← Quay lại trang sách

Chương năm NGÀY VỀ CỦA JOHN

“Nếu cậu em tôi vào rừng đi săn hôm cô bé đó bị giết thì mọi chuyện sẽ đơn giản hơn nhiều.” Armelia Hand, chị gái Walter McMillian, ngừng lời trong khi mọi người có mặt trong căn nhà di động đồng thanh hưởng ứng. Tôi ngồi trên băng ghế, mặt quay về phía hai chục thành viên gia đình Walter, họ nhìn tôi đăm đăm trong khi chị Armelia nói.

“Ít nhất khi đó chúng tôi sẽ hiểu rằng cậu ấy có khả năng là người gây án.” Chị ngừng lại và nhìn xuống sàn nhà nơi chúng tôi đang tụ họp. “Nhưng vì chúng tôi đứng ngay cạnh cậu ấy cả buổi sáng hôm đó... Chúng tôi biết cậu ấy ở đâu... Chúng tôi biết cậu ấy đang làm gì!”

Mọi người xì xào đồng tình khi chị nói to hơn và chua chát hơn. Đó là một dạng chứng nhận ngầm cho những đấu tranh và phẫn uất mà tôi thường nghe thấy khi lớn lên trong một xóm đạo của người da đen.

“Hầu như tất cả mọi người ở đây đều đứng cạnh cậu ấy, nói chuyện với cậu ấy, cười đùa với cậu ấy, ăn uống cùng cậu ấy. Rồi vài tháng sau, cảnh sát đến và nói cậu ấy đã giết ai đó ở cách đấy hàng dặm đúng vào lúc chúng tôi đang ở bên cậu ấy. Rồi họ đưa cậu ấy đi khi mọi người đều biết đó là sự dối trá.”

Lúc này chị phải cố gắng lắm mới cất nên lời. Tay chị run rẩy, cảm xúc khiến giọng chị nghẹn lại, khó khăn lắm chị mới nói được nên lời.

“Chúng tôi ở bên cậu ấy suốt cả ngày! Chúng tôi phải làm gì đây, anh Stevenson? Anh nói đi, chúng tôi phải làm thế nào bây giờ?”

Khuôn mặt chị rúm lại vì đau đớn. “Tôi cảm thấy như mình cũng bị kết án vậy.”

Mọi người đồng thanh đáp lại từng câu nói của chị, “Phải rồi!” “Đúng thế đấy!”

“Tôi thấy như họ cũng đang tống mình vào trại tử tù. Chúng tôi phải dạy lũ trẻ tự bảo vệ mình như thế nào khi ta ở trong chính ngôi nhà mình, làm đúng công việc của mình, quây quần với chính gia đình mình, rồi cuối cùng bị vu cho tội giết người và bị đẩy vào trại tử tù?”

Tôi ngồi trên sofa nhìn gương mặt đau đớn của chị. Lúc mới đến đây, tôi không ngờ mình sẽ có một buổi gặp gỡ dữ dội đến thế. Mọi người tuyệt vọng tìm kiếm câu trả lời và cố gắng chịu đựng tình cảnh trớ trêu này. Tôi đang vắt óc nghĩ xem mình nên nói gì cho phù hợp thì một cô gái cất tiếng.

“Chú Johnny D không bao giờ làm chuyện này, bất kể chúng ta có ở bên chú ấy hay không,” cô nói, sử dụng biệt danh mà gia đình và bạn bè đặt cho Walter. “Chú ấy không phải người như vậy.

Cô gái này là cháu của Walter. Cô tiếp tục bác bỏ ý tưởng rằng Walter sẽ cần một bằng chứng ngoại phạm, điều này có vẻ được đám đông ủng hộ.

Tôi thấy nhẹ nhõm vì có thể trút bớt áp lực trong phút chốc khi đại gia đình của Walter dường như đang chuyển qua tranh luận liệu tính cách của Walter có khiến bằng chứng ngoại phạm trở nên thừa thãi hoặc thậm chí xúc phạm không. Đó là một ngày dài. Tôi không biết chắc lúc đó là mấy giờ, nhưng tôi biết đã rất muộn và cảm thấy mệt nhoài. Sớm hôm đó, tôi đã ở trại tử tù mấy tiếng đồng hồ, căng mình xem lại biên bản phiên xử cùng Walter. Trước khi gặp Walter, tôi cũng chuyện trò với những thân chủ mới ở trại. Vụ việc của họ không cấp bách, không có hạn chót nào đang chờ đợi, nhưng tôi chưa gặp họ kể từ sau vụ xử tử Richardson, và họ rất nóng lòng được tâm sự.

Bây giờ vì hồ sơ vụ án của Walter đã hoàn tất, nên hạn nộp đơn kháng cáo sắp qua, và thời gian khá gấp rút. Lẽ ra tôi nên trở về Montgomery ngay sau khi rời trại tử tù, nhưng gia đình Walter muốn gặp tôi. Vì Monroeville chỉ cách trại chưa đầy một giờ chạy xe, tôi hứa sẽ tới chỗ họ.

Vợ của Walter, chị Minnie Belle McMillian, và cô con gái Jackie đã đứng đợi sẵn khi tôi dừng xe bên căn nhà tồi tàn của nhà McMillian ở Repton, gần con đường cái dẫn vào Monroeville. Theo chỉ dẫn của Walter, tôi biết mình sắp tới nơi khi đi qua một dãy cửa hàng rượu trên đường ranh giữa hạt Conecuh và hạt Monroe. Hạt Monroe là hạt “khô” [1] bởi lẽ rượu bị cấm bán ở đây; vì vậy, để giải quyết cơn khát của người dân, một vài hàng rượu đã mọc lên ở đường ranh của hạt này với hạt Conecuh. Nhà Walter chỉ cách địa giới hạt vài dặm.

Tôi dừng xe trước lối vào và bất ngờ trước cảnh tượng điêu tàn: đây là nhà của một gia đình nghèo khó. Hiên trước được đỡ bằng ba khối gạch tổ ong xếp liêu xiêu bên dưới lớp sàn gỗ đã có dấu hiệu mục nát. Khung cửa sổ màu xanh rất cần được sơn lại, và mấy bậc thang tạm bợ là lối vào duy nhất. Mặt sân ngổn ngang những phụ tùng xe, lốp, đồ gỗ hỏng và các đồ phế liệu khác. Trước khi ra khỏi xe, tôi quyết định khoác lên mình chiếc áo veste cũ kỹ quen thuộc, mặc dù trước đó tôi phát hiện ra cả hai tay áo đều bị mất khuy.

Minnie bước ra và xin lỗi vì sân nhà bừa bộn khi tôi cẩn trọng bước lên thềm. Chị lịch thiệp mời tôi vào nhà trong khi một cô gái ở độ tuổi hai mươi luẩn quẩn theo sau chị.

“Để tôi làm món gì cho cậu ăn. Cậu đã ở trong trại cả ngày rồi,” chị nói. Minnie trông mệt mỏi nhưng có vẻ kiên nhẫn và mạnh mẽ đúng như những gì tôi hình dung qua lời miêu tả của Walter và cảm nhận của tôi khi nói chuyện điện thoại với chị. Vì Nhà nước đã đề cập đến cuộc tình giữa Walter và Karen Kelly như một phần của bản án, nên phiên tòa quả thật khó khăn đối với Minnie. Dù vậy, trông chị vẫn rất vững vàng.

“Ồ không, cảm ơn chị. Cảm ơn chị nhiều, nhưng tôi ổn. Walter và tôi đã ăn linh tinh ở khu thăm nuôi rồi.”

“Ở đấy làm gì có gì ngoài bim bim và soda. Để tôi nấu cho cậu món gì đó ngon ngon.”

“Chị tốt quá, tôi rất cảm ơn, nhưng thật sự tôi không sao đâu. Tôi biết chị cũng đã vất vả cả ngày rồi.”

“Ồ vâng, tôi làm ca 12 tiếng ở nhà máy. Ở đấy, người ta chả thèm nghe về chuyện làm ăn, ốm đau, căng thẳng, khách khứa và tuyệt nhiên là bất cứ vấn đề gì về gia đình nhau đâu.”

Giọng chị không có vẻ gì giận dữ hay chua chát, chỉ buồn rầu. Chị lại gần, khoác tay tôi và chậm rãi dẫn tôi vào trong nhà. Chúng tôi ngồi xuống chiếc sofa trong phòng khách bừa bộn. Giấy tờ và quần áo chất đống trên những chiếc ghế chẳng ăn nhập gì với nhau; đồ chơi của mấy đứa nhỏ vứt lung tung trên sàn nhà. Minnie ngồi kế bên, gần như dựa vào tôi trong khi chị tiếp tục nói nhỏ nhẹ.

“Ở chỗ làm, người ta bảo tôi làm gì thì tôi làm việc này. Tôi cố nuôi cho con bé học xong, thật chẳng dễ tí nào.”

Chị gật đầu với cô con gái Jackie, cô nhìn mẹ thương cảm. Jackie đi ngang phòng tới ngồi gần chúng tôi. Walter và Minnie đã kể cho tôi nghe mấy lần về các con của họ - Jackie, Johnny và “Boot”. Cái tên của Jackie luôn được giới thiệu kèm với câu “Nó đang học cao đẳng”. Tôi bắt đầu nghĩ về cô với cái tên Jackie “Nó-đang-học-cao-đẳng” McMillian. Ba người con đều đã ở tuổi đôi mươi, nhưng cả ba vẫn rất gần gũi và bảo vệ mẹ.

Tôi kể với họ về chuyến thăm Walter. Mấy tháng rồi Minnie chưa tới trại tù, chị tỏ ý biết ơn khi tôi đã bỏ thời gian đến đó. Tôi nói qua với họ về quá trình kháng cáo và bàn về các bước tiếp theo của vụ việc. Họ xác nhận bằng chứng ngoại phạm của Walter và cập nhật cho tôi nghe những tin đồn đang lan trong thị trấn về vụ việc.

“Tôi tin chính lão già Miles Jackson đã gây ra vụ đó,” Minnie khẳng định.

“Con nghĩ thủ phạm là tay chủ mới, Rick Blair,” Jackie nói. “Mọi người đều biết họ đã tìm thấy mẩu da của một người đàn ông da trắng trong kẽ móng tay của cô gái; chắc cô ta đã chống cự với kẻ định giết mình.”

“Ừm, chúng ta sẽ tìm ra sự thật,” tôi nói. Tôi cố gắng tỏ ra tự tin, nhưng dựa trên những gì tôi đọc được trong biên bản phiên tòa, tôi nghĩ khó có khả năng cảnh sát sẽ gửi cho tôi các bằng chứng mà họ có hoặc cho tôi xem những hồ sơ và hiện vật thu được tại hiện trường vụ án. Biên bản phiên tòa cho thấy các viên chức thực thi pháp luật dường như đã hành xử vô pháp khi điều tra Walter. Cảnh sát đã tống Walter vào trại tử tù trong khi anh chỉ là người bị tạm giam đang chờ xét xử; tôi e rằng họ sẽ không nghiêm túc giao nộp những bằng chứng ngoại phạm để giúp anh chứng minh sự vô tội của mình theo quy định của pháp luật.

Chúng tôi nói chuyện suốt hơn một tiếng đồng hồ - hoặc chỉ có họ nói và tôi nghe. Có thể tưởng tượng mười tám tháng qua kể từ ngày Walter bị bắt đã khủng khiếp như thế nào.

“Phiên tòa mới là tồi tệ nhất,” Minnie nói. “Họ thản nhiên phớt lờ khi chúng tôi kể rằng vào thời điểm đó Johnny D đang ở nhà. Không ai giải thích cho tôi biết tại sao họ lại làm vậy. Tại sao họ lại làm vậy hả cậu?” Chị nhìn tôi như thể chị thành tâm mong rằng tôi có thể đưa ra câu trả lời.

“Phiên tòa đó được dựng lên bằng những lời dối trá,” tôi nói. Tôi vẫn cẩn trọng khi thể hiện quan điểm mạnh mẽ như vậy với gia đình Walter vì tôi chưa điều tra vụ án đủ kỹ lưỡng để dám chắc rằng không có bằng chứng nào buộc tội anh nữa. Nhưng biên bản phiên tòa đã làm tôi phẫn nộ, và lúc này tôi cảm thấy sự giận dữ đó đang quay trở lại - không chỉ bởi sự bất công mà Walter phải chịu đựng, mà còn bởi những gánh nặng nó gây ra cho toàn bộ cộng đồng. Khi nói chuyện với tôi về vụ việc, tất cả mọi người trong cộng đồng da đen nghèo khổ này đều tỏ ra bi quan. Thất bại thảm hại của công lý đã làm cho cả cộng đồng khổ sở, tuyệt vọng, khiến tôi khó có thể vô tư, khách quan được.

“Hết lời dối trá này đến lời dối trá khác,” Tôi nói tiếp. “Người ta nghe những lời nói dối nhiều đến nỗi khi chị nói ra sự thật, họ thấy sẽ dễ dàng hơn nếu tin rằng chính chị mới là kẻ nói dối. Chỉ đọc biên bản phiên tòa thôi, tôi cũng đã bức xúc lắm rồi, vì vậy tôi hiểu mọi người đang cảm thấy như thế nào.”

Điện thoại reo, Jackie chạy tới nhấc máy. Cô quay lại sau vài phút. “Eddie bảo mọi người đang rất sốt ruột. Họ muốn biết khi nào thì anh đến.”

Minnie đứng dậy, vuốt phẳng váy áo. “Ừ, chắc chúng ta nên tới đó thôi. Họ đã chờ cậu cả ngày rồi.”

Khi tôi tỏ ra lúng túng, Minnie mỉm cười. “À, tôi đã bảo cả gia đình là chúng tôi sẽ đưa cậu tới đó, vì nếu cậu mới lái xe ở đây lần đầu, cậu sẽ khó tìm đường đi. Các chị em, các cháu của anh ấy và tất cả mọi người đều muốn gặp cậu.” Tôi cố không tỏ vẻ sốt ruột, nhưng quả thực tôi bắt đầu lo về thời gian.

Chúng tôi chen vào chiếc Corolla hai cửa của tôi, trong xe đầy giấy tờ và biên bản phiên tòa. “Chắc anh tiêu tiền vào những thứ khác nhỉ,” Jackie đùa khi xe lăn bánh.

“À vâng, comple xịn giờ là ưu tiên hàng đầu của tôi,” tôi trả lời.

“Chả có vấn đề gì với bộ comple hay cái xe của cậu cả,” Minnie bênh.

Mọi người chỉ đường cho tôi lái xe dọc theo một con đường dài ngoằn ngoèo và bụi bặm, đầy những khúc cua khó, xuyên qua một khu vực rậm rịt cây cối. Khi bóng tối buông xuống, con đường lách vào một khu rừng rậm rạp dài tới vài dặm, rồi trở ra một cây cầu nhỏ chỉ đủ cho một xe chạy qua. Cây cầu có vẻ yếu và xập xệ, vì vậy tôi cho xe chạy chậm rồi dừng lại hẳn.

“Không sao đâu. Bữa nay trời ít mưa, mưa thì mới có vấn đề,” Minnie nói.

“Vấn đề gì kia ạ?” Tôi không muốn tỏ ra sợ hãi, nhưng chúng tôi đang ở chốn đồng không mông quạnh, và trong bóng tối đặc quánh, tôi không biết dưới cầu là đầm, lạch nước hay một con sông nhỏ nữa.

“Không sao đâu. Hàng ngày mọi người vẫn lái xe qua đây mà,” Jackie nói chen vào.

Quay lại thì cũng hơi ê mặt, nên tôi lái xe chầm chậm qua cầu và thở phào khi sang tới đầu bên kia. Xe đi tiếp một dặm nữa cho tới khi cánh rừng bắt đầu nhường chỗ cho những căn nhà di động, vài căn nhà nhỏ và cuối cùng, cả một ngôi làng hiện ra.

Xe leo lên một quả đồi cho tới khi chúng tôi gặp một căn nhà di động sáng lên trong đêm nhờ đống lửa cháy trong một cái thùng cạnh đó. Có sáu, bảy đứa trẻ đang chơi bên ngoài; chúng chui tọt vào trong khi thấy ô tô của chúng tôi dừng lại. Khi chúng tôi bước ra, một người đàn ông cao lớn ló ra khỏi căn nhà. Anh tiến về phía chúng tôi, ôm Minnie và Jackie rồi bắt tay tôi.

“Mọi người đang chờ anh đấy,” anh nói với tôi. “Tôi biết chắc anh có rất nhiều việc phải làm, nhưng chúng tôi rất cảm kích vì anh đã tới đây với chúng tôi. Tôi là Giles, cháu của chú Walter.”

Giles dẫn tôi tới căn nhà và mở cửa để tôi bước vào trong. Hơn ba mươi người ngồi chật cứng trong căn nhà nhỏ, tiếng nói chuyện rì rầm của họ vụt tắt khi tôi bước vào. Tôi không ngờ có đông người đến vậy, họ nhìn tôi chăm chú và đầy trân trọng, rồi lần lượt mỉm cười với tôi. Rồi trước sự kinh ngạc của tôi, tiếng vỗ tay vang lên khắp phòng. Tôi sửng sốt trước cử chỉ đó. Chưa có ai từng hoan nghênh sự xuất hiện của tôi như thế. Họ là những bà lớn tuổi, những cô gái trẻ, đàn ông tầm tuổi Walter và một vài ông già hơn. Gương mặt họ đều hằn sâu nét lo âu mà tôi lúc này đã thấy quá quen thuộc. Khi tiếng vỗ tay ngớt dần, tôi bắt đầu nói.

“Cảm ơn mọi người, mọi người tốt quá,” tôi mở lời. “Tôi rất vui khi được gặp tất cả mọi người. Anh McMillian kể với tôi là anh có một đại gia đình, nhưng tôi không ngờ mọi người lại ở đây đông thế. Hôm nay tôi đã gặp anh ấy, và anh ấy muốn tôi gửi lời cảm ơn tới tất cả mọi người vì đã ở bên anh ấy. Tôi hy vọng mọi người biết sự ủng hộ của mọi người có ý nghĩa như thế nào. Mỗi sáng anh ấy phải thức dậy trong trại tử tù, điều đó thật chẳng dễ dàng chút nào. Nhưng anh ấy biết anh ấy không đơn độc. Anh ấy vẫn kể về mọi người suốt.”

“Ngồi xuống đi, anh Stevenson,” ai đó nói lớn.

Tôi ngồi xuống một băng ghế trống mà có lẽ mọi người đã chừa lại cho tôi, Minnie ngồi xuống cạnh tôi. Những người còn lại đều đứng đối diện với tôi.

“Chúng tôi không còn chút tiền nào. Chúng tôi đã trả hết cho các luật sư đầu tiên rồi,” một người đàn ông cất tiếng.

“Tôi hiểu, và tôi sẽ không lấy đồng nào. Tôi làm việc cho một văn phòng luật phi lợi nhuận, chúng tôi trợ giúp pháp lý miễn phí cho những thân chủ mà chúng tôi đại diện,” tôi trả lời.

“Ồ, vậy các anh thanh toán hóa đơn bằng cách nào?” một cô gái hỏi. Mọi người cười ồ trước câu hỏi đó.

“Chúng tôi nhận tài trợ từ các quỹ và từ những người ủng hộ công việc của chúng tôi.”

“Anh cứ đưa được Johny D về nhà đi, rồi tôi sẽ tài trợ tất tật,” một bà cười tinh quái. Mọi người bật cười và tôi cũng mỉm cười theo.

Một phụ nữ đứng tuổi lên tiếng. Đó là Armelia Hand. “Chúng tôi không có gì nhiều, anh Stevenson ạ, nhưng anh đang lo cho người mà chúng tôi yêu quý. Chúng tôi có gì, thì anh sẽ có đó. Bọn họ đã làm tan nát trái tim chúng tôi,” chị nói.

Tôi bắt đầu trả lời các câu hỏi, nghe những lời bình luận, những chứng cứ về Walter, về thị trấn, chuyện chủng tộc, cảnh sát, phiên tòa, và về cách cộng đồng đang đối xử với cả gia đình. Thời gian trôi nhanh, và tôi biết có lẽ mình đã nắm hết tất cả những thông tin hữu ích từ gia đình Walter, nhưng mọi người vẫn muốn nói tiếp. Có lẽ việc chia sẻ với tôi những băn khoăn là phương thuốc giúp họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Chỉ sau chốc lát, tôi đã cảm nhận được chút hy vọng trong những câu hỏi và bình luận của họ. Tôi giải thích về quá trình kháng cáo và nói về những vấn đề mà ai cũng có thể thấy rõ trong hồ sơ vụ án. Tôi bắt đầu cảm thấy được động viên khi một vài thông tin tôi cung cấp có lẽ đã giải tỏa được nỗi lo âu của họ. Chúng tôi bắt đầu nói đùa, và tôi cảm thấy mình được bao bọc, tiếp thêm sức mạnh từ lúc nào không hay.

Một bà lớn tuổi đưa cho tôi một cốc trà đá ngọt trong khi tôi ngồi nghe và trả lời các câu hỏi. Tôi uống một hơi hết cốc thứ nhất vì tôi hơi căng thẳng (trà cũng rất ngon nữa). Bà nhìn tôi uống cạn cốc nước và mỉm cười hài lòng. Bà nhanh nhẹn rót thêm trà vào cốc, và bất kể tôi uống nhiều hay ít, bà đều để ý đến cốc trà của tôi suốt cả buổi tối. Sau hơn ba tiếng đồng hồ, Minnie nắm tay tôi và nói mọi người nên để tôi đi. Đã gần nửa đêm, và tôi sẽ mất ít nhất hai giờ để về Montgomery. Tôi nói lời từ biệt và ôm tất cả mọi người có mặt ở đó, rồi bước ra ngoài trong màn đêm đen thẫm.

Tháng Mười hai ở Nam Alabama hiếm khi lạnh buốt vào ban ngày, nhưng ban đêm, nhiệt độ có thể giảm sâu như để nhắc ta rằng mùa đông đã sang, dù đó là miền Nam. Không có áo choàng, tôi cố giữ ấm cho chặng đường dài sau khi chở Minnie và Jackie về nhà. Cuộc gặp với gia đình họ làm tôi phấn chấn. Rõ ràng là có rất nhiều người quan tâm sâu sắc tới Walter, do đó cũng quan tâm tới những việc tôi làm và cách tôi giúp đỡ anh. Nhưng có thể thấy rõ mọi người rất hoang mang sau những chuyện đã xảy ra. Vài người trong số những người tôi gặp không hẳn là người thân của Walter, nhưng họ đã có mặt trong buổi tiệc của gia đình anh vào ngày xảy ra vụ án mạng. Họ bất bình trước bản án mà Walter phải chịu đến nỗi họ cũng ghé qua khi biết tôi tới. Họ cần một nơi để chia sẻ nỗi đau và sự hoang mang của mình.

Năm 1903, W. E. B. Du Bois đã viết trong tác phẩm đầy sức ảnh hưởng của ông, Tâm hồn người da đen (The souls of black folk), một truyện ngắn xuất sắc nhưng không khỏi ám ảnh. Suốt đường về, tôi nghĩ đến truyện “Ngày về của John” (Of the Corning of John). Trong câu chuyện của Du Bois, một chàng da đen trẻ tuổi quê ở miền duyên hải Georgia được gửi tới một ngôi trường chuyên đào tạo giáo viên da đen cách đó hàng trăm dặm. Cả cộng đồng da đen quê anh đã gom góp tiền nuôi anh ăn học. Cộng đồng đầu tư cho John với hy vọng, rồi một ngày, anh sẽ trở về và dạy cho những đứa trẻ người Mỹ gốc Phi bị cấm tới trường công. Là một người vô tư và ham vui, John suýt bị đuổi học cho đến lúc anh nhớ tới niềm tin mà mọi người trao gửi và nỗi hổ thẹn nếu anh trở về mà chưa tốt nghiệp. John tu tỉnh, tập trung học tập và tràn đầy quyết tâm, anh tốt nghiệp hạng ưu và trở về với hoài bão thay đổi quê hương.

John thuyết phục vị thẩm phán da trắng đang nắm quyền kiểm soát thị trấn cho phép anh mở một ngôi trường cho trẻ em da đen. Những năm tháng dùi mài đèn sách tiếp sức cho John, khiến anh có chính kiến mạnh mẽ về tự do và bình đẳng chủng tộc, và điều này đã gây họa cho chính anh và cộng đồng da đen quê anh. Thẩm phán đóng cửa trường khi biết John là người đứng lớp. Sau khi trường bị đóng cửa, John trở về nhà, bất bình và chán nản. Trên đường về, anh thấy em gái mình bị con trai viên thẩm phán sàm sỡ. Anh nổi xung lên và cầm một thanh gỗ đập vào đầu hắn. John đi tiếp về nhà để chào tạm biệt mẹ. Du Bois kết thúc câu chuyện bi kịch với chi tiết viên thẩm phán tức giận đuổi kịp John cùng với một đám người mà lão đã tập hợp để hành hình anh.

Tôi đọc truyện này mấy lần hồi học đại học bởi tôi thấy mình giống John khi cũng là hy vọng của cả một cộng đồng. Các cô chú của tôi không ai tốt nghiệp đại học, nhiều người thậm chí còn chưa học xong trung học. Mọi người trong xóm đạo luôn động viên tôi mà không đòi hỏi đền đáp, nhưng tôi luôn cảm thấy nó như một món nợ lớn. Du Bois hiểu sâu sắc tâm trạng này và thổi vào nó một sức sống lôi cuốn tôi. (Tôi chỉ mong sự tương đồng giữa tôi và John không kéo dài đến tận đoạn bị hành hình.)

Đêm đó khi lái xe về nhà sau cuộc gặp gỡ với gia đình Walter, tôi nghĩ về câu chuyện theo một hướng hoàn toàn mới. Tôi chưa từng quan tâm đến sự vụn vỡ mà cộng đồng của John hẳn đã cảm thấy sau khi anh bị hành hình. Mọi thứ hẳn là đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều đối với những người từng chung tay giúp đỡ để John trở thành thầy giáo. Con đường đến với cơ hội và thành công của họ sẽ chông gai và đau đớn hơn. Sự học của John đã không dẫn tới tự do và tiến bộ mà chỉ đem lại bạo lực và bi kịch. Nghi hoặc, thù ghét và bất công cứ thế nảy nở thêm.

Gia đình Walter và hầu hết những người da đen nghèo trong cộng đồng của anh đều cảm thấy nặng trĩu vì bản án của Walter. Kể cả khi không có mặt tại nhà Walter vào ngày xảy ra vụ việc, hầu hết những người dân da đen ở Monroeville đều quen biết ai đó tới dự buổi tiệc hôm ấy. Nỗi đau của mọi người trong căn nhà di động đó là hữu hình - tôi có thể cảm nhận được điều đó. Cả cộng đồng khát khao có được chút hy vọng về công lý. Nhận ra điều ấy làm tôi lo lắng nhưng cũng thêm quyết tâm.

Tôi đã quen với việc nhận điện thoại từ rất nhiều người quan tâm đến trường hợp của Walter. Đa phần là người da đen nghèo, họ động viên, ủng hộ tôi, và chuyến thăm gia đình Walter thậm chí còn đem lại cho tôi thêm nhiều cuộc gọi nữa. Và thỉnh thoảng, một người da trắng từng thuê Walter lại gọi điện đề nghị giúp đỡ như Sam Crook. Khi Sam gọi, ông khăng khăng mời tôi ghé qua chỗ ông khi trở lại thị trấn lần tới.

“Tôi là kẻ nổi loạn,” ông nói vào cuối cuộc trò chuyện. “Thuộc Sư đoàn 117 của Quân miền Nam.”

“Gì cơ, thưa ông?”

“Họ nhà tôi là những người anh hùng của Liên minh. Tôi đã thừa kế đất đai, tước hiệu và niềm kiêu hãnh của họ. Tôi yêu vùng đất này, nhưng tôi biết những điều xảy ra với Walter McMillian là không đúng chút nào.”

“Vâng, cảm ơn ông đã gọi điện.”

“Anh sẽ cần hỗ trợ, sẽ cần ai đó quen biết những người anh đang phải đối đầu, và tôi sẽ giúp anh.”

“Tôi sẽ rất biết ơn nếu được ông giúp đỡ.”

“Còn một điều này nữa.” Ông thì thầm. “Anh có nghĩ điện thoại của anh đang bị nghe trộm không?”

“Không, thưa ông, tôi nghĩ máy của tôi nghe rõ.”

Sam lại nói to hơn.

“Tôi đã quyết định không thể để chúng treo cổ anh ta được. Tôi sẽ kiếm vài thằng bé nữa, và chúng tôi sẽ cứu anh ta trước khi chúng đưa anh ta đi. Tôi không thể làm ngơ để chúng giết một người tốt vì một tội mà tôi biết anh ta không hề gây ra.”

Sam Crook tuyên bố chắc nịch. Tôi ngập ngừng không biết trả lời thế nào.

“Vâng... cảm ơn ông,” là tất cả những gì tôi có thể nói.

Về sau tôi hỏi Walter về Sam Crook, anh chỉ mỉm cười. “Tôi đã làm rất nhiều việc cho ông ta. Ông ta cũng đối tốt với tôi. Ông ta là một tay rất thú vị.”

Trong những tháng đầu tiên, cứ khoảng hai tuần tôi lại gặp Walter một lần, và dần biết được một số thói quen của anh. “Thú vị” là cách nói tránh của Walter dành cho những người lập dị. Từng làm việc cho hàng trăm người trên khắp hạt suốt nhiều năm, anh đã gặp không ít người “thú vị”. Người nào càng bất thường hoặc kỳ lạ, họ sẽ càng trở nên “thú vị” theo cách nói của Walter. “Rất thú vị”, “thực sự thú vị” và “anh ta siêuuuuuuuuu thú vị” là chỉ dấu cho những cá tính lạ đời. Walter dường như không thể nói xấu bất kỳ ai. Anh chỉ cười khùng khục nếu anh nghĩ ai đó lập dị.

Walter ngày càng thoải mái hơn khi gặp tôi. Khi chúng tôi trở nên thân thiết hơn, anh đôi khi cũng tạt qua những chủ đề không liên quan gì đến vụ việc. Chúng tôi nói về các cai tù và kinh nghiệm ứng xử của anh với những tù nhân khác. Anh nói về những người ở quê nhà mà anh vẫn muốn tới thăm nhưng chưa làm được. Trong những cuộc nói chuyện đó, Walter cho thấy anh là người rất biết cảm thông với người khác. Anh dành nhiều thời gian hình dung xem người khác suy nghĩ và cảm thấy gì mà lại hành xử như thế. Anh suy đoán về những căng thẳng trong công việc của cai tù để biện minh cho những lời thô lỗ mà họ nói với anh. Anh nói mọi người hẳn phải cảm thấy khó khăn lắm khi tới thăm một người ở trại tử tù.

Chúng tôi nói về những món ăn anh thích, về những công việc mà anh làm thời trai trẻ. Chúng tôi nói về chủng tộc và quyền lực, về những chuyện khôi hài và những chuyện đau buồn. Anh cảm thấy khá hơn khi được nói chuyện bình thường với một người không phải tử tù hay quản ngục, và tôi luôn dành thêm thời gian để tâm tình với anh về những chuyện không liên quan đến vụ việc. Không chỉ cho anh mà còn cho chính mình nữa.

Tôi nỗ lực thúc đẩy dự án đến nỗi công việc đã nhanh chóng trở thành cuộc sống của tôi. Tôi cảm thấy sảng khoái mỗi khi được nói chuyện như bạn bè với thân chủ, thay vì với tư cách luật sư. Vụ việc của Walter đang trở thành vụ việc phức tạp và mất nhiều thời gian nhất mà tôi từng xử lý. Những cuộc chuyện trò với anh đã an ủi tôi, mặc dù chúng cũng khiến tôi cảm nhận sức ép của sự ngược đãi mà anh phải gánh chịu theo những góc độ ngày càng cá nhân hơn.

“Này anh bạn, mấy tay ở đây đều kể cậu đang xử lý vụ việc của họ ra sao. Chắc cậu chẳng được một phút bình yên nào đâu nhỉ,” một lần anh nói với tôi.

“Vâng, mọi người đều cần giúp đỡ, thế nên chúng tôi phải cố gắng.”

Anh nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ mà tôi chưa thấy bao giờ. Có lẽ anh đang tự hỏi liệu anh có thể cho tôi lời khuyên nào không - anh chưa bao giờ làm vậy. Cuối cùng, anh cũng nói ra điều anh đang nghĩ.

“Cậu biết cậu không thể giúp tất cả mọi người mà,” anh nói nghiêm túc. “Cậu sẽ tự giết mình nếu cậu cố làm thế.” Anh tiếp tục nhìn tôi lo ngại.

Tôi mỉm cười. “Tôi biết.”

“Ý tôi là, cậu phải giúp tôi đấy. Đừng trì hoãn việc của tôi đấy nhé,” anh mỉm cười. “Tôi mong cậu sẽ chiến đấu với tất cả để đưa tôi ra khỏi đây. Xử lý tất cả bọn chúng nếu cần.”

“So vai với tụi khổng lồ, giết chết lũ ác thú, vật nhau với cá sấu...” tôi đùa.

“Ừ, và kiếm ai đó sẵn sàng chạy tiếp sức phòng khi chúng cắt đầu cậu, bởi vì tôi vẫn cần được giúp đỡ nếu chúng xử lý cậu.”

Càng dành nhiều thời gian bên Walter, tôi càng tin rằng anh là một người tử tế, tốt bụng và quảng đại. Anh thẳng thắn thừa nhận rằng mình đã có những quyết định sai lầm, nhất là khi dính đến đàn bà. Với tất cả mọi người - từ bạn bè, gia đình cho tới những người quen như Sam Crook - Walter thường cố gắng làm điều đúng đắn. Tôi chưa bao giờ coi thời gian chúng tôi trò chuyện với nhau là lãng phí hay vô bổ.

Trong các vụ án tử hình, việc dành thời gian với thân chủ là rất quan trọng. Xây dựng niềm tin với thân chủ không chỉ là việc làm cần thiết để kiểm soát quá trình tố tụng phức tạp và giải quyết sức ép của cuộc xử tử sắp đến; nó còn là chìa khóa để vận động có hiệu quả. Sinh mạng của thân chủ thường phụ thuộc vào khả năng luật sư có dựng nên được một câu chuyện lay động, có thể kêu gọi sự cảm thông bằng cách đặt những quyết định sai lầm hoặc hành vi bạo lực của thân chủ vào bối cảnh cụ thể hay không. Để khai thác được những chi tiết chưa từng phát hiện về quá khứ của một người - những điều khó nói nhưng vô cùng quan trọng - đòi hỏi phải tạo dựng niềm tin. Ta không thể khiến một người thừa nhận từng bị hắt hủi, bỏ rơi hoặc lạm dụng tình dục khi còn nhỏ nếu thiếu những chuyến thăm thường xuyên và những cuộc trò chuyện an ủi hàng giờ. Tán gẫu về thể thao, truyền hình, văn hóa đại chúng hay bất cứ điều gì mà thân chủ muốn là cách đích đáng để xây dựng một mối quan hệ giúp đem lại hiệu quả công việc, đồng thời tạo ra sự gắn kết chân thành với thân chủ. Đó chính xác là điều đã diễn ra giữa Walter và tôi.

Không lâu sau cuộc gặp đầu tiên với gia đình Walter, tôi nhận được điện thoại từ một chàng trai trẻ tên là Darnell Houston, cậu nói với tôi rằng cậu có thể chứng minh Walter vô tội. Giọng cậu run rẩy ngại ngùng, nhưng cậu đã quyết tâm nói chuyện với tôi. Cậu không muốn nói qua điện thoại, vì vậy tôi lái xe tới gặp cậu vào một buổi chiều. Cậu sống ở vùng nông thôn của hạt Monroe, trong một trang trại mà gia đình cậu đã làm thuê từ thời còn chế độ nô lệ. Darnell là một thanh niên chất phác, và tôi đoán hẳn cậu đã băn khoăn mãi không biết có nên liên hệ với tôi không.

Khi tôi đến nơi, cậu bước ra chào. Cậu là một thanh niên da đen tuổi độ đôi mươi, một tín đồ của cơn sốt “tóc xù mì” khi đó. Tôi để ý thấy mốt xử lý tóc đen bằng hóa chất để làm nó mềm và dễ tạo kiểu hơn đã xuất hiện ở Monroeville; tôi đã thấy vài người đàn ông da đen cả già và trẻ tự hào diện kiểu đầu đó. Mái tóc xù nhảy nhót tưng tưng của Darnell tương phản với vẻ rụt rè lo lắng của cậu. Chúng tôi vừa ngồi xuống, cậu đã vào đề ngay.

“Anh Stevenson,” cậu mở lời. “Tôi có thể chứng minh chú Walter McMillian vô tội.”

“Thật không?”

“Bill Hooks nói dối đấy. Tôi thậm chí còn không biết anh ta có dính líu đến vụ này cho tới khi có người kể với tôi rằng anh ta là công cụ để họ tống chú Walter McMillian vào trại tử tù. Ban đầu, tôi không tin Bill có liên can, nhưng rồi tôi được biết anh ta ra làm chứng rằng anh ta đã lái xe ngang qua hiệu giặt là vào hôm cô bé đó bị giết. Đấy là nói dối.”

“Làm sao cậu biết?”

“Chúng tôi làm việc cùng nhau cả ngày hôm đó mà. Chúng tôi cùng làm ở cửa hàng phụ tùng ô tô NAPA tháng Mười một năm ngoái. Tôi vẫn nhớ thứ Bảy hôm cô bé ấy bị giết vì xe cứu thương và cảnh sát chạy vè vè trên phố. Cứ như thế phải đến ba mươi phút. Tôi đã làm việc ở thị trấn được hai năm và chưa bao giờ thấy cảnh tượng nào như thế.”

“Cậu làm việc vào sáng thứ Bảy hôm Ronda Morrison bị giết ư?”

“Vâng, thưa anh, tôi làm cùng Bill Hooks từ khoảng tám giờ sáng cho đến lúc ăn trưa xong, sau khi tất cả xe cứu thương đều đã chạy qua tiệm của chúng tôi. Còi hú lúc khoảng gần mười một giờ. Lúc ấy, Bill đang ở tiệm sửa xe với tôi. Cửa tiệm chỉ có một lối ra vào duy nhất; anh ta ở tiệm cả buổi sáng. Nếu anh ta nói rằng anh ta lái xe qua hiệu giặt là lúc cô bé bị giết thì đấy là nói dối.”

Một trong những điều làm ta dễ bực bội nhất khi đọc biên bản xét xử Walter là lời khai của các nhân chứng phía nhà nước - Ralph Myers, Bill Hooks, và Joe Hightower - đều không thể tin nổi. Những điều họ khai mâu thuẫn một cách nực cười và hoàn toàn vô căn cứ. Lời kể của Myers về vai trò của y trong vụ án - Walter ép y lái xe tới nơi gây án rồi đưa y về sau khi xong việc - hoàn toàn vô nghĩa lý. Biên bản cũng cho thấy lời chứng của Hooks, một nhân chứng quan trọng chống lại McMillian, không có sức thuyết phục hay đáng tin cậy - hắn chỉ kể đi kể lại câu chuyện hắn đã khai với cảnh sát rằng hắn lái xe qua cửa hiệu giặt là vào thời điểm xảy ra vụ việc. Với bất cứ câu hỏi nào, hắn cũng chỉ lặp đi lặp lại câu trả lời rằng hắn trông thấy Walter McMillian ra khỏi cửa hiệu với một cái túi, rồi anh bước lên chiếc xe tải gầm thấp và được một gã da trắng chở đi. Hắn không thể trả lời bất cứ câu hỏi nào của Chestnut về việc liệu hôm đó hắn còn nhìn thấy thứ gì khác hay hắn đã làm gì tại khu vực đó. Hắn chỉ nhắc đi nhắc lại rằng hắn trông thấy McMillian ở cửa hiệu giặt là. Nhưng nhà chức trách cần lời khai của Hooks.

Kế hoạch của tôi là lập tức gửi đơn kháng cáo bản án của Walter lên Tòa Phúc thẩm Hình sự Alabama. Phía công tố viên nhà nước chẳng làm gì nhiều để chứng minh Walter có tội, nên không có nhiều vấn đề pháp lý cho chúng tôi dùng làm cơ sở kháng cáo. Tuy nhiên, vì những bằng chứng chống lại anh quá thiếu thuyết phục nên tôi hy vọng tòa án có thể lật ngược bản án đơn giản vì nó không đáng tin cậy. Một khi vụ việc đã được kháng cáo trực tiếp, các bằng chứng mới sẽ không được xem xét nữa. Thời hạn gửi kiến nghị yêu cầu tòa sơ thẩm xét xử lại - cơ hội cuối cùng để cung cấp các bằng chứng mới trước khi bắt đầu quá trình kháng cáo - đã trôi qua. Chestnut và Boynton, luật sư bào chữa cho Walter trong phiên xử đầu tiên, đã gửi kiến nghị trước khi rút khỏi vụ việc nhưng đơn này nhanh chóng bị thẩm phán Key bác bỏ. Darnell cho biết cậu đã kể với các luật sư trước của Walter những điều cậu vừa kể với tôi và họ đã nêu nó trong bản kiến nghị yêu cầu xét xử lại, nhưng không ai thèm để ý.

Trong những trường hợp tử hình, kiến nghị yêu cầu xét xử lại thường xuyên được đệ trình nhưng hiếm khi được chấp nhận. Tuy nhiên, nếu bên bị nêu ra được bằng chứng mới có thể dẫn tới một hệ quả khác trong vụ việc - hoặc thách thức độ tin cậy của phiên xử - thường người ta sẽ tổ chức một phiên xử mới. Sau khi nói chuyện với Darnell, tôi nghĩ đến việc một lần nữa trình lại những khẳng định của cậu ta trước khi tiến hành kháng cáo, và có thể, chỉ là có thể, chúng tôi sẽ thuyết phục được quan chức địa phương rút lại bản án đối với Walter. Tôi soạn một kiến nghị yêu cầu xét xử lại vụ McMillian, và ngay lập tức lấy xác nhận của Darnell rằng Hooks đã khai man. Tôi đánh liều thảo luận với một vài luật sư trong vùng về khả năng công tố viên mới thừa nhận bản án là không đáng tin cậy và ủng hộ xét xử lại nếu có bằng chứng mới thuyết phục hay không.

Một số người cho rằng Tom Chapman, công tố viên mới của hạt Monroe và là một cựu luật sư bào chữa hình sự, sẽ công bằng và thông cảm với những người chịu án oan hơn công tố viên Ted Pearson. Sau nhiệm kỳ dài của Pearson, một thời kỳ mới mở ra khi Chapman đắc cử. Ông ta ngoài bốn mươi tuổi và từng nói về việc cải tổ lực lượng chấp pháp địa phương. Theo một số người, ông ta rất tham vọng và một ngày nào đó có thể sẽ muốn tranh cử cho một chức vụ ở cấp tiểu bang. Tôi cũng phát hiện ra rằng ông đã đại diện cho Karen Kelly trong một vụ tố tụng trước đó, điều này chứng tỏ ông đã biết khá rõ về vụ việc. Tôi nuôi hy vọng.

Tôi hẳn đang nghĩ xem nên đi bước tiếp theo như thế nào thì Darnell gọi tới văn phòng.

“Anh Stevenson, anh phải giúp tôi. Sáng nay họ bắt giam tôi. Tôi vừa được bảo lãnh tại ngoại.”

“Cái gì?”

“Tôi hỏi họ tôi đã làm gì sai. Họ bảo tôi bị buộc tội khai man.” Giọng cậu hoảng hốt.

“Khai man ư? Dựa trên những gì cậu đã kể với luật sư của McMillian năm ngoái sao? Họ có tới thẩm vấn hay nói chuyện với cậu kể từ lúc chúng tôi lấy xác nhận của cậu không? Lẽ ra cậu phải báo cho tôi nếu họ nói gì với cậu chứ.”

“Không đâu anh. Họ có nói gì đâu. Họ chỉ tới bắt tôi và nói tôi bị buộc tội khai man.”

Tôi gác máy, sốc và giận dữ. Tôi chưa bao giờ biết tới kiểu buộc tội một người khai man mà không điều tra hay không có bằng chứng thuyết phục chứng minh người đó nói dối. Cảnh sát và các công tố viên phát hiện ra Darnell đã nói chuyện với chúng tôi, và họ quyết định trừng phạt cậu vì điều đó.

Vài ngày sau, tôi gọi điện hẹn gặp vị công tố viên mới.

Trên đường tới văn phòng ông ta, tôi dự định sẽ cho ông ta cơ hội giải thích về chuyện xảy ra, thay vì bực bội phàn nàn về sự vô lý khi một người bị buộc tội khai man vì anh ta nói ngược với nhân chứng của nhà nước. Tôi quyết định chờ sau cuộc gặp mới gửi đơn kiến nghị. Đó là cuộc gặp đầu tiên của tôi với một người có liên quan đến quá trình truy tố Walter, và tôi không muốn bắt đầu với thái độ giận dữ. Tôi cho phép mình tin rằng những người truy tố Walter chỉ đơn giản là đã nhầm lẫn hoặc thiếu năng lực. Tôi biết vài người trong số họ là kẻ hằn học và lộng hành, nhưng tôi vẫn giữ niềm tin rằng họ vẫn còn có thể cảm hóa được. Thế nhưng, việc buộc tội Darnell là dấu hiệu đáng lo ngại cho thấy họ sẵn sàng hăm dọa người khác.

Tòa án hạt Monroe tọa lạc tại khu trung tâm Monroeville. Tôi lái xe vào phố, đậu xe và đi tới tòa án tìm văn phòng công tố viên. Trong lần tới tòa hồi tháng trước, tôi đã tới văn phòng lục sự để lấy giấy tờ và nhân viên ở đó đã hỏi tôi từ đâu đến. Khi tôi nói Montgomery, họ lập tức nói hăng say về danh tiếng của Monroeville như là quê hương của Harper Lee và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà. Tôi nhớ nhân viên lục sự đã bắt chuyện với tôi.

“Anh đọc cuốn sách đó chưa? Đấy là một câu chuyện tuyệt vời. Địa danh này nổi tiếng lắm đấy. Người ta đã biến tòa án cũ thành một bảo tàng, và Gregory Peck đã đến đây khi người ta làm phim. Anh nên tới đó và đứng vào chỗ ngài Peck đã đứng - ý tôi là, chỗ Atticus Finch đứng.”

Cô cười khúc khích đầy vẻ hào hứng, dù tôi cảm giác như cô đã nói câu chuyện đó với tất cả những luật sư lạ mặt ghé qua đây. Cô bắt đầu nói say sưa về câu chuyện cho tới khi tôi hứa sẽ tới thăm bảo tàng ngay khi có thể. Tôi tránh giải thích rằng tôi đang quá sức bận rộn với vụ việc một người đàn ông da đen vô tội bị cả cộng đồng khép tội chết sau một quá trình tố tụng nặng thành kiến chủng tộc.

Trong suốt chuyến đi này, tôi ở trong một trạng thái khác. Một câu chuyện hư cấu về công lý là thứ cuối cùng mà tôi quan tâm. Tôi đi qua những căn phòng của tòa án cho tới khi tìm thấy văn phòng công tố viên. Tôi giới thiệu mình với người thư ký; cô ta nhìn tôi nghi ngờ rồi dẫn tôi vào văn phòng của Chapman. Ông ta bước tới bắt tay tôi.

Chapman cất tiếng trước, “Anh Stevenson, rất nhiều người muốn gặp anh. Tôi bảo họ anh sẽ tới, nhưng rồi tôi quyết định sẽ chỉ có tôi và anh nói chuyện thôi.” Tôi không ngạc nhiên khi người ta đã biết tin và bắt đầu bàn tán về luật sư mới của Walter. Tôi đã nói chuyện với nhiều người trong vùng đủ để biết rằng dân tình sẽ bàn tán về việc tôi đang tìm cách bào chữa cho Walter. Tôi đoán thẩm phán Key đã đánh giá tôi là hồ đồ và bất hợp tác chỉ vì tôi không từ bỏ vụ này như đề nghị của ông ta.

Chapman có vóc người tầm thước, tóc xoăn và đeo kính; ông không có vẻ gì là ngại ngần với vẻ ngoài trông như một gã mọt sách của mình. Tôi đã gặp những công tố viên ăn mặc và xử sự như thể họ thà đi săn vịt hơn là điều hành một văn phòng luật, nhưng Chapman chuyên nghiệp và lịch lãm, ông đón tiếp tôi với thái độ rất dễ chịu. Tôi tưởng rằng ông sẽ ngay lập tức nói về tâm tư của các nhà chấp pháp, và thấy như được khích lệ khi ông muốn chúng tôi có một cuộc nói chuyện thẳng thắn, không khách sáo và không bị điều gì làm cho sao nhãng.

“Vâng, tôi rất vinh hạnh,” tôi nói. “Tôi rất lo ngại về vụ McMillian. Tôi đã đọc biên bản, và nói thật, tôi cực kỳ nghi ngờ về tội danh của ông ấy cũng như độ tin cậy của bản án.”

“Đây rõ ràng là một vụ án nghiêm trọng. Anh hiểu là tôi không liên quan gì tới quá trình truy tố, đúng không?”

“Vâng, tôi hiểu.”

“Đây là một trong những tội ác dã man nhất trong lịch sử hạt Monroe, và thân chủ của anh đã làm rất nhiều người ở đây phẫn nộ. Mọi người vẫn đang bức xúc đấy, anh Stevenson. Vài người còn cho rằng Walter McMillian đền tội như thế là chưa đủ đâu.” Thật là một khởi đầu đáng thất vọng - ông ta có vẻ một mực tin tội danh của Walter. Nhưng tôi vẫn kiên trì.

“Vâng, đó là một vụ thảm án kinh hoàng, nên chuyện mọi người bức xúc cũng là điều dễ hiểu,” tôi trả lời. “Nhưng chẳng có ích gì nếu ta kết án người vô tội. Phiên tòa phải làm rõ được liệu McMillian có làm gì sai trái hay không. Nếu tòa xét xử bất công, hoặc nếu nhân chứng khai sai sự thật, thì chúng ta không thể biết liệu ông ta có tội thật không.”

“Ồ, có lẽ anh là người duy nhất nghĩ rằng phiên xử đó bất công đấy. Tôi đã nói rồi đấy, tôi không liên quan gì đến vụ này.”

Tôi bắt đầu nản, và Chapman có lẽ đã thấy tôi ngồi nhấp nhổm. Tôi nghĩ về hàng chục người da đen tôi đã gặp, những người đã cay đắng oán thán về nỗi oan của Walter, và tôi bắt đầu thấy Chapman hoặc ngây thơ, hoặc cố ý thờ ơ - hoặc tệ hơn thế. Tôi cố gắng giấu giếm nỗi thất vọng của mình mà không được.

“Tôi không phải là người duy nhất đặt dấu hỏi về vụ này đâu, ngài Chapman. Có cả một cộng đồng tin rằng McMillian vô tội, vài người còn tuyên bố đã ở bên cạnh ông ta ở một nơi cách hiện trường hàng dặm khi án mạng xảy ra. Có những người từng làm việc cùng ông ta cũng hoàn toàn tin rằng ông ta không phải là thủ phạm.”

“Tôi đã nói chuyện với mấy người trong số họ,” Chapman trả lời, “nhưng họ chỉ nêu những ý kiến không có cơ sở. Họ không có bằng chứng. Nghe này, tôi có thể khẳng định với anh ngay bây giờ rằng không ai thèm quan tâm đến chuyện ai đã ngủ với Karen Kelly. Có bằng chứng cho thấy Walter là hung thủ, và việc của tôi là bảo vệ bản án này.” Ông ta trở nên hiếu chiến hơn, giọng nói gay gắt hơn. Thái độ bình tĩnh và cầu thị mà ông ta thể hiện lúc đầu đã chuyển thành sự tức giận và khó chịu.

“Ông cũng đã buộc tội một người khai man vì anh ta phản bác lập luận của nhà nước. Ông có định truy tố tất cả những người dám lật lại các bằng chứng của vụ này không?”

Bực mình trước thái độ của ông ta, tôi to tiếng theo đúng cái lối mà tôi muốn tránh. “Luật án lệ Alabama đã nêu rõ không thể cáo buộc một người khai man nếu không có bằng chứng rõ ràng và thuyết phục rằng người đó đã tuyên bố sai lệch,” tôi tiếp tục. “Buộc tội khai man có vẻ như là chiến thuật để đe dọa và ngăn cản không cho người ta nói ra những bằng chứng trái ngược với lập luận của Nhà nước. Cáo buộc đối với anh Houston là rất vô lý và không thể biện minh được, thưa ông Chapman.”

Tôi biết mình đang lên mặt dạy dỗ ông ta, và biết ông ta khó chịu, nhưng tôi muốn ông ta biết chúng tôi sẽ bảo vệ Walter đến cùng.

“Chà, bây giờ anh đại diện cho cả Darnell Houston nữa cơ đấy?”

“Vâng, thưa ông.”

“Vậy tôi không chắc anh có thể làm thế đâu, anh Stevenson. Tôi nghĩ anh đang mâu thuẫn ở điểm đó,” ông ta nói, giọng điệu chuyển từ tranh luận sang bình thản như đang khẳng định một điều hiển nhiên. “Nhưng đừng lo, chắc là tôi sẽ rút lại cáo buộc với Houston thôi. Giờ thì thẩm phán đã từ chối đề nghị xét xử lại của anh rồi, nên tôi cũng chẳng hứng thú gì với việc truy tố Darnell Houston nữa. Nhưng tôi muốn mọi người hiểu rằng nếu họ phát biểu bịa đặt về vụ việc này, họ sẽ phải chịu trách nhiệm.”

Tôi bối rối và hơi ngỡ ngàng.

“Ông nói sao? Kiến nghị của tôi đã bị từ chối ư?”

“Đúng, thẩm phán đã bác kiến nghị của anh. Chắc anh chưa nhận được lệnh của ông ấy. Ông ấy đang ở Mobile, nên thư từ đôi khi cũng chậm.”

Tôi cố che giấu sự bất ngờ trước quyết định của tòa án về bản kiến nghị khi đến cả một phiên xét xử cũng còn không có. Tôi hỏi, “Vậy ông không hề có ý định điều tra lời khai của Darnell Houston về khả năng nhân chứng chính của Nhà nước có thể đã nói dối?”

“Ralph Myers là nhân chứng chính của Nhà nước.”

Rõ ràng Chapman đã xem xét vụ án kỹ lưỡng hơn tuyên bố ban đầu của ông ta.

“Nếu không có lời chứng của Hooks, cáo buộc đó không có giá trị,” tôi hạ giọng. “Theo giả thuyết của bên công tố, Myers là đồng phạm, và theo luật, cần xác minh lời khai của đồng phạm, trong trường hợp này bên công tố chỉ có thể trông chờ vào Hooks. Anh Houston cho rằng Hooks đã nói dối, như vậy tuyên bố của anh ta là một điểm hệ trọng cần phải được xem xét trước tòa.”

Tôi biết mình nói đúng. Luật pháp đã quy định rất tường minh về vấn đề này. Nhưng tôi cũng biết rằng mình đang nói chuyện với một người không hề quan tâm luật pháp nói gì. Tôi biết những điều mình nói sẽ không thuyết phục được Chapman, nhưng tôi cảm thấy mình vẫn cản phải nói ra.

Chapman đứng dậy. Ông ta khó chịu trông thấy với những lời dạy bảo và lý luận của tôi, và tôi đoan chắc ông ta nghĩ tôi đang khiêu chiến. “Chắc đấy là vấn đề anh muốn nêu khi kháng cáo. Anh có thể báo với Houston rằng cáo buộc chống lại anh ta đã được rút lại. Tôi chỉ có thể làm được đến thế thôi.”

Chapman nói tỉnh bơ, và khi ông ta quay lưng đi, tôi biết ông ta đã chấm dứt cuộc gặp và sẵn sàng tống tiễn tôi ra khỏi văn phòng.

Tôi ra về trong tâm trạng cực kỳ chán nản. Chapman không đến nỗi thiếu thân thiện hay thù nghịch, nhưng sự lãnh đạm của ông ta trước lời kêu oan của McMillian khiến tôi thấy thật khó có thể chấp nhận. Biên bản phiên tòa cho tôi thấy có những kẻ sẵn sàng phớt lờ chứng cứ, logic và lẽ phải để kết án và trấn an cộng đồng rằng vụ việc đã được giải quyết và kẻ sát nhân sẽ bị trừng trị. Nhưng nói chuyện trực diện với một người về vụ án này khiến những chi tiết phi lý xung quanh bản án của Walter trở nên khó chấp nhận hơn rất, rất nhiều.

Chapman không phải là người khởi tố vụ việc, và tôi đã hy vọng ông ta sẽ không bảo vệ một chuyện khó tin đến vậy, nhưng rõ ràng ông ta đã nhập tâm câu chuyện bịa đặt này giống như tất cả những người có liên quan khác. Tôi đã chứng kiến sự lạm quyền trong nhiều trường hợp, nhưng vụ này đặc biệt đáng thất vọng bởi không chỉ riêng bị cáo mà cả một cộng đồng đã bị đối xử bất công. Tôi đã gửi một loạt kiến nghị cốt chỉ để bảo đảm rằng nếu họ không rút lại cáo buộc, họ biết chúng tôi sẽ kiện họ. Đi dọc hành lang tới bãi đỗ xe, tôi thấy một tờ rơi nữa về tác phẩm chuyển thể tiếp theo của tiểu thuyết Giết con chim nhại, nó chỉ làm tôi thêm khó chịu.

Darnell vẫn ở nhà kể từ sau khi nộp tiền bảo lãnh. Tôi ghé qua nhà cậu để kể về cuộc gặp với công tố viên. Cậu rất mừng khi biết người ta sẽ rút cáo buộc nhằm vào cậu, nhưng vẫn hoang mang trước tất cả những gì đã xảy ra. Tôi giải thích rằng những điều Nhà nước làm với cậu là phi pháp, và chúng tôi có thể khởi kiện họ, nhưng cậu không quan tâm đến điều đó. Thực ra tôi không nghĩ rằng kiện tụng dân sự là một ý hay bởi nó sẽ chỉ làm cho cậu dễ bị sách nhiễu hơn, nhưng tôi muốn cậu biết tôi sẵn lòng đấu tranh vì quyền lợi của cậu.

“Anh Stevenson, tất cả những gì tôi muốn làm là nói sự thật. Tôi không thể đi tù được, và nói thật - mấy gã đó làm tôi thấy sợ.”

“Tôi hiểu,” tôi nói, “nhưng những gì họ làm là phi pháp và tôi muốn cậu biết rằng cậu đã không làm gì sai. Chính họ mới là những người hành xử rất, rất vô lý. Họ đã tìm cách uy hiếp cậu.”

“Vậy họ đã thành công rồi đấy. Chuyện tôi kể với anh là sự thật, và tôi sẽ bảo vệ nó. Nhưng tôi không muốn bị họ bám đuôi.”

“Thẩm phán đã từ chối kiến nghị của chúng tôi, thế nên hiện tại cậu sẽ chưa phải làm chứng ở tòa đâu. Nếu cậu còn gặp rắc rối với họ, thì cứ báo cho tôi biết, hoặc nếu họ tới gặp cậu về chuyện này, cậu có thể nói với họ rằng tôi là luật sư của cậu và bảo họ gặp tôi nhé?”

“Vâng. Nhưng như vậy nghĩa là anh là luật sư của tôi?”

“Đúng thế, tôi sẽ đại diện cho cậu nếu có bất cứ ai gây khó dễ vì những chuyện cậu đã tiết lộ.” Cậu có vẻ yên tâm hơn nhưng vẫn còn hoang mang lúc tôi ra về.

Tôi trở ra xe, lòng không khỏi lo ngại nếu những người muốn giúp đỡ chúng tôi trong vụ này bị đe dọa thì sẽ rất khó để minh oan cho Walter. Nếu kháng cáo trực tiếp không giúp lật ngược bản án của Walter, chúng tôi vẫn còn một cơ hội khiếu nại nữa, và khi đó chúng tôi sẽ cần bằng chứng mới, nhân chứng mới và dữ kiện mới để chứng minh sự vô tội của Walter. Từ những chuyện xảy ra với Darnell, tôi đoán việc này sẽ cực kỳ khó khăn. Tôi quyết định tại thời điểm hiện tại sẽ gạt mối lo lắng về nó qua một bên, và chỉ chú tâm vào việc kháng cáo. Vì đề nghị xem xét lại bản án đã bị bác bỏ, chúng tôi sẽ phải gửi đơn kháng cáo trong vòng hai mươi tám ngày. Tôi thậm chí còn không rõ bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ lúc có phán quyết bác bỏ vì tôi vẫn chưa nhận được lệnh tòa.

Tôi về nhà trong tâm trạng chán chường và lo lắng. Trên đường đi từ Monroeville về Montgomery, tôi vẫn thường nhìn ngắm những nông trang, những cánh đồng bông và miền quê đồi núi trập trùng; tôi tự hỏi cuộc sống ở đây hàng thập kỷ trước như thế nào. Lần này tôi không còn tâm trí tưởng tượng nữa. Nỗi thất vọng và buồn bã của Darnell khi nhận ra rằng họ có thể ngang nhiên làm bất cứ điều gì họ muốn với cậu khiến tôi vô cùng nản lòng. Qua những gì tôi chứng kiến, đơn giản là họ không tôn trọng pháp quyền, vô trách nhiệm và vô liêm sỉ. Bắt giữ một người vì anh ta đưa ra bằng chứng thuyết phục thách thức tính xác thực của một bản án tử hình sao? Càng nghĩ về điều đó, tôi càng phẫn nộ và mất phương hướng. Tôi cũng thấy lòng nặng trĩu. Nếu họ bắt giữ những người dám nói những điều bất lợi, họ sẽ phản ứng thế nào nếu tôi thách thức họ thậm chí còn trực diện hơn nữa?

Khi tôi lái xe ra khỏi thị trấn, tôi thấy mặt trời lặn và bóng tối buông xuống trên khắp hạt như hàng thế kỷ qua vẫn vậy. Lúc này nhiều người hẳn cũng đang trên đường về nhà, một số trở về những căn nhà ấm cúng, nơi họ có thể thoải mái nghỉ ngơi, yên tâm và tự hào về cộng đồng của mình. Những người khác, như Darnell và gia đình Walter, sẽ trở về những ngôi nhà lạnh lẽo hơn. Họ sẽ không thể nghỉ ngơi thoải mái như vậy, và cũng không thể nghĩ nhiều về lòng tự tôn của cộng đồng. Đối với họ, bóng đêm đưa đến cảm giác nặng nề quen thuộc, một sự bất an kèm theo nỗi sợ hãi dai dẳng cũ kỹ như chính hạt này; sự khó chịu xưa như trái đất ấy chẳng đáng được bàn tới, nhưng cũng quá sâu sắc khó có thể quên đi. Tôi lái xe đi nhanh nhất có thể.