Chương sáu CHẮC CHẮN DIỆT VONG
“Nó chỉ là một thằng bé con.”
Đã muộn, tôi nhấc điện thoại bởi văn phòng không còn ai; làm quá giờ đã trở thành một thói quen xấu của tôi. Người phụ nữ ở đầu dây bên kia van nài tôi sau khi kể câu chuyện xúc động về cậu cháu trai vừa bị bắt giam vì tội giết người của mình.
“Nó phải ở trong trại giam hai đêm rồi, nhưng tôi không tới thăm nó được. Tôi ở Virginia, sức khỏe thì không tốt lắm. Xin anh hãy nói với tôi rằng anh sẽ làm gì đó đi.”
Tôi lưỡng lự. Chỉ có một vài quốc gia vẫn cho phép áp dụng hình phạt tử hình đối với trẻ em - và Mỹ là một trong số đó. Nhiều thân chủ của tôi ở Alabama bị kết án tử vì những tội danh mà họ bị cáo buộc gây ra khi mới mười sáu, mười bảy tuổi. Nhiều bang đã sửa luật để dễ dàng truy tố trẻ em như người trưởng thành, và các thân chủ của tôi ngày càng trẻ tuổi hơn. Alabama có tỷ lệ thanh thiếu niên bị kết án tử hình trên đầu người cao hơn [1] bất kỳ tiểu bang nào khác - thậm chí hơn bất cứ đất nước nào trên thế giới. Tôi quyết tâm kiểm soát nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng tăng bằng cách chỉ đảm nhận những vụ việc mới nếu thân chủ sắp bị xử tử hoặc đã chính thức bị kết án tử.
Người phụ nữ cho tôi hay cháu bà mới chỉ mười bốn tuổi. Mặc dù Tối cao Pháp viện từng ủng hộ án tử hình đối với thanh thiếu niên [2] trong một phán quyết năm 1989, nhưng một năm trước, Tối cao Pháp viện đã cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với trẻ em dưới mười lăm tuổi. Dù phải đối mặt với mức án nặng đến mấy, cậu bé này cũng không phải vào trại tử tù. Cậu có thể phải đối mặt với án tù chung thân không ân xá, nhưng với số lượng khổng lồ các vụ tử hình đang chờ giải quyết, tôi không có lý gì để nhận vụ này.
Tôi đang nghĩ xem nên trả lời bà như thế nào thì bà bắt đầu lẩm nhẩm. “Lạy Chúa, xin Người cứu giúp chúng con. Xin Người dẫn đường cho người này và bảo vệ chúng con khỏi bất cứ lựa chọn nào không phải là của Người. Xin Chúa hãy giúp con tìm lời. Xin Người bày cho con biết những lời nên nói, lạy Chúa—”
Không muốn ngắt lời cầu nguyện của bà, tôi chờ đến khi bà kết thúc.
“Thưa bà, tôi không nhận vụ này được, nhưng ngày mai tôi sẽ tới trại giam gặp cháu bà. Tôi sẽ xem mình có thể làm được gì. Có lẽ chúng tôi sẽ không thể đại diện cho cậu ấy, nhưng tôi sẽ tìm hiểu sự việc, và có thể chúng tôi sẽ giúp bà tìm được một luật sư phù hợp.”
“Anh Stevenson, cảm ơn anh nhiều lắm.”
Tôi đã mệt mỏi và tối mặt tối mũi với những vụ việc đang đảm nhận. Vả lại, các vụ liên quan đến trẻ vị thành niên có thế ảnh hưởng nghiêm trọng đến cảm xúc của bất cứ người nào động vào. Nhưng đằng nào tôi cũng phải tới một tòa án ở gần hạt nơi cậu bé này đang bị giam giữ, vì vậy chẳng mất gì nếu tôi ghé qua gặp cậu một chút.
Sáng hôm sau, tôi mất hơn một giờ lái xe tới hạt đó. Tới tòa án, tôi rà soát các văn bản liên quan đến vụ việc và tìm thấy một báo cáo rất dài. Vì tôi là luật sư đại diện cho gia đình đến điều tra vụ việc, nên nhân viên lục sự để tôi xem hồ sơ, dù vậy cô không cho tôi sao chép hoặc mang tài liệu nào ra khỏi văn phòng bởi chúng liên quan tới trẻ em. Văn phòng lục sự nhỏ nhưng không đông lắm, vì vậy tôi ngồi xuống chiếc ghế kim loại trong một góc phòng bộn bề để đọc báo cáo với phần lớn tình tiết đúng như những gì người bà đã kể cho tôi nghe.
Charlie mới mười bốn tuổi. Cậu nặng chưa đầy bốn mươi lăm cân và chỉ cao mét rưỡi. Cậu chưa hề có tiền án, tiền sự nào – chưa từng bị bắt, chưa từng phạm lỗi ở trường, chưa từng phạm pháp hay phải ra hầu tòa. Cậu là một học sinh chăm ngoan, đã mấy lần được trao giấy khen vì đi học đều. Mẹ cậu miêu tả cậu là một “bé ngoan” lúc nào cũng vâng lời mẹ. Nhưng Charlie đã tự tay bắn chết một người tên là George.
George là bạn trai của mẹ cậu. Bà gọi mối quan hệ của mình là một “sai lầm”. George thường về nhà khi đã say xỉn và bắt đầu giở trò vũ phu. Trong vòng một năm rưỡi trước khi sự việc xảy ra, George đã ba lần đánh mẹ của Charlie dã man đến mức bà phải nhập viện. Bà không bao giờ bỏ George hay đuổi lão đi, mặc dù bà nói với một vài người rằng bà biết đó là việc nên làm.
Vào đêm xảy ra vụ nổ súng, George về nhà trong tình trạng say khướt. Lúc đó, Charlie và mẹ đang chơi bài. Lão vào nhà và gào lên, “Bọn bay đâu hết rồi?” Mẹ Charlie xuống bếp theo tiếng gọi của lão và bảo rằng hai mẹ con đang chơi bài. Trước đó, hai người đã cãi nhau một trận khi bà van nài lão đừng đi ra ngoài, sợ lão sẽ say xỉn. Lúc này, bà tức giận nhìn lão đứng đó, người nồng nặc mùi rượu. Lão gườm lại, ánh mắt phản chiếu thái độ khinh miệt và ghê tởm của mẹ Charlie, rồi bất thình lình lão vung tay đấm thẳng vào giữa mặt bà. Bà không ngờ lão lại đấm mạnh và nhanh đến vậy - lão chưa từng làm thế bao giờ. Bà gục xuống sàn sau cú đấm chí mạng đó.
Charlie đứng sau lưng mẹ và thấy mẹ ngã xuống, đầu đập vào tủ bếp kim loại. Thấy Charlie đứng đó, George nhìn cậu lạnh tanh rồi lững thững đi qua cậu, về phòng ngủ và thả mình đánh rầm xuống giường. Mẹ Charlie nằm trên sàn, bất tỉnh và chảy máu đầm đìa. Cậu quỳ bên mẹ và cố cầm máu. Mặt mẹ chỉ dính chút máu, nhưng máu thì xối ra từ một vết rách sâu phía sau đầu. Charlie luống cuống tìm cách cứu mẹ. Cậu bật khóc và hỏi mẹ xem mình cần làm gì nhưng vô vọng. Cậu lót giấy ăn dưới đầu mẹ nhưng vẫn không cầm máu được. Nghĩ khăn lau chén đĩa sẽ cầm máu tốt hơn, cậu lùng sục đi tìm và thấy nó quấn quanh một cái nồi đặt trên bếp. Mẹ đã nấu đậu mắt cua, món cậu thích mê, cho bữa tối. Hai mẹ con đã ăn cùng nhau trước khi bắt đầu chơi bài pinochle, trò đánh bài ưa thích của cậu.
Charlie thay giấy ăn bằng khăn vải và lại một lần nữa hoảng hốt khi thấy quá nhiều máu. Cậu khe khẽ lay mẹ dậy, thì cảm thấy dường như mẹ không còn thở nữa. Cậu nghĩ mình nên gọi cấp cứu, nhưng điện thoại lại ở trong phòng ngủ của George. George chưa bao giờ đánh Charlie, song lão vẫn làm cậu chết khiếp như thường. Hồi nhỏ, mỗi lúc sợ hãi hay lo lắng điều gì, Charlie lại lên cơn run rẩy và co giật. Sau cơn co giật, cậu hầu như luôn bị chảy máu cam.
Ngồi trên sàn bếp giữa vũng máu của mẹ, Charlie cảm thấy người bắt đầu run lên, và chỉ vài giây sau, máu từ từ rỉ ra từ mũi cậu. Mọi khi mẹ vẫn thường chạy đi kiếm thứ gì đó để cầm máu cho cậu, nhưng lúc này bà chỉ nằm bất động trên sàn. Cậu quệt máu trên mũi và quay lại với việc cần làm. Cơn run rẩy của cậu đã dứt. Mẹ đã bất động gần mười lăm phút. Căn nhà im lặng như tờ. Âm thanh duy nhất mà cậu nghe thấy là hơi thở nặng nề của George ở phòng bên, ít phút sau cậu nghe thấy tiếng lão ngáy.
Charlie nhẹ nhàng vuốt tóc mẹ, tha thiết cầu mong mẹ mở mắt. Máu của bà đã thấm sũng chiếc khăn và bắt đầu thấm sang quần của Charlie. Charlie nghĩ mẹ mình sắp chết, hoặc thậm chí có thể bà đã chết rồi. Cậu phải gọi cấp cứu. Lòng ngập tràn lo lắng, cậu đứng dậy và rón rén bước vào phòng ngủ. Charlie thấy George đang nằm ngủ trên giường, và một cảm giác căm ghét trào dâng trong cậu. Cậu chưa bao giờ quý lão, và không hiểu tại sao mẹ lại để lão sống cùng hai mẹ con. George cũng không ưa Charlie; lão chẳng mấy khi thân thiện với cậu bé. George dường như lúc nào cũng cáu bẳn, kể cả khi không say. Mẹ đã nói với Charlie rằng George cũng có lúc dễ thương, nhưng Charlie chưa bao giờ thấy vậy. Charlie biết người vợ đầu và con của George đã chết trong một tai nạn xe hơi, và theo mẹ cậu, đó là lý do tại sao lão uống nhiều đến vậy. Trong mười tám tháng có George sống cùng, Charlie dường như chẳng thấy gì ngoài bạo lực, cãi vã, xô xát, đe nẹt và biến loạn. Mẹ cậu không còn tươi cười như trước, mà trở nên căng thẳng và thất thường, và lúc này đây, cậu nghĩ, mẹ đã chết trên sàn nhà.
Charlie bước về phía cái tủ ở cuối phòng, chỗ đặt chiếc điện thoại. Cậu đã từng gọi 911 vào năm ngoái khi George đánh mẹ cậu, nhưng đấy là do mẹ cậu bảo và hướng dẫn cậu phải nói thế nào khi gọi điện. Khi trông thấy chiếc điện thoại, cậu không hiểu sao mình không nhấc ống nghe. Cậu không thể giải thích tại sao mình lại mở ngăn kéo, luồn tay xuống dưới chiếc áo phông gấp gọn mà mẹ cậu đã giặt sạch, và chạm vào khẩu súng ngắn mà cậu biết George giấu ở đó. Charlie đã thấy nó khi George bảo cậu có thể mặc chiếc áo phông của Đại học Auburn mà ai đó đã cho lão. Chiếc áo quá chật đối với George và quá rộng với Charlie, nhưng cậu rất cảm kích khi được lão tặng nó; đó là một trong những cử chỉ tử tế hiếm hoi của George. Lần này cậu không sợ hãi rụt tay lại như lần trước. Cậu cầm lấy khẩu súng. Cậu chưa bao giờ bắn súng, nhưng cậu biết mình có thể làm được.
George đang ngáy đều đều.
Charlie tới bên giường, tay giương thẳng, súng chĩa vào đầu George. Charlie đang quanh quẩn bên George thì tiếng ngáy chợt tắt. Căn phòng trở nên im lặng như tờ. Và đó là lúc Charlie bóp cò.
Tiếng súng nổ to hơn Charlie tưởng rất nhiều. Khẩu súng giật mạnh và đẩy Charlie bật ra sau, làm cậu lảo đảo suýt ngã. Cậu nhìn George rồi nhắm tịt mắt; cảnh tượng thật khủng khiếp. Khi cậu bắt đầu run rẩy trở lại thì cậu nghe thấy mẹ rên rỉ trong bếp. Cậu không thể tin được mẹ vẫn còn sống. Cậu quay trở lại chỗ chiếc điện thoại, bấm 911 rồi ngồi bên mẹ tới khi cảnh sát đến.
Sau khi biết đầu đuôi câu chuyện, tôi lạc quan tin rằng Charlie sẽ không bị truy tố như người trưởng thành. Tôi tiếp tục đọc hồ sơ và ghi chép từ phiên tòa đầu tiên. Công tố viên không phản bác những tình tiết mà Charlie và mẹ cậu khai báo. Sự việc chỉ rắc rối khi tôi đọc tiếp và phát hiện ra George là cảnh sát địa phương. Công tố viên lập luận cặn kẽ về việc George là một người tuyệt vời thế nào và cái chết của ông ta khiến cả cộng đồng tiếc thương ra sao. “George là một cán bộ chấp pháp đáng kính,” công tố viên nói. “Thật là một bi kịch, một mất mát lớn đối với hạt khi một người tử tế như ông ấy lại bị người thiếu niên này giết hại dã man đến vậy.” Công tố viên khẳng định Charlie phải bị xét xử như người trưởng thành, và tuyên bố ông ta sẽ tìm kiếm hình thức trừng phạt nặng nhất theo quy định của pháp luật. Thẩm phán nhất trí rằng đây là tội giết người có thể dẫn tới án tử hình, và cậu bé phải bị xét xử như người đã thành niên. Và thế là Charlie lập tức bị tống vào trại giam dành cho người trưởng thành của hạt.
Trại này nằm ngay phía bên kia đường, đối diện với tòa án. Giống như ở nhiều cộng đồng khác của miền Nam, tòa án tọa lạc tại quảng trường trung tâm thị trấn. Tôi ra khỏi tòa án, băng qua phố để tìm gặp cậu bé. Có thể thấy rõ quản giáo ở đây ít khi thấy những luật sư lạ mặt tới thăm. Người trực ca nhìn tôi dò xét rồi dẫn tôi vào trong trại. Tôi ngồi chờ Charlie trong một phòng họp nhỏ dành cho luật sư. Từ lúc đọc xong hồ sơ, tôi cứ nghĩ mãi về tấn bi kịch này, và chỉ sực tỉnh khỏi dòng suy nghĩ ảm đạm đó khi một cậu bé loắt choắt bị đẩy vào phòng. Cậu bé quá thấp, quá gầy và quá sợ hãi so với tuổi mười bốn của cậu. Tôi nhìn viên quản giáo, ông ta dường như cũng ngạc nhiên chẳng kém gì tôi trước vẻ ngoài nhỏ bé và sợ sệt của cậu. Tôi đề nghị ông ta tháo còng tay cho cậu. Ở những trại giam như thế này, quản giáo thường từ chối tháo còng tay, viện lý do như vậy không an toàn hoặc họ không được phép mở còng tay cho nghi phạm trong cuộc gặp pháp lý. Họ sợ rằng nếu nghi phạm quẫn trí hoặc quá khích, người đó sẽ trở nên khó khuất phục hơn.
Viên quản giáo không ngần ngại tháo còng tay cho Charlie trước khi rời phòng.
Chúng tôi ngồi bên một chiếc bàn gỗ kích thước khoảng 1,2 x 1,8 mét. Charlie ngồi một bên, còn tôi ngồi bên còn lại. Cậu đã bị giam được ba ngày.
“Charlie, anh tên là Bryan. Bà em đã gọi điện cho anh và nhờ anh tới thăm em. Anh là luật sư chuyên giúp đỡ những người gặp rắc rối hoặc những người bị buộc tội, và anh muốn giúp em.”
Cậu bé không nhìn vào mắt tôi. Cậu nhỏ thó nhưng có đôi mắt to, đẹp. Cậu để đầu húi cua, kiểu tóc phổ biến của các cậu thiếu niên để đỡ mất công chăm sóc. Nó làm cậu trông trẻ con hơn so với tuổi. Tôi tưởng mình vừa trông thấy hình xăm hay biểu tượng gì đó trên cổ cậu, nhưng nhìn kỹ hơn, hóa ra đó là một vết bầm.
“Charlie, em ổn chứ?”
Cậu nhìn đăm đăm vào chỗ tường phía bên trái tôi như thể cậu trông thấy thứ gì ở đó. Cái nhìn thất thần của cậu đáng lo đến nỗi tôi phải quay lại để xem có thứ gì hay ho sau lưng mình không, nhưng tôi chỉ thấy một bức tường trắng trơn. Ánh nhìn ngây dại, vẻ mặt u buồn và lãnh đạm - giống như rất nhiều trẻ vị thành niên khác mà tôi từng làm việc cùng - là những điểm duy nhất khiến tôi tin rằng cậu mười bốn tuổi. Tôi ngồi đợi rất lâu với hy vọng cậu sẽ đáp lại theo lối nào đó, nhưng căn phòng vẫn im phăng phắc. Cậu nhìn chong chong vào bức tường, rồi lại nhìn xuống cổ tay. Tay phải của cậu nắm lấy cổ tay trái ở chỗ bị còng, miết miết vào vết kim loại hằn trên da.
“Charlie, anh muốn biết chắc em vẫn ổn, thế nên anh cần em trả lời vài câu hỏi, được chứ?” Tôi biết cậu nghe thấy tôi nói, bởi cứ lúc nào tôi cất tiếng, cậu lại ngẩng đầu lên và nhìn đăm đăm vào tường.
“Charlie, nếu anh là em, anh cũng sẽ rất sợ hãi và lo lắng, nhưng anh cũng muốn có ai đó giúp mình. Anh muốn giúp em, được không?” Tôi chờ đợi một câu trả lời, nhưng vẫn không nhận được gì.
“Charlie, em nói được chứ? Em có ổn không?” Cậu lại ngẩng đầu nhìn bức tường khi tôi nói, và cúi xuống nhìn cổ tay khi tôi dứt lời, nhưng vẫn không thốt ra một từ nào.
“Chúng ta không cần phải nói về George đâu. Chúng ta không phải nói về những chuyện đã xảy ra; anh em mình có thể nói về bất cứ điều gì em muốn. Em có muốn kể chuyện gì không?” Cứ sau mỗi câu hỏi, tôi lại phải chờ đợi lâu hơn, tôi mong mỏi cậu sẽ nói gì đó nhưng bất thành.
“Em có muốn nói chuyện về mẹ em không? Mẹ em sẽ ổn thôi. Anh được biết mẹ em vẫn ổn, mặc dù mẹ không thể tới thăm em. Mẹ lo cho em lắm đấy.”
Tôi nghĩ nói chuyện về mẹ sẽ có thể lay động cậu bé. Nhưng không, và tôi mỗi lúc một lo cho cậu hơn.
Tôi để ý thấy phía Charlie ngồi còn có một chiếc ghế nữa, và tôi nhận thấy lẽ ra luật sư phải ngồi bên đó, còn thân chủ sẽ ngồi phía tôi đang ngồi, nơi có đúng một chiếc ghế. Tôi đã ngồi sai chỗ.
Tôi nói nhỏ và nhẹ nhàng hơn, “Charlie, em phải nói chuyện với anh. Anh không thể giúp em nếu em không nói gì. Em có thể nói tên mình thôi cũng được - em nói gì đi chứ?” Cậu tiếp tục nhìn vào tường. Tôi chờ đợi rồi đứng dậy và đi vòng quanh bàn. Cậu không thèm nhìn tôi di chuyển mà chỉ nhìn xuống cổ tay. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cậu, ghé sát hơn và nói khẽ “Charlie, anh rất xin lỗi nếu em buồn, nhưng hãy nói chuyện với anh. Anh không thể giúp em nếu em không nói gì.” Lần đầu tiên cậu dựa vào thành ghế và gần như ngả đầu hẳn vào bức tường phía sau lưng. Tôi kéo ghế lại gần cậu hơn và cũng ngồi dựa lưng vào thành ghế. Chúng tôi ngồi yên lặng một lúc lâu, và rồi tôi bắt đầu nói linh tinh vì không biết phải làm gì khác.
“À, em không muốn nói cho anh biết em đang nghĩ gì, thì anh sẽ kể anh đang nghĩ gì nhé. Chắc em tưởng em biết anh đang nghĩ gì,” tôi đùa, “nhưng thực ra em không tưởng tượng nổi đâu. Có thể em đoán anh đang nghĩ về luật, về thẩm phán, về cảnh sát, hoặc tự hỏi tại sao thằng nhóc này không nói chuyện với mình. Nhưng thực ra anh chỉ đang nghĩ đến chuyện ăn uống thôi. Thật đấy, Charlie,” tôi tiếp tục trêu cậu, “anh đang nghĩ về gà rán, cải xanh nấu gà tây, và bánh khoai lang... Em đã ăn bánh khoai lang bao giờ chưa?”
Vẫn im lặng.
“Chắc em chưa bao giờ ăn bánh khoai lang rồi, quá phí.”
Vẫn im lặng. Tôi không bỏ cuộc.
“Anh đang nghĩ đến chuyện mua xe mới vì xe của anh cũ quá rồi.” Tôi chờ đợi. Vẫn không một lời. “Charlie, lẽ ra em nên nói, ‘Xe chạy được bao lâu rồi hả anh Bryan?’ Và anh sẽ nói xe của anh cũ lắm rồi...”
Cậu bé không hề cười hay trả lời, mà chỉ tiếp tục nhìn đăm đăm vào một điểm trên tường, nỗi buồn đóng băng trên gương mặt cậu.
“Em nghĩ anh nên mua xe loại nào?” Tôi ba hoa đủ chuyện linh tinh nhưng vẫn không khai thác được gì từ Charlie. Cậu tiếp tục ngồi tựa vào ghế, người cậu như giãn ra một chút. Tôi chợt nhận thấy vai chúng tôi đã chạm nhau.
Một lát sau tôi cố gắng lần nữa. “Thôi nào, Charlie, chuyện gì thế? Em phải nói với anh.” Tôi bắt đầu tinh nghịch huých vào người cậu, cho đến khi cậu ngồi thẳng lên một chút rồi cuối cùng ngả về phía tôi. Tôi chớp lấy cơ hội và đưa tay khoác vai cậu, cậu lập tức run lên. Cơn run rẩy của cậu mỗi lúc một dữ dội thêm, rồi cuối cùng cậu gục hẳn vào tôi và bật khóc. Tôi ghé đầu vào cậu và nói, “Không sao đâu, sẽ ổn thôi mà.” Cậu bắt đầu nói trong tiếng nức nở. Tôi không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng cậu đang không nói về chuyện của George hay của mẹ cậu, mà về những chuyện đã xảy ra trong trại.
“Có ba gã đàn ông đã làm hại em vào đêm đầu tiên. Bọn chúng sờ soạng và bắt em làm chuyện nọ chuyện kia.” Nước mắt chảy dài trên gương mặt cậu. Giọng cậu líu ríu và nghẹn lại vì đau đớn.
“Đêm hôm sau chúng quay lại và làm em đau lắm,” cậu nói, càng nói càng hoảng loạn hơn. Lần đầu tiên cậu ngước nhìn tôi.
“Đêm qua còn nhiều hơn. Em không biết có bao nhiêu người, nhưng bọn họ hành hạ em...”
Cậu khóc nức nở và không thể nói nổi nữa. Cậu bấu vào chiếc áo khoác của tôi chặt đến mức tôi không tưởng tượng nổi cậu có đủ sức để làm vậy.
Tôi ôm cậu và nói nhẹ nhàng hết sức có thể, “Sẽ ổn thôi. Sẽ ổn thôi mà.” Tôi chưa bao giờ ôm một người nào bấu tôi chặt hay khóc to và lâu như cậu bé này. Dường như nước mắt của cậu cứ chảy mãi không ngừng. Cậu nín khóc vì mệt rồi lại khóc tiếp. Tôi quyết định sẽ ôm cậu cho đến khi cậu nín. Phải gần một giờ sau cậu mới bình tĩnh trở lại và nín khóc. Tôi hứa sẽ tìm cách đưa cậu thoát khỏi đây ngay lập tức. Cậu van xin tôi đừng đi, tôi hứa sẽ sớm trở lại. Chúng tôi đã không nói gì về vụ án.
Rời trại giam, tôi phẫn nộ hơn là buồn bực. Tôi day dứt tự hỏi “Ai phải chịu trách nhiệm cho việc này? Tại sao chúng ta lại để nó xảy ra?” Tôi tới thẳng phòng cảnh sát trưởng nằm ở phía trong trại giam, giải thích với ngài cảnh sát béo ục ịch ở độ tuổi trung niên về những điều đứa trẻ đã kể cho tôi, và đề nghị họ chuyển cậu sang một buồng riêng an toàn ngay lập tức. Cảnh sát trưởng lắng nghe với vẻ mặt lãnh đạm, nhưng khi tôi nói mình sẽ đi gặp thẩm phán, ông ta đồng ý chuyển ngay cậu bé sang khu an toàn. Sau đó, tôi quay lại tòa án và tìm thấy thẩm phán, ông ta gọi cả công tố viên tới. Khi công tố viên đến, tôi kể với họ rằng cậu bé đã bị xâm hại tình dục và cưỡng hiếp. Họ đồng ý chuyển cậu sang một trại dành cho trẻ vị thành niên ở gần đó sau vài giờ.
Tôi quyết định đảm nhận vụ này. Cuối cùng chúng tôi cũng chuyển được vụ việc của Charlie sang một tòa án vị thành niên, ở đây vụ nổ súng được xét xử như một hành vi phạm tội vị thành niên. Điều đó có nghĩa là Charlie sẽ không bị tống vào nhà tù dành cho người trưởng thành và có thể sẽ được trả tự do sau vài năm, trước khi cậu bước sang tuổi mười tám. Tôi tới thăm Charlie thường xuyên, và cuối cùng cậu cũng hồi phục. Tuy nhiên, vì là một cậu bé thông minh, nhạy cảm, cậu vẫn bị dằn vặt bởi những việc cậu đã làm và những điều cậu đã trải qua.
Trong một buổi nói chuyện ở nhà thờ nhiều tháng sau đó, tôi đã kể về Charlie và thân phận của những đứa trẻ rơi vào cảnh tù tội. Một cặp vợ chồng lớn tuổi gặp tôi và khẳng định họ phải giúp Charlie. Tôi cố gắng ngăn những người tốt bụng này nghĩ rằng họ có thể làm gì đó, nhưng tôi vẫn đưa danh thiếp và bảo họ có thể gọi điện cho tôi. Tôi không trông đợi họ sẽ liên hệ lại, nhưng vài ngày sau, họ gọi điện và tỏ rõ sự quyết tâm. Cuối cùng chúng tôi thống nhất rằng họ sẽ viết một lá thư, và tôi sẽ chuyển thư cho Charlie. Khi nhận được lá thư vài tuần sau đó, tôi đọc và không khỏi thấy ấn tượng.
Ông bà Jennings là cặp vợ chồng da trắng khoảng ngoài bảy mươi tuổi đến từ một cộng đồng nhỏ ở Đông Bắc Birmingham. Họ là những người tốt bụng và hào hiệp, phụng sự tích cực tại nhà thờ Giáo hội Giám lý Hiệp nhất địa phương. Họ chưa bao giờ bỏ một ngày lễ nào, và đặc biệt quan tâm tới những đứa trẻ gặp khủng hoảng. Họ nói năng nhẹ nhàng, dường như lúc nào cũng tươi cười, nhưng chưa bao giờ tỏ ra thiếu chân thành hay thiếu nhân ái. Hai vợ chồng thường trìu mến bày tỏ tình cảm với nhau, họ thường xuyên nắm tay và tựa vào nhau. Họ ăn mặc như nông dân và sở hữu mười mẫu đất, ở đó họ trồng rau và sống một cuộc đời bình dị. Đứa cháu duy nhất, người mà họ đã góp phần nuôi dạy, đã tự tử khi còn ở tuổi thiếu niên, và nỗi thương tiếc của họ chưa bao giờ nguôi ngoai. Cháu trai họ đã phải chống chọi với những vấn đề tâm lý trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình, nhưng đó là một cậu nhóc thông minh, và họ đã dành dụm tiền cho cậu học đại học. Họ giải thích trong thư rằng họ muốn dùng số tiền tiết kiệm đó để giúp Charlie.
Cuối cùng, Charlie và đôi vợ chồng già bắt đầu thư từ qua lại cho tới ngày ông bà Jennings tới thăm Charlie ở trại giam trẻ vị thành niên. Về sau, họ kể lại với tôi rằng họ “cảm mến cậu ngay lập tức”. Bà của Charlie qua đời chỉ vài tháng sau hôm bà gọi tôi cầu cứu, còn mẹ cậu vẫn đang suy sụp vì vụ nổ súng và việc con trai bị bắt giam. Ban đầu Charlie tỏ ra ngại ngần về việc gặp ông bà Jennings vì cậu lo họ sẽ không thích cậu. Thế nhưng, sau khi họ ra về, cậu kể với tôi, dường như ông bà rất quan tâm tới cậu, và họ làm cậu cảm thấy được an ủi. Nhà Jennings đã trở thành gia đình của cậu từ đó.
Khi mới bắt đầu, tôi đã cảnh báo hai vợ chồng đừng kỳ vọng quá nhiều ở Charlie sau khi cậu được phóng thích. “Ông bà biết đấy, thằng bé đã trải qua quá nhiều chuyện. Tôi không chắc nó có thể sống tiếp như không có gì xảy ra. Tôi muốn ông bà hiểu rằng nó có thể không làm được tất cả những điều mà ông bà mong đợi.”
Họ không bao giờ chấp nhận những lời cảnh báo đó. Bà Jennings hiếm khi tỏ ra khó chịu hay tranh cãi, nhưng tôi biết bà sẽ càu nhàu nếu ai đó nói ra điều mà bà không thật đồng tình. Bà bảo tôi “Tất cả chúng ta, ai cũng phải trải qua chuyện nọ chuyện kia, Bryan ạ. Tôi biết có những người trải qua nhiều chuyện hơn người khác. Nhưng nếu chúng ta không mong đợi nhiều hơn từ nhau, không hy vọng nhiều hơn về nhau, và vươn lên từ những khổ đau mà chúng ta phải trải qua, thì chúng ta chắc chắn sẽ diệt vong.”
Ông bà Jennings đã giúp Charlie tốt nghiệp chương trình đào tạo phổ thông trung học ở trong trại và nhất mực muốn tài trợ chi phí để cậu học lên đại học. Ngày cậu ra tù, họ đã ở đó, cùng với mẹ cậu, để đón cậu về nhà.