trả lời sao cho phải nhất khi các tử tù thông báo với tôi về ngày thi hành án của họ. Tôi muốn nói những câu an ủi kiểu như “Đừng lo,” nhưng tất nhiên đó là một lời đề nghị vô lý đối với bất kỳ ai - tin tức về vụ xử tử đã được định ngày quả thực đáng sợ ngoài sức tưởng tượng. “Tôi rất tiếc” nghe có vẻ không phải lắm, nhưng đó là câu phù hợp nhất mà tôi có thể nghĩ ra.

“Tôi không có luật sư thiện nguyện nào đâu anh Stevenson. Tôi không có ai cả. Năm ngoái luật sư thiện nguyện nói rằng anh ta không thể làm gì hơn để giúp tôi nữa. Tôi cần anh giúp.”

Chúng tôi vẫn chưa có máy tính hay sách luật, và văn phòng của tôi cũng chưa có luật sư nào. Tôi có tuyển một cậu bạn học cùng lớp ở trường Luật Harvard, cậu đồng ý hợp tác và rời Boston tới sống ở Alabama. Tôi đã rất mừng khi cuối cùng cũng có người hỗ trợ. Cậu ở Montgomery được mấy ngày thì tôi phải rời thị trấn để đi gây quỹ. Khi tôi trở lại, cậu đã không còn ở đó nữa. Cậu để lại một bức thư giải thích rằng cuộc sống ở Alabama không ngờ lại thách thức cậu đến vậy. Cậu còn ở đó chưa đầy một tuần.

Cố gắng ngăn chặn một vụ xử tử có nghĩa là làm việc liên tục 18 tiếng một ngày trong suốt một tháng, cố gắng trong tuyệt vọng để giành được lệnh tạm đình chỉ từ tòa án. Phải dốc toàn lực mới có kết quả, nhưng việc ngăn chặn vụ xử tử dường như vẫn nằm ngoài tầm với của chúng tôi. Khi tôi không biết nói gì để lầp đầy khoảng lặng đó, Richardson nói tiếp: “Anh Stevenson, tôi có 30 ngày. Anh hứa giúp tôi đi.”

Tôi không biết làm gì nữa ngoài nói thật. “Anh Richardson, tôi rất tiếc, nhưng tôi không có sách vở, nhân viên, máy tính, hay bất cứ thứ gì để có thể nhận thêm vụ việc mới. Tôi còn chưa thuê được luật sư nào. Tôi đang cố thu xếp mọi thứ.”

“Nhưng tôi bị định ngày thi hành án rồi. Anh phải đại diện cho tôi chứ. Anh làm tất cả những việc khác để làm gì nếu anh không giúp những người như tôi?” Tôi nghe thấy anh thở gấp hơn.

“Họ sắp giết tôi rồi,” anh nói.

“Tôi hiểu điều anh đang nói, và tôi đang cố nghĩ xem sẽ giúp anh như thế nào. Chỉ là chúng tôi đang khó khăn quá—” Tôi không biết phải nói gì nữa, một khoảng lặng kéo dài chen giữa chúng tôi. Tôi thấy anh thở mạnh qua điện thoại, và có thể hình dung anh đang thất vọng cỡ nào. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe những lời giận dữ, cay nghiệt và đón nhận cơn thịnh nộ hoàn toàn dễ hiểu của anh. Nhưng điện thoại đột nhiên im lặng. Anh đã dập máy.

Cả ngày hôm đó, tôi trăn trở vì cuộc điện thoại, đến đêm tôi cũng không ngủ nổi. Tôi bị ám ảnh bởi chính lời từ chối quan liêu và bất lực của mình trước nỗi tuyệt vọng và sự lặng thinh của anh.

Tôi nhẹ lòng khi hôm sau anh gọi lại.

“Anh Stevenson, tôi xin lỗi, nhưng anh phải đại diện cho tôi. Tôi không cần anh phải hứa sẽ chặn được vụ xử tử này; tôi không cần anh phải hứa sẽ giành được lệnh đình chỉ. Nhưng tôi chỉ còn có 29 ngày, và tôi sẽ không thể chịu nổi nếu không còn tia hy vọng nào. Anh chỉ cần hứa anh sẽ làm điều gì đó và cho tôi chút hy vọng thôi.”

Tôi không thể nói không, vì vậy tôi đồng ý.

“Xét tình hình hiện tại thì tôi không chắc mình có thể làm gì để chặn được vụ thi hành án,” tôi ngập ngừng. “Nhưng chúng tôi sẽ cố gắng.”

“Nếu anh có thể làm gì đó, bất cứ điều gì... tôi sẽ rất biết ơn.”

Herbert Richardson là một cựu binh trong chiến tranh Việt Nam. Những trải nghiệm không khác gì ác mộng về sự tàn khốc của chiến tranh đã để lại trong anh những di hại và ám ảnh nặng nề. Anh nhập ngũ năm 1964 ở tuổi 18, đúng thời điểm nước Mỹ đang lún sâu vào cuộc chiến. Anh tham gia Liên đoàn Không quân số 11, Sư đoàn Kỵ binh số 1, và được gửi tới trại Radcliff ở An Khê, Việt Nam. Trại này nằm gần Pleiku, một địa bàn nổi tiếng với những cuộc giao tranh khốc liệt hồi giữa những năm 1960. Herbert đảm nhận những nhiệm vụ nguy hiểm và chứng kiến nhiều đồng đội tử trận hoặc bị thương nặng. Trong một lần thực hiện nhiệm vụ, toàn bộ trung đội của anh bỏ mạng vì bị phục kích, còn anh thì bị thương nặng. Khi tỉnh lại, thân mình thấm đẫm máu đồng đội, anh bị mất phương hướng và không thể cử động được. Không lâu sau, tinh thần của anh suy sụp hoàn toàn. Anh tự tử không thành sau những cơn đau đầu trầm trọng. Mặc dù các sĩ quan chỉ huy liên tục đề nghị anh đi khám tâm lý, song anh vẫn ở lại chiến đấu suốt bảy tháng sau đó trước khi “những cơn khóc” và “sự thu mình không giao tiếp” khiến anh được giải ngũ trong danh dự vào tháng Mười hai năm 1966. Không có gì bất ngờ khi nỗi ám ảnh ấy theo anh về tận nhà ở Brooklyn, New York, nơi anh thường xuyên gặp ác mộng, chịu đựng những cơn đau đầu tê dại, và đôi lần vừa chạy ra khỏi nhà vừa hét “Cẩn thận!”. Rồi anh lấy vợ và sinh con, nhưng rối loạn stress sau sang chấn tiếp tục cản trở anh kiểm soát hành vi của mình. Cuối cùng anh được gửi vào một bệnh viện dành cho cựu chiến binh ở New York, ở đây anh hồi phục chậm chạp khỏi chứng đau đầu trầm trọng do những vết thương chiến tranh gây ra.

Herbert trở thành một trong hàng nghìn cựu binh rơi vào cảnh tù tội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Một trong những vấn đề hậu chiến ít được bàn tới nhất ở Mỹ là tần suất các cựu binh về nước với nỗi ám ảnh chiến tranh và phải ngồi tù sau khi quay lại cộng đồng. Tới giữa những năm 1980, có gần 20% những người bị giam trong các nhà tù ở Mỹ là người từng phục vụ trong quân ngũ. Tỷ lệ này đã giảm xuống vào những năm 1990 khi bóng đêm của Chiến tranh Việt Nam lui dần, nhưng lại tăng trở lại sau những xung đột quân sự của Mỹ ở Iraq và Afghanistan.

Nhờ điều trị ở bệnh viện cựu chiến binh New York, Herbert dần dần bình phục. Rồi anh gặp một y tá ở đó, một phụ nữ người Dothan, Alabama, cô đã tận tụy chăm sóc anh, khiến anh có lẽ là lần đầu tiên trong đời cảm thấy an lòng và đầy hy vọng. Có cô ở bên, anh thấy mình tràn đầy sức sống và tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Cô đã cứu vớt đời anh. Khi cô trở về quê nhà ở Alabama, Herbert quyết định đi theo cô.

Anh cố gắng lấy lòng và thậm chí còn ngỏ lời cầu hôn với cô. Ban đầu, cô từ chối vì biết Herbert vẫn đang gánh chịu di chứng chiến tranh, nhưng rồi cô cũng xiêu lòng. Họ đã có một cuộc tình ngắn ngủi, và Herbert chưa bao giờ hạnh phúc hơn thế. Anh ra sức che chở cho người yêu. Nhưng cô bắt đầu nhận thấy sự quan tâm thái quá của anh giống nỗi ám ảnh hơn là tình yêu. Cô cố gắng chấm dứt mối quan hệ. Sau nhiều tháng cố giữ khoảng cách với Herbert mà không được, cuối cùng cô kiên quyết xua đuổi anh.

Bất chấp điều ấy, Herbert thậm chí còn chuyển tới sống gần nhà cô ở Dothan, làm cô thêm lo lắng. Căng thẳng lên tới đỉnh điểm khi cô cấm anh gặp, nói chuyện hay lảng vảng gần cô. Herbert tin rằng cô chỉ đang rối trí và rồi cô sẽ trở lại với anh. Anh bị nỗi ám ảnh lừa dối; logic và lý trí của anh bị đứt gãy, phi lý và ngày càng nguy hiểm.

Herbert không phải người khờ khạo - anh quả thực còn khá thông minh với tài sửa chữa điện máy. Không những thế, anh còn có một trái tim nhân hậu. Nhưng anh vẫn đang trong quá trình hồi phục sau di chứng chiến tranh cũng như những sang chấn tâm lý nghiêm trọng xảy ra trước thời kỳ phục vụ quân ngũ. Mẹ anh qua đời khi anh mới ba tuổi, và trước khi nhập ngũ, anh đã có khoảng thời gian vật lộn với rượu và ma túy. Nỗi kinh hoàng của chiến tranh chỉ chất chứa thêm khổ đau cho một tâm hồn vốn đã bị tàn phá.

Anh nảy ra một ý tưởng để giành lại người yêu. Anh tự nhủ rằng nếu cô cảm thấy bị đe dọa, cô sẽ tìm đến anh để được anh bảo vệ. Anh bày ra một kế hoạch sai lầm kéo theo bao bi kịch: Anh sẽ chế tạo một quả bom nhỏ và đặt nó trên hiên nhà cô. Anh sẽ kích nổ quả bom rồi chạy tới cứu cô, và họ sẽ sống hạnh phúc bên nhau trọn đời. Đó là hành vi sử dụng chất nổ bừa bãi và bất hợp lý, kể cả trong vùng chiến sự, huống chi là trong một khu dân cư da đen nghèo ở Dothan, Alabama.

Buổi sáng nọ, Herbert chế tạo xong quả bom và đặt nó trên hiên nhà người yêu cũ. Không may, người bước ra ngoài hiên và trông thấy cái bọc lạ lại là cô cháu của bạn gái Herbert và một cô bé khác. Bị cái bọc lạ có gắn đồng hồ thu hút, cô bé 10 tuổi cầm nó lên. Cô lắc chiếc đồng hồ xem nó có chạy không, và rồi kích hoạt một vụ nổ long trời. Cô bé chết ngay tại chỗ, còn cô bạn 12 tuổi đứng cạnh thì bị thương. Herbert biết cả hai đứa trẻ. Ở vùng này, trẻ con thường đi lang thang trên phố để tìm trò giải khuây. Herbert quý bọn trẻ và thường gọi chúng tới sân nhà mình, thuê chúng làm những việc lặt vặt và chuyện trò với chúng. Anh thậm chí còn làm ngũ cốc và nấu ăn cho những đứa trẻ ghé chơi. Hai cô bé này cũng từng ghé nhà anh ăn sáng.

Herbert bàng hoàng và suy sụp khi đứng theo dõi từ bên kia đường. Anh dự định sẽ chạy tới cứu bạn gái khi bom nổ để chứng tỏ mình sẵn sàng bảo vệ và che chở cho cô. Khi đứa bé nhặt quả bom và làm nó phát nổ, Herbert băng qua phố và thấy xung quanh mình là những người láng giềng thất kinh.

Anh bị bắt không lâu sau đó. Họ tìm thấy ống và các vật liệu chế tạo bom khác trong xe và sân nhà Herbert. Vì các nạn nhân là người da đen nghèo khổ, nên đây không thuộc loại tội thường bị truy tố với án tử hình, nhưng Herbert không phải là người địa phương. Danh tính một kẻ ngoại lai, từ miền Bắc, và bản chất của vụ việc dường như làm tăng thêm sự khinh bỉ của các nhà thực thi pháp luật. Việc đặt một quả bom tại bất cứ đâu ở Dothan, kể cả trong một xóm nghèo của thị trấn, là một mối đe dọa khác với kiểu bạo lực thông thường. Công tố viên lập luận rằng Herbert không chỉ dại dột và liều lĩnh nên mới để xảy ra bi kịch, mà anh còn là loại ác ôn. Nhà nước muốn áp dụng hình phạt tử hình. Sau khi loại bỏ tất cả các bồi thẩm viên da đen tiềm năng trong một hạt có 28% dân số da đen, công tố viên khẳng định với bồi thẩm đoàn da trắng trong tuyên bố kết luận rằng mức án này là hợp lý vì Herbert “dính líu tới dân Hồi giáo da đen ở thành phố New York” và không xứng đáng được khoan dung.

Đạo luật tử hình của Alabama quy định rằng để áp dụng mức án tử hình thì vụ giết người phải có chủ ý, nhưng rõ ràng Herbert không cố ý giết đứa trẻ. Nhà chức trách quyết định viện dẫn thuyết “ý định chuyển hoán”* để khiến tội danh này đủ điều kiện kết án tử hình. Nhưng sự thật là Herbert không cố ý giết bất kỳ ai. Herbert nhận được lời khuyên nên chối bỏ hoàn toàn tội trạng, song rốt cuộc anh thừa nhận đây là hành vi giết người do sơ sểnh, chứ không phải cố ý; với tội danh này, anh có thể bị áp án tù chung thân thay vì án tử hình.

Nguyên văn: “transterred intent” là trường hợp bị cáo có ý định làm hại một người, nhưng thay vì hại đúng người đó, lại vô tình làm hại người thứ hai. (ND.)

Trong phiên tòa, luật sư chỉ định không trình bày bất cứ bằng chứng nào về xuất thân, thời gian phục vụ quân ngũ và những sang chấn do chiến tranh của Herbert, cũng như quan hệ của anh với nạn nhân và sự mê đắm của anh với cô bạn gái - không một chi tiết nào. Luật Alabama thời điểm đó giới hạn mức thù lao cho luật sư chỉ định là không quá 1.000 đô-la, vì vậy luật sư hầu như không dành chút thời gian nào nghiên cứu vụ việc. Phiên tòa chỉ kéo dài hơn một ngày, và thẩm phán mau chóng tuyên án tử hình đối với Herbert.

Sau khi án tử hình được tuyên, luật sư chỉ định của Herbert - ông này về sau đã bị tước giấy phép hành nghề vì thể hiện năng lực yếu kém trong các vụ việc khác - nói với Herbert rằng ông ta không thấy có lý do nào để kháng cáo hoặc kháng án vì phiên tòa đã diễn ra công bằng đúng như ông ta dự liệu. Herbert nhắc luật sư rằng anh đã bị kết án tử hình. Anh muốn kháng án kể cả khi chẳng có bao nhiêu hy vọng, nhưng luật sư của anh chỉ ngồi im.

Herbert bị giam trong trại tử tù suốt mười một năm, cho tới lúc anh phải đối diện với “Mama Vàng”. Một luật sư thiện nguyện đã phản bác kết luận của tòa về ý định giết người của Herbert trong một đơn kháng án khẩn thiết nhưng không thành công. Giờ thì vụ xử tử Herbert được ấn định vào ngày 18 tháng Tám, chỉ còn chưa đầy ba tuần nữa là đến.

Sau cuộc điện thoại với Herbert, tôi gửi một loạt kháng nghị xin đình chỉ thi hành án tới các tòa án khác nhau. Tôi biết chúng tôi không có nhiều cơ may thành công trong vụ này. Tới cuối những năm 1980, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã trở nên mất kiên nhẫn với những lá đơn kháng án tử hình. Giữa những năm 1970, Tối cao Pháp viện biện minh cho việc khôi phục án tử hình bằng lời hứa rằng các vụ việc sẽ được điều tra kỹ lưỡng và pháp luật sẽ được tuân thủ nghiêm túc, nhưng rồi Tối cao Pháp viện bắt đầu xa rời những thủ tục rà soát hiện có. Các phán quyết của Tối cao Pháp viện ngày càng trở nên thù nghịch với tử tù và không còn tuân thủ ý niệm “chết thì khác”, đòi hỏi họ phải xem xét thận trọng hơn nữa.

Họ quyết định từ chối xử phúc thẩm [9] cấp liên bang trong các vụ bảo hộ quyền nhân thân* nếu những đơn kiện này chưa được trình trước lên các tòa án cấp bang. Vì lẽ đó, tòa án liên bang không được phép xem xét bằng chứng mới trừ khi nó đã được trình lên tòa án bang. Tối cao Pháp viện cũng bắt đầu yêu cầu các thẩm phán liên bang phải tôn trọng hơn nữa phán quyết của tòa án tiểu bang, trong khi những phán quyết này có xu hướng dễ dãi hơn đối với các sai sót trong quá trình tố tụng các vụ án tử hình.

Nguyên văn Habeas corpus, tiếng Latin có nghĩa là “giữ xác thân,” là một cơ chế pháp luật bảo hộ quyền nhân thân (quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân) trong hệ thống thông luật cho phép một tòa tối cao có quyền triệu tập một cơ quan công quyền đang giam giữ một cá nhân phải đưa cá nhân đó ra trình diện trước tòa và đồng thời bắt buộc cơ quan công quyền đó cung cấp một lời giải thích lý do pháp lý cho việc bắt giữ và tạm giam cá nhân đó. (Theo Luật Khoa Tạp chí) (B.B.T.)

Vào những năm 1980, Tối cao Pháp viện bác bỏ một phản biện hiến pháp [10] phản đối việc áp dụng án tử hình cho thanh thiếu niên. Tối cao Pháp viện cũng duy trì án tử hình đối với người “thiểu năng trí tuệ”, và không thừa nhận hành vi phân biệt chủng tộc trong quá trình điều tra xét xử phần lớn các vụ án tử hình là vi hiến. Quan điểm này của Tối cao Pháp viện đã bị lên án mạnh mẽ.

Tới cuối thập kỷ, một số thẩm phán công khai phê phán việc xét lại các bản án tử hình. Chánh án William Rehnquist kêu gọi áp giới hạn đối với đơn kháng án tử hình và cản trở những nỗ lực ngăn chặn thi hành án của các luật sư. “Hãy chấp nhận bản án” [11] là tuyên bố nổi tiếng của ông trong một sự kiện của liên đoàn luật sư năm 1988. Dứt khoát chốt hạ, thay cho công bằng, đã trở thành ưu tiên mới trong triết lý luật pháp về hình phạt tử hình.

Hai tuần sau cuộc trò chuyện đầu tiên của tôi với Herbert Richardson, tôi nỗ lực điên cuồng để giành được lệnh đình chỉ thi hành án. Mặc dù bắt đầu rất muộn, tôi vẫn hy vọng chúng tôi có thể giành được lệnh này khi tôi nhận thấy một vài điểm thuyết phục trong trường hợp của Herbert. Mặc dù tội lỗi của anh quả thực không có gì phải bàn cãi, song ngoài việc Herbert không chủ ý giết người, còn có những lý do chính đáng khác cho thấy trường hợp này không đáng bị kết án tử hình. Và kể cả khi ta bỏ qua chi tiết đó, vẫn có chứng cứ rõ ràng cho thấy không nên áp dụng hình phạt tử hình vì Herbert bị chấn thương tâm lý, từng phục vụ trong quân ngũ và có một tuổi thơ khó nhọc. Không có chứng cứ giảm nhẹ thuyết phục nào được trình bày tại phiên tòa như đáng ra phải có. Hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng công bằng sau khi người ta xem xét cẩn thận tất cả các lý do tại sao cái chết có thể không phải là mức án thích hợp, nhưng điều đó đã không xảy ra trong trường hợp của Herbert. Tôi ngày càng tin rằng Herbert phải chịu án tử bởi anh là mục tiêu dễ nhắm. Anh không được trợ giúp và dễ dàng bị kết án bởi một hệ thống không coi trọng những yêu cầu pháp lý chính xác đặt ra cho bản án tử hình. Tôi vô cùng đau lòng khi nghĩ giá như Herbert nhận được sự trợ giúp đúng mức vào đúng thời điểm, anh có thể sẽ không phải ở trại tử tù với thời hạn xử tử còn chưa đầy hai tuần nữa.

Tôi đề nghị một số tòa đình chỉ vụ xử tử Herbert vì luật sư bào chữa không hiệu quả, phiên xử có những biểu hiện thành kiến chủng tộc, công tố viên đưa ra những bình luận kích động, và các chứng cứ giảm tội chưa được trình bày. Các tòa đều trả lời, “Quá muộn rồi”. Chúng tôi được sắp xếp vội vàng một phiên xử tại tòa sơ thẩm ở Dothan, tại đây tôi cố gắng trình bày chứng cứ cho thấy quả bom mà Herbert chế tạo được thiết kế để phát nổ vào một thời điểm xác định. Tôi tìm được một chuyên gia có thể chứng minh rằng quả bom là một thiết bị hẹn giờ và không gây nguy hiểm đến tính mạng khi chạm vào. Tôi biết có thể tòa sẽ kết luận rằng chứng cứ này lẽ ra nên được trình bày trong phiên sơ thẩm hoặc trong quá trình tố tụng trước đó, nhưng tôi hy vọng thẩm phán có thể thấy thuyết phục.

Herbert có mặt tại phiên tòa cùng với tôi, và chúng tôi lập tức nhận ra sự thờ ơ trên khuôn mặt vị thẩm phán. Điều này làm Herbert thêm căng thẳng. Anh bắt đầu thì thầm, năn nỉ tôi nhờ vị chuyên gia lên tiếng về ý định của anh khi đặt bom, song điều đó thực sự nằm ngoài tầm hiểu biết của ông ta. Anh đâm ra mất bình tĩnh và bắt đầu nói to đến mức thẩm phán có thể nghe được. Trong khi đó, thẩm phán tiếp tục nhấn mạnh, đó không phải là chứng cứ mới được phát hiện, và đáng lẽ nó nên được trình bày trong phiên sơ thẩm, vì vậy nó không thể là cơ sở để đình chỉ thi hành án. Tôi đề nghị giải lao để trấn an Herbert.

“Ông ta không nói được điều mà tôi cần ông ta nói!”

Hơi thở của Herbert lộ đầy vẻ hoảng sợ. Anh ôm đầu và kêu đau đầu dữ dội. “Tôi không cố ý giết ai và ông ta phải giải thích được điều đó!” anh kêu khóc.

Tôi cố an ủi. “Anh Richardson, chúng ta đã giải thích với tòa rồi mà. Chuyên gia đó không được phép nói về tình trạng tâm lý của anh. Ông ta đã xác nhận rằng quả bom được chế tạo để kích nổ, nhưng thật sự ông ta không thể giải thích về động cơ của anh - Tòa không cho phép, nên ông ta không nói được.”

“Họ thậm chí còn chẳng bận tâm về những điều ông ta nói,” anh buồn bã nói, tay bóp thái dương.

“Tôi biết, nhưng nhớ này, đây mới là bước đầu tiên. Chúng tôi không kỳ vọng nhiều vào thẩm phán, nhưng việc này sẽ giúp chúng ta kháng án. Tôi hiểu tâm trạng của anh.”

Anh nhìn tôi lo lắng rồi thở dài cam chịu. Anh ngồi ủ ê, ôm đầu trong suốt thời gian còn lại của phiên xử, làm tôi thấy nản lòng hơn cả khi anh tỏ ra hung hăng và quẫn trí.

Vì chưa tuyển được luật sư, tôi không có đồng nghiệp hỗ trợ quản lý tài liệu hay làm việc với bị cáo trong suốt phiên xử. Kết thúc phiên tòa, Herbert bị cùm và gửi trả về trại tử tù trong sự bực bội, thất vọng và buồn bã. Tôi cũng không cảm thấy khá hơn khi thu dọn giấy tờ và ra khỏi phòng xử. Giá như tôi có thể tóm tắt lại tiến trình với ai đó để đánh giá xem liệu những điều tôi đã trình bày có thể làm cơ sở đình chỉ thi hành án hay không. Tôi không trông mong thẩm phán địa phương sẽ ra lệnh đình chỉ, nhưng tôi hy vọng rằng có thể một tòa án nào đó khi xét lại vụ án sẽ công nhận đây không phải là một vụ cố ý giết người và sẽ đồng ý đình chỉ thi hành án. Quá nhiều việc diễn ra khiến tôi không thể đánh giá khách quan liệu chúng tôi đã trình bày đủ luận cứ để thay đổi cục diện hay chưa. Tôi cũng cảm thấy tồi tệ vì đã bỏ lại Herbert trong trạng thái quẫn bách như vậy.

Lúc chuẩn bị ra về, tôi thấy một nhóm phụ nữ và trẻ em da đen tụ tập phía cuối phòng xử. Bảy, tám người trong số họ nhìn tôi chằm chằm. Phiên tòa diễn ra vào buổi chiều muộn, khi lịch làm việc của tòa không còn vụ kiện tụng nào khác. Tôi tò mò không biết những người này là ai, nhưng thật tình, tôi quá mệt mỏi để thực sự quan tâm đến họ. Tôi mỉm cười và uể oải gật đầu chào ba người phụ nữ có vẻ chú ý tới tôi hơn cả; họ coi đó như lời gợi ý để tiếp cận tôi khi tôi sắp bước ra khỏi cửa.

Người phụ nữ cất tiếng trước tỏ ra lo lắng và có chút sợ hãi. Bà ngập ngừng nói: “Tôi là mẹ của Rena Mae - mẹ của nạn nhân. Họ hứa sẽ giúp chúng tôi, nhưng rồi chẳng làm gì. MaryLynn không thể nghe rõ, thính lực của nó có vấn đề kể từ vụ nổ bom đó, còn chị nó thì có vấn đề về thần kinh. Tôi cũng vậy. Chúng tôi mong anh giúp cho.”

Ánh nhìn sững sờ trên gương mặt tôi thôi thúc bà nói tiếp. “Tôi biết anh rất bận. Chỉ là chúng tôi cần giúp đỡ.” Bà vừa nói vừa rụt rè đưa tay về phía tôi, và tôi cầm tay bà.

“Tôi rất lấy làm tiếc vì bà không nhận được sự giúp đỡ như đã hứa. Nhưng thực ra tôi đại diện cho Herbert Richardson trong vụ này,” tôi nói nhẹ nhàng nhất có thể.

“Chúng tôi biết. Tôi biết anh có thể chưa làm được gì ngay bây giờ, nhưng khi nào xong vụ này, anh có thể giúp chúng tôi không? Họ nói chúng tôi sẽ được nhận một chút tiền để điều trị y tế và cải thiện thính lực cho con gái tôi.”

Một cô gái lặng lẽ bước tới và ôm lấy bà khi bà nói chuyện với tôi. Trông cô trạc tuổi đôi mươi, nhưng mọi cử chỉ của cô giống như trẻ thơ. Cô tựa đầu vào mẹ như một đứa trẻ và nhìn tôi buồn bã. Một phụ nữ khác tiến lại gần, giọng nói pha chút ngờ vực. “Tôi là dì của con bé,” bà nói. “Chúng tôi không tin giết người là xong.”

Tôi không rõ bà có ý gì, nhưng tôi nhìn bà và trả lời “Vâng, tôi cũng không tin giết người là xong.”

Bà dì có vẻ thư giãn hơn một chút. “Tất cả những đau thương này thật khó vượt qua. Chúng tôi không thể cổ vũ cho kẻ mà anh đang cố gắng giúp đỡ, nhưng cũng chẳng muốn phải có thêm đau thương vì hắn ta. Không nên có thêm vụ giết chóc nào sau chuyện này nữa.”

“Tôi không biết mình có thể làm gì để giúp các bà, nhưng tôi thật lòng muốn giúp. Hãy liên hệ lại với tôi sau ngày 18 tháng Tám, rồi tôi sẽ xem mình có thể làm gì.”

Sau đó, bà dì hỏi liệu bà có thể bảo con trai bà viết thư cho tôi không vì cậu ta đang ngồi tù và cần luật sư. Bà thở phào nhẹ nhõm khi tôi đưa danh thiếp. Khi rời khỏi tòa án, chúng tôi trao nhau những lời từ biệt chân thành.

“Chúng tôi sẽ cầu nguyện cho anh,” bà dì nói khi họ rời đi.

Trên đường ra xe, tôi nghĩ đến việc nhờ họ nói với công tố viên và các luật sư phía Nhà nước rằng họ không muốn Richardson bị tử hình, dù rõ ràng Nhà nước không đại diện cho những nạn nhân này. Rất nhiều luật sư của Nhà nước và các quan chức khác đã ngồi kín phòng xử, theo dõi phiên tòa, nhưng rồi họ vội vàng rời đi mà không nói một lời với những tâm hồn đau khổ đứng cuối phòng. Tôi bị ám ảnh bởi sự trớ trêu đầy bi kịch khi họ cảm thấy tôi là niềm hy vọng lớn nhất mà họ có thể kêu cầu.

Thẩm phán tòa sơ thẩm từ chối kiến nghị đình chỉ thi hành án đúng lúc tôi trở lại Montgomery. Ông ta kết luận rằng chứng cứ của chúng tôi là “không kịp thời,” nghĩa là ông ta không thể xem xét nó. Chỉ còn chưa đầy một tuần nữa là tới ngày thi hành án, chúng tôi liên tục gửi kiến nghị. Cuối cùng, một ngày trước vụ xử tử, tôi đệ đơn kiến nghị lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, xin Tối cao Pháp viện xem xét lại bản án và đề nghị đình chỉ thi hành án. Kể cả trong những trường hợp tử hình, Tối cao Pháp viện cũng chỉ xem xét lại một số ít vụ việc được trình lên. Kiến nghị certiorari, yêu cầu xem xét lại phán quyết của tòa án cấp dưới, hiếm khi được chấp nhận, nhưng tôi biết Tối cao Pháp viện là cơ hội tốt nhất để chúng tôi giành được lệnh đình chỉ. Kể cả khi tòa án cấp dưới ban hành lệnh đình chỉ, công tố bang vẫn có thể kháng cáo, vì vậy Tối cao Pháp viện hầu như sẽ luôn là bên ra quyết định cuối cùng về việc có tiếp tục cuộc thi hành án hay không.

Thời gian thi hành án được ấn định vào 12 giờ 1 phút sáng ngày 18 tháng Tám. Tôi hoàn thành bản kiến nghị và gửi fax lên Tối cao Pháp viện vào khuya ngày 16 tháng Tám, và dành cả buổi sáng hôm sau ở văn phòng Montgomery hồi hộp chờ đợi quyết định của tòa. Tôi cố gắng giữ mình bận rộn bằng cách đọc hồ sơ các vụ án khác, bao gồm cả vụ của Walter McMillian. Tôi không kỳ vọng sẽ nhận được tin từ Tối cao Pháp viện trước buổi chiều, nhưng vẫn không thể ngừng ngóng đợi điện thoại suốt cả sáng. Mỗi khi điện thoại đổ chuông, tim tôi lại đập mạnh. Eva và Doris, lễ tân của văn phòng, biết tôi đang nóng lòng chờ cuộc gọi. Chúng tôi đã gửi tới thống đốc đơn xin khoan hồng kèm bản khai có tuyên thệ từ các thành viên gia đình cùng các bức ảnh màu, nhưng không kỳ vọng sẽ được hồi đáp. Lá đơn trình bày chi tiết thời gian Herbert phục vụ trong quân ngũ và giải thích tại sao những cựu binh bị rối loạn stress sau sang chấn đáng được thông cảm.

Tôi không hy vọng gì nhiều. Michael Lindsey được bồi thẩm đoàn tuyên án chung thân, nhưng cuối cùng vẫn bị tử hình; Horace Dunkins bị khuyết tật trí tuệ, và thống đốc cũng không tha cho anh. Herbert có lẽ còn không được cảm thông bằng họ.

Hôm đó, tôi liên tục nói chuyện điện thoại với Herbert để thông báo rằng vẫn chưa có tin tức gì mới. Tôi không tin trại giam sẽ báo cho anh nếu Tối cao Pháp viện ra phán quyết, vì vậy tôi bảo anh cứ hai giờ thì gọi cho tôi một lần. Dù tin tức có như thế nào, tôi cũng muốn anh nghe từ một người quan tâm tới anh.

Herbert quen một phụ nữ quê ở Mobile và thư từ qua lại với chị suốt nhiều năm. Họ đã quyết định kết hôn một tuần trước cuộc xử tử. Herbert không có tiền, anh không có bất cứ thứ gì để lại cho chị nếu anh bị xử tử. Nhưng vì anh là cựu quân nhân, người thân của anh sẽ được trao tặng một lá cờ Mỹ khi anh qua đời. Anh đề nghị người vợ mới của mình sẽ là người nhận quốc kỳ. Những ngày trước cuộc xử tử, dường như Herbert lo lắng về lá quốc kỳ hơn là về cái chết đang cận kề. Anh liên tục nhờ tôi kiểm tra với phía chính phủ xem lá cờ sẽ được chuyển đến như thế nào, và giục tôi lấy một cam kết bằng văn bản.

Gia đình vợ đồng ý ở bên Herbert trong những giờ phút cuối cùng. Trại giam cho phép thân nhân được ở lại tới khoảng 10 giờ tối, sau đó họ sẽ bắt đầu chuẩn bị cho tử tù lên ghế điện. Tôi vẫn ở lại văn phòng, chờ đợi thông báo từ Tối cao Pháp viện. Đã quá 5 giờ chiều mà không có tin tức gì, tôi cho phép mình nuôi chút hy vọng. Nếu Tối cao Pháp viện không để tâm gì tới những điều chúng tôi trình bày, có thể họ đã ra phán quyết sớm hơn về kiến nghị đình chỉ thi hành án của chúng tôi. Chờ đợi càng lâu, tôi càng lạc quan. 6 giờ tối, tôi đi đi lại lại trong căn phòng nhỏ, hồi hộp mường tượng ra những khả năng phán quyết của Tối cao Pháp viện. Eva và điều tra viên mới của chúng tôi, Brenda Lewis, cùng chờ đợi với tôi. Cuối cùng, gần 7 giờ tối, điện thoại reo. Lục sự Tối cao Pháp viện ở đầu dây bên kia.

“Ông Stevenson, tôi gọi để thông báo [13] rằng Tối cao Pháp viện đã có quyết định về Vụ việc Số 89-6395; đề nghị đình chỉ thi hành án và ra huấn lệnh certiorari đã bị từ chối. Chúng tôi sẽ fax lệnh này tới văn phòng của ông ngay.”

Chỉ như vậy, cuộc gọi kết thúc. Khi dập máy, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là tôi cần họ gửi lệnh để làm gì? Viên lục sự nghĩ tôi sẽ đưa nó cho ai xem? Chỉ vài giờ nữa thôi, Herbert sẽ chết. Sẽ không còn kháng cáo, không còn hồ sơ nào cần lưu giữ nữa. Tôi không hiểu sao mình bị ấn tượng bởi những chi tiết lạ lùng này. Tôi không còn nghĩ nhiều về sự phi lý của quá trình ra quyết định của Tối cao Pháp viện nữa, mà chỉ mải mê đi tìm ý nghĩa của quá trình đó. Tôi đã hứa sẽ ở bên Herbert trong suốt vụ xử tử, và mất một lúc tôi mới nhận ra mình phải lập tức tới trại tử tù, nơi cách văn phòng hai giờ lái xe.

Tôi nhảy lên xe và lao tới Atmore. Trên con đường cao tốc dẫn tới nhà tù, tôi thấy những tia nắng dài sắp tắt dù hơi nóng của mùa hè Alabama vẫn còn đeo bám. Khi tôi đến nơi, trời đã tối hẳn. Ngoài cổng trại, hàng chục người cầm súng ngồi trên thùng sau những chiếc xe tải xếp hàng dọc theo con đường dài dẫn tới bãi đậu xe. Họ là cảnh sát bang, cảnh sát địa phương, phó cảnh sát trưởng và hình như có cả những người thuộc một đơn vị Vệ binh Quốc gia. Tôi không biết tại sao Nhà nước lại cảm thấy họ cần cả một đội quân canh cổng nhà tù vào đêm thi hành án. Cảnh tượng những người có vũ trang tập hợp lại lúc nửa đêm để đảm bảo một sinh mạng sẽ bị tước đi một cách xuôi chèo mát mái thật là siêu thực. Tôi thấy buồn cười khi ai đó nghĩ rằng một cuộc kháng cự có vũ khí và bạo lực có thể xảy đến trong vụ xử tử một người da đen bần cùng.

Tôi bước vào trại và trông thấy một bà da trắng lớn tuổi - bà này là quản giáo phụ trách khu thăm viếng. Tôi đã trở thành khách quen của trại tử tù khi tới thăm các thân chủ mới của mình ít nhất một tháng một lần, vì vậy bà ta gặp tôi thường xuyên, nhưng bà ta chưa bao giờ tỏ ra hồ hởi. Tối nay khi tôi tới, bà ta chào tôi với sự ấm áp và thân thiện khác thường. Tôi còn tưởng bà ta định ôm tôi.

Có những người mặc comple đeo cà vạt đứng loanh quanh ở hành lang, họ nhìn tôi dò xét khi tôi bước vào phòng thăm viếng lúc chín giờ hơn. Khu thăm viếng ở Holman là một căn phòng lớn hình tròn có tường kính bao quanh để các quản giáo có thể quan sát từ bất cứ điểm nào. Trong phòng có hơn chục chiếc bàn nhỏ và ghế cho thân nhân tới thăm vào những ngày thăm nuôi, vốn thường được lên lịch hai hoặc ba lần một tháng. Vào những tuần có lịch xử tử, chỉ duy nhất người tù sắp chịu án mới được phép gặp gỡ gia đình.

Khi tôi bước vào, những người thân chỉ còn chưa đầy một giờ để ở bên Herbert. Tôi chưa bao giờ thấy anh bình tĩnh như vậy. Anh mỉm cười và ôm tôi.

“Cả nhà, đây là luật sư của tôi.”

Anh giới thiệu tôi với sự hãnh diện khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và xúc động.

“Xin chào mọi người,” tôi nói. Herbert vẫn khoác vai tôi, tôi muốn nói gì đó để an ủi nhưng không thể cất lời, rồi Herbert lại lên tiếng trước.

“Tôi bảo các quản giáo của trại rằng tôi muốn tất cả tài sản của tôi được phân chia đúng như ý nguyện của tôi, nếu không luật sư của tôi sẽ kiện các vị cho đến khi tất cả các vị phải phục dịch anh ta.” Anh cười khẽ, còn mọi người phì cười.

Tôi làm quen với người vợ mới cưới của Herbert cùng gia đình chị, và suốt bốn mươi lăm phút tiếp theo, một mắt của tôi cứ liếc nhìn đồng hồ, vì đúng 10 giờ tối, cảnh vệ sẽ đưa Herbert đi và chúng tôi sẽ không bao giờ thấy anh trên cõi đời này nữa. Herbert cố giữ vẻ bình thản. Anh kể với gia đình chuyện anh đã thuyết phục tôi nhận vụ việc này như thế nào và khoe rằng tôi chỉ nhận đại diện cho những người thông minh và hấp dẫn.

“Hồi đó cậu ấy còn quá trẻ nên không thể đại diện cho tôi tại tòa sơ thẩm, nhưng nếu hồi đó mà có cậu ấy, tôi đã không bị tử hình thế này đâu.” Anh vừa nói vừa mỉm cười, nhưng tôi bắt đầu thấy bứt rứt. Tôi thật sự kinh ngạc khi anh đang gắng hết sức để làm mọi người xung quanh cảm thấy nhẹ nhõm hơn trước cái chết của chính anh. Tôi chưa bao giờ thấy anh duyên dáng và tràn đầy năng lượng đến thế. Gia đình anh và tôi đều tươi cười, nhưng tất cả đều thấy tim mình như thắt lại. Mỗi phút trôi qua, vợ anh lại khóc nhiều hơn. Gần 10 giờ tối, ủy viên Sở Cải huấn Alabama, giám đốc trại giam, và mấy người mặc comple ra hiệu cho người quản giáo phụ trách phòng thăm nuôi. Bà ta lặng lẽ bước vào phòng và nói lời nuối tiếc “Đến lúc rồi, mọi người. Các vị phải kết thúc cuộc viếng thăm. Chào tạm biệt đi thôi.”

Tôi nhìn những người đàn ông đứng bên ngoài hành lang; rõ ràng họ đang trông đợi bà ta làm gì đó dứt khoát và hiệu quả hơn. Họ muốn mọi thứ diễn ra trôi chảy đúng theo kế hoạch và tỏ ra sẵn sàng cho bước chuẩn bị tiếp theo của cuộc xử tử. Một người tiến lại gần người phụ trách phòng thăm nuôi khi bà ta rời phòng và chỉ vào đồng hồ. Bên trong phòng, vợ Herbert bắt đầu khóc nức nở. Chị vòng tay ôm lấy cổ anh và không chịu để anh đi. Sau vài phút, tiếng khóc của chị trở thành tiếng rên rỉ, buồn thảm và tuyệt vọng.

Không thể kiên nhẫn thêm nữa, các viên chức ở hành lang ra hiệu cho quản giáo phụ trách phòng thăm nuôi, bà ta trở vào phòng. “Tôi xin lỗi,” bà cố tỏ ra cương quyết, “nhưng các vị phải đi ngay bây giờ.” Bà nhìn tôi, còn tôi quay đi. Vợ Herbert lại bắt đầu nức nở. Cô em gái và các thành viên khác trong gia đình cũng bắt đầu khóc. Người vợ lại ôm Herbert chặt hơn nữa. Tôi chưa từng hình dung khoảnh khắc này sẽ khó khăn đến thế nào. Nó siêu thực theo cách mà tôi không ngờ tới. Trong phút chốc, một cơn lũ buồn thương và bi kịch xâm chiếm tất cả mọi người, tôi bắt đầu lo rằng gia đình sẽ không thể rời Herbert.

Lúc này, các viên chức đã rất bực bội. Tôi nhìn qua cửa sổ và thấy giám đốc trại gọi bộ đàm huy động thêm người tới. Ai đó ra hiệu cho quản giáo phụ trách phòng thăm nuôi quay lại phòng để đưa thân nhân ra. Tôi nghe thấy họ bảo bà ta đừng có trở ra tay không. Bà ta có vẻ bấn loạn. Dù mặc đồng phục, bà ta luôn có vẻ lạc lõng trong trại tù, và lúc này trông bà ta cực kỳ lúng túng. Bà ta từng thổ lộ với tôi rằng cháu bà ta muốn trở thành luật sư và bà ta mong thằng bé sẽ đạt được ước mơ ấy. Bà ta bối rối nhìn quanh phòng rồi tiến lại gần tôi. Bà ta rơm rớm nước mắt và nhìn tôi cầu khẩn.

“Làm ơn, làm ơn, anh giúp tôi đưa họ ra khỏi đây đi, làm ơn.”

Tôi bắt đầu lo sự việc sẽ diễn biến xấu, nhưng tôi không biết phải làm gì. Họ không thể kỳ vọng người ta bình thản bỏ mặc người thân yêu của mình bị xử tử. Tôi muốn ngăn tình hình khỏi vượt tầm kiểm soát nhưng cảm thấy bất lực.

Lúc này, vợ của Herbert đã bắt đầu gào lên, khóc to hơn “Em sẽ không bỏ anh đâu.”

Một tuần trước ngày xử tử, Herbert đã có một đề nghị kỳ lạ. Anh nói nếu anh bị xử tử như đã định, anh muốn tôi nhờ nhà tù bật bản thánh ca “Thập Tự Xưa” (The Old Rugged Cross) khi anh đi về phía chiếc ghế điện. Tôi hơi ngại ngần khi nói ra đề nghị này với các cán bộ nhà tù, nhưng họ đã đồng ý, trước sự sửng sốt của tôi.

Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ, người ta luôn hát bài thánh ca này vào những khoảnh khắc ảm đạm trong các buổi lễ nhà thờ, những ngày Chúa Nhật Tiệc Thánh và Thứ Sáu Tuần Thánh. Nó buồn như bao bài thánh ca tôi từng nghe. Tôi không biết chính xác tại sao, nhưng tôi bắt đầu lẩm nhẩm lời bài hát này khi thấy có thêm những viên chức trong bộ sắc phục xuất hiện trên hành lang bên ngoài phòng thăm viếng. Có vẻ nó cũng có tác dụng. Nhưng tác dụng gì kia chứ?

Mấy phút sau, gia đình Herbert cùng hoà giọng với tôi. Tôi tiến về phía vợ Herbert khi chị đang ôm chặt anh và thổn thức. Tôi thì thầm với chị, “Chúng ta phải để anh ấy đi thôi.”

Trông thấy các viên chức đứng xếp hàng bên ngoài, Herbert khẽ đẩy vợ ra và bảo tôi đưa chị ra ngoài. Vợ Herbert bám vào tôi khóc vật vã khi tôi đưa chị ra khỏi phòng, gia đình chị vừa đi theo sau vừa khóc. Trong khoảnh khắc đau lòng này, dù muốn khóc, nhưng tôi vẫn tiếp tục hát khe khẽ.

Nhà tù đã sắp xếp cho tôi tới phòng xử tử khoảng một giờ sau đó để ở bên Herbert trước giờ xử tử. Mặc dù tôi đã xử lý một vài trường hợp tử hình có ngày thi hành án, song tôi chưa bao giờ có mặt tại một buổi xử tử. Trong những trường hợp tôi trực tiếp biện hộ khi còn ở Georgia, chúng tôi luôn giành được lệnh đình chỉ thi hành án. Tôi lo lắng khi nghĩ tới việc phải tận mắt chứng kiến cảnh tượng một người bị điện giật và chết cháy trước mặt mình. Tôi đã quá tập trung giành lệnh đình chỉ và mải nghĩ xem mình sẽ nói gì với Herbert khi vào trại đến nỗi tôi không mảy may nghĩ gì đến chuyện tôi sẽ chứng kiến cuộc xử tử. Tôi không muốn ở đó để chứng kiến, nhưng cũng không muốn bỏ mặc Herbert. Ý nghĩ bỏ anh lại một mình với những người chỉ mong anh chết khiến tôi nhận ra mình không thể rút lui. Bỗng nhiên tôi cảm thấy căn phòng nóng khủng khiếp như không còn không khí để thở. Người quản giáo phụ trách phòng thăm nuôi lại gần tôi sau khi tôi đưa gia đình Herbert ra ngoài, bà ta thì thầm nói cảm ơn. Tôi thấy bực bội trong lòng khi bà ta coi tôi như một kẻ đồng lõa mà không biết phải nói gì.

Khi chỉ còn chưa đầy ba mươi phút nữa là đến giờ xử tử, họ đưa tôi quay lại căn buồng bên cạnh phòng thi hành án ở sâu bên trong trại, nơi Herbert bị giam chờ tới giờ lên ghế điện. Họ đã cạo lông tóc trên người anh để cuộc xử tử được “sạch sẽ”. Nhà chức trách vẫn chưa sửa chiếc ghế điện kể từ sau vụ xử tử thảm họa Evans. Tôi nghĩ tới vụ xử tử cẩu thả [14] Horace Dunkins một tháng trước và cảm thấy trong lòng còn bức bối hơn nữa. Tôi đã cố gắng tìm hiểu các bước thực hiện một vụ xử tử và nảy ra ý nghĩ ngớ ngẩn rằng mình có thể can thiệp nếu họ làm sai gì đó.

Khi trông thấy tôi, Herbert xúc động hơn nhiều so với lúc ở trong phòng thăm nuôi. Anh run run, rõ ràng là anh đang hoảng loạn. Cảm giác khi bị cạo lông tóc để chuẩn bị cho cuộc xử tử hẳn là bẽ bàng. Trông anh rất lo lắng. Khi tôi bước vào buồng giam, anh nắm tay tôi và đề nghị cùng cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh nhìn xa xăm rồi quay lại nhìn tôi.

“Này Bryan, cảm ơn cậu. Tôi biết việc này cũng không dễ dàng với cậu, nhưng tôi rất biết ơn cậu vì đã đồng hành cùng tôi.”

Tôi mỉm cười và ôm anh. Nét mặt anh chùng xuống với một nỗi buồn khôn kham.

“Thật là một ngày kỳ lạ, Bryan ạ, thật sự kỳ lạ. Hầu hết những người sống yên ổn chẳng bao giờ phải ngồi cả ngày nghĩ rằng đây sẽ là ngày cuối cùng mình được sống và biết chắc rằng mình rồi sẽ bị giết. Thật khác với hồi ở Việt Nam... kỳ lạ