← Quay lại trang sách

Chương bảy CÔNG LÝ BỊ TỪ CHỐI

Đơn kháng cáo của Walter bị bác.

Bảy mươi trang ý kiến của Tòa Phúc thẩm Hình sự Alabama tàn nhẫn tuyên y án tử hình đối với Walter. Trong đơn kháng nghị, tôi nêu rõ tình trạng thiếu hụt chứng cứ và vạch ra những lỗ hổng pháp lý mà tôi xác định được về phiên sơ thẩm. Tôi lập luận rằng lời khai của Myers không phải là nguồn chứng cứ khả tín, và theo luật Alabama, nhà nước không thể chỉ dựa vào lời khai của đồng phạm. Tôi lập luận rằng có sai phạm trong quá trình tố tụng, thái độ phân biệt chủng tộc khi lựa chọn bồi thẩm đoàn, và sự bất cập trong quyết định thay đổi địa điểm. Tôi thậm chí còn phản bác việc thẩm phán Robert E. Lee Key bác bỏ quyết định kết án tù chung thân của bồi thẩm đoàn, mặc dù tôi biết chuyện giảm án cho một người vô tội từ tử hình xuống tù chung thân không ân xá vẫn là một thất bại thảm hại của công lý. Tòa bác bỏ tất cả những lập luận của tôi.

Tôi không ngờ sự việc lại đến mức này. Trong một buổi tranh biện nhiều tháng trước, tôi đã lạc quan khi bước vào tòa nhà Tư pháp Alabama uy nghiêm và đứng trong phòng xử phúc thẩm rộng thênh thang mà trước kia từng là đền thờ của Hội Tam điểm Scotland. Được xây dựng vào những năm 1920, tòa nhà đã được cải tạo thành một tòa án oai phong trong những năm 1940 với nền đá hoa cương và một mái vòm tráng lệ. Nó tọa lạc ở cuối Đại lộ Dexter, Montgomery, đối diện nhà thờ Baptist Dexter, di tích lịch sử nơi Tiến sĩ Martin Luther King Jr. quản nhiệm vào thời điểm diễn ra cuộc Tẩy chay Xe buýt Montgomery. Cách đó một dãy phố là tòa nhà Quốc hội tiểu bang, với ba lá cờ tô điểm: quốc kỳ Mỹ, lá cờ trắng đỏ của bang Alabama, và lá cờ chiến của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.

Phòng xử của Tòa Phúc thẩm Hình sự Alabama nằm trên tầng hai. Chánh án tòa án là cựu Thống đốc John Patterson. Ông là một hiện tượng trên báo chí quốc gia vào những năm 1960 khi phản đối dữ dội sự hòa hợp chủng tộc và các quyền của công dân. Năm 1958, được Ku Klux Klan chống lưng, ông đánh bại George Wallace để trở thành thống đốc. Quan điểm của ông thậm chí còn có xu hướng chia rẽ chủng tộc hơn cả Wallace (Wallace, sau bài học từ thất bại trước John Patterson, về sau đã trở thành người có tư tưởng phân biệt chủng tộc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Năm 1963, ông này từng tuyên bố “phân rẽ hôm nay, phân rẽ ngày mai, phân rẽ mãi mãi” tại địa điểm chỉ cách tòa án một dãy phố). Ở địa vị tổng chưởng lý trước khi trở thành thống đốc, Patterson cấm NAACP hoạt động ở Alabama, dẹp các cuộc tẩy chay và biểu tình vì dân quyền ở Tuskegee và Montgomery. Đến khi là thống đốc bang, ông từ chối điều động lực lượng chấp pháp bảo vệ cho nhóm Freedom Riders - những sinh viên và nhà hoạt động da đen và da trắng đi khắp miền Nam vào đầu thập niên 1960 để xóa bỏ tình trạng phân biệt chủng tộc trong các ngành dịch vụ công ích và vận động các bang thừa nhận các quy định mới của liên bang*. Khi chiếc xe buýt của nhóm Freedom Riders du hành tới bang Alabama, họ bị cảnh sát bỏ mặc. Cô độc và không được nhà chức trách bảo vệ, họ bị đánh đập dã man, còn chiếc xe buýt bị đánh bom.

Freedom Riders là một nhóm nhà hoạt động đi xe bus khắp các bang miền Nam nhằm ép các bang này thực thi quy định theo các án lệ mới của liên bang. Các án lệ này tuyên bố việc phân biệt chủng tộc trong các dịch vụ xe bus công cộng là vi hiến. (B.B.T.)

Tuy vậy, tôi vẫn cố nuôi hy vọng. Đó là chuyện xảy ra đã lâu. Trong buổi tranh biện, năm thẩm phán của tòa nhìn tôi dò xét nhưng chỉ hỏi rất ít. Tôi coi sự im lặng của họ nghĩa là đồng tình. Tôi mong họ sẽ thấy bản án thiếu sức thuyết phục và không cần thảo luận gì nhiều nữa. Thẩm phán Patterson chỉ lên tiếng một lần duy nhất vào cuối buổi tranh biện, khi ông chậm rãi nhưng nghiêm nghị đặt một câu hỏi vang khắp phòng xử gần như vắng lặng.

“Anh từ đâu đến?”

Tôi bị bất ngờ trước câu hỏi và ngập ngừng trước khi trả lời.

“Thưa ngài, tôi sống ở Montgomery.”

Tôi đã dại dột can gia đình McMillian đến dự buổi tranh biện, vì tôi biết rằng đây là một buổi tập trung nhiều vào chuyên môn và ít thảo luận về tình tiết. Những người ủng hộ tôi sẽ phải nghỉ làm và lái xe đường dài tới Montgomery để dự buổi tranh biện lúc sáng sớm. Vì mỗi bên chỉ có ba mươi phút trình bày, tôi nghĩ nó không đáng để họ phải mất công tới dự. Lúc ngồi xuống sau khi kết thúc phần tranh biện của mình, tôi mới hối hận vì quyết định đó. Giá như trong phòng xử hôm đó có thêm một vài gương mặt gợi sự cảm thông để tòa thấy rằng đây là trường hợp đặc biệt.

Sau đó Phó Tổng chưởng lý trình bày những lập luận của phía nhà nước (các vụ phúc thẩm án tử hình thuộc quyền giải quyết của tổng chưởng lý, chứ không phải công tố viên địa phương). Ông ta lập luận rằng đây là một vụ giết người thông thường và mức án tử hình là hợp lý. Sau buổi tranh biện đó, tôi vẫn hy vọng tòa sẽ hủy bỏ bản án vì rõ ràng là nó không được xây dựng dựa trên những bằng chứng xác thực. Luật tiểu bang yêu cầu lời khai của đồng phạm phải được củng cố thêm bằng các nguồn chứng cứ khả tín trong những trường hợp giết người, nhưng điều này không diễn ra trong vụ của Walter. Tôi tưởng tòa sẽ khó có thể tuyên y án với ít bằng chứng như vậy. Tôi đã lầm.

Tôi lái xe tới trại giam để báo tin. Walter không nói gì khi tôi thông báo tình hình, nhưng gương mặt anh toát lên vẻ tuyệt vọng lạ lùng. Tôi đã cố gắng chuẩn bị tinh thần cho anh rằng có thể phải mất nhiều năm chúng tôi mới lật ngược được bản án của anh, nhưng anh vẫn nuôi hy vọng.

“Họ sẽ không bao giờ thừa nhận sai lầm của mình đâu,” anh buồn bã nói. “Họ biết tôi không gây ra chuyện đó. Đơn giản là họ không thể thừa nhận mình đã sai, họ sợ bị mất mặt.”

“Chúng ta mới chỉ bắt đầu thôi mà, Walter,” tôi đáp. “Còn rất nhiều việc phải làm, và chúng ta sẽ buộc họ phải đối mặt với điều đó.”

Tôi đang nói sự thật: Chúng tôi phải kiên trì bước tiếp. Chúng tôi có kế hoạch đề nghị Tòa Phúc thẩm Hình sự xem xét lại quyết định của họ, và nếu việc này không thành, chúng tôi sẽ kháng cáo lên Tòa án Tối cao Alabama. Chúng tôi cũng đã phát hiện thêm nhiều chứng cứ chứng tỏ Walter vô tội.

Sau khi nộp đơn kháng cáo, tôi đã tiếp tục tích cực điều tra vụ việc. Nếu chúng tôi không có nhiều bằng chứng mới về sự vô tội của Walter đến vậy, có lẽ kết luận của tòa án còn nặng nề với chúng tôi hơn nữa. Tôi nói với Walter trước khi ra về, “Họ không biết đến giờ chúng ta đã biết những gì về sự vô tội của anh. Khi nào chúng ta trình bày các bằng chứng mới, họ sẽ phải nghĩ khác.” Niềm hy vọng của tôi là thật, bất chấp những điều vừa xảy ra. Nhưng tôi đã đánh giá quá thấp sự ngoan cố mà mình phải đối mặt.

Cuối cùng, tôi cũng thuê được thêm một vài luật sư cho tổ chức, giúp tôi có thêm thời gian điều tra vụ của Walter. Một trong những nhân viên mới đó là Michael O’Connor, vừa tốt nghiệp trường Luật Yale; từng trải qua những cuộc vật lộn của riêng mình, cậu khao khát được giúp đỡ những con người gặp hoàn cảnh khó khăn. Là con trai của một gia đình nhập cư gốc Ireland, Michael lớn lên ở ngoại ô Philadelphia trong một khu lao động nghèo phức tạp. Khi bạn bè ở trường phổ thông bắt đầu nếm thử ma túy, Mike không thoát được sự cám dỗ và nhanh chóng nghiện heroin. Cuộc đời cậu tuột dốc thê thảm, chìm vào vòng xoáy ác mộng của sự hỗn loạn và lệ thuộc vào ma túy trong khi nguy cơ chết vì dùng thuốc quá liều luôn luôn rình rập. Suốt vài năm, cậu dật dờ từ cuộc khủng hoảng này sang cuộc khủng hoảng khác cho tới khi cái chết do dùng ma túy quá liều của một người bạn thân làm cậu tỉnh ra, thôi thúc cậu cai nghiện. Suốt giai đoạn đau thương đó, gia đình luôn sát cánh bên cậu. Họ giúp cậu ổn định cuộc sống và quay lại trường đại học. Ở Đại học Penn State, cậu chứng tỏ mình là một sinh viên tài năng, với thành tích tốt nghiệp hạng ưu. Những thành tích trong học tập giúp cậu thi đỗ vào trường Luật Yale, nhưng trái tim cậu không thôi đau đáu với những đau khổ mà những năm tháng sống trên đường phố đã cho cậu thấy.

Trong buổi phỏng vấn tuyển dụng, cậu tỏ ra hối tiếc về quá khứ đen tối của mình, nhưng tôi thấy cậu là ứng viên hoàn hảo cho đội ngũ nhân viên mà chúng tôi đang cố gắng xây dựng. Cậu nhận việc, chuyển tới Montgomery, và không ngần ngại lao ngay vào vụ McMillian. Chúng tôi mất nhiều ngày tìm kiếm các manh mối, phỏng vấn hàng chục người, theo dõi các tin đồn và điều tra nhiều giả thuyết khác nhau. Tôi đồ rằng chúng tôi sẽ phải tìm ra thủ phạm thực sự đã giết Ronda Morrison thì mới thắng được vụ Walter. Ngoài niềm cảm kích đối với sự hỗ trợ quý báu của Michael cho công việc, tôi cũng biết ơn vì cuối cùng cũng có bạn đồng hành để san sẻ sự điên rồ của vụ án này - đúng lúc tôi phát hiện ra nó còn điên rồ hơn tôi tưởng.

Sau vài tháng điều tra, chúng tôi đã tìm được bằng chứng mạnh mẽ chứng tỏ Walter vô tội. Chúng tôi phát hiện ra Bill Hooks đã được Cảnh sát trưởng Tate trả tiền cho lời khai chống lại Walter - chúng tôi tìm thấy trong hồ sơ tài chính của hạt những chi phiếu cho thấy Hooks đã được trả gần 5.000 đô-la coi như tiền thưởng và tiền bù đắp “phí tổn”. Cảnh sát trưởng Tate cũng trả tiền đi lại cho Hooks trong thời gian xét xử. Lẽ ra thông tin này phải được cung cấp cho luật sư biện hộ của Walter trước phiên xét xử, để họ có thể sử dụng nó thách thức tính xác thực trong lời khai của Hooks.

Chúng tôi cũng phát hiện ra Hooks đã ngay lập tức được phóng thích khỏi trại giam sau khi khai với cảnh sát rằng hắn trông thấy chiếc xe tải “gầm thấp” của Walter tại cửa hiệu giặt là vào hôm xảy ra án mạng. Chúng tôi tìm ra hồ sơ tòa án cho thấy [1] công tố viên và cảnh sát trưởng, những quan chức của hạt , không biết bằng cách nào đã “hô biến” cáo buộc và khoản tiền phạt của thành phố đối với Hooks, dù họ không có thẩm quyền trong các tòa án thành phố. Theo án lệ của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, chuyện hủy bỏ các cáo buộc chống lại Hooks để đổi lấy sự hợp tác của hắn với nhà chức trách là một thông tin mà nhà nước phải tiết lộ cho luật sư bào chữa. Nhưng tất nhiên, họ đã không làm thế.

Chúng tôi tìm thấy người đàn ông da trắng trông cửa hiệu vào ngày Ralph Myers tới đưa mẩu giấy nhắn cho Walter. Walter đã cố gắng thuyết phục các luật sư bào chữa nói chuyện với người này, nhưng họ không làm được. Sau khi Walter miêu tả vị trí cửa hiệu, chúng tôi đã tìm được ông ta. Chủ tiệm lục lại ký ức về ngày hôm đó: Myers kiếm Walter nhưng y đã phải hỏi ông ta đâu là Walter McMillian trong số những người đàn ông da đen có mặt ở đó. Nhiều tháng sau vụ án mạng, chủ tiệm là nhân chứng hùng hồn cho thấy Myers chưa từng gặp McMillian trước đó.

Tại tầng hầm nhà thờ, chị gái Walter tìm thấy những tờ rơi quảng cáo về bữa tiệc gây quỹ tổ chức tại nhà anh; chúng xác nhận sự kiện đó diễn ra đúng vào ngày xảy ra án mạng Morrison. Một chủ cửa hiệu da trắng không có quan hệ gì với Walter và gia đình anh vì lý do nào đó đã giữ một tờ rơi, và ông ta khẳng định mình nhận được nó trước khi Morrison bị giết. Chúng tôi cũng tìm thấy Clay Kast, người thợ máy da trắng đã sửa xe tải cho Walter và độ nó thành chiếc xe gầm thấp. Anh ta xác nhận chiếc xe được độ sau khi Ronda Morrison bị sát hại hơn sáu tháng. Điều này chứng tỏ chiếc xe tải của McMillian không có điểm nào đặc biệt và không thể là chiếc xe mà Myers và Hooks mô tả trong phiên tòa.

Khi đang cảm thấy hứng khởi vì bước tiến mà chúng tôi đã đạt được thì tôi nhận được một cuộc gọi đánh dấu bước ngoặt trọng đại nhất cho vụ việc.

“Anh Stevenson, tôi là Ralph Myers,” người ở đầu dây bên kia nói.

Trước đó, thư ký báo với tôi có “Ông Miles” gọi đến, vì vậy tôi không khỏi sững người khi biết đó là Ralph Myers. Trước khi tôi kịp trấn tĩnh, y lại cất lời.

“Tôi nghĩ anh cần tới gặp tôi. Tôi có chuyện này muốn kể với anh,” y tỏ vẻ ly kỳ.

Myers đang bị giam tại Trại Cải huấn St. Clair ở Springville, Alabama; Michael và tôi dự định tới đó gặp anh ta sau đó ba ngày.

Michael và tôi đã bắt đầu tập chạy bộ vài dặm mỗi tối sau khi kết thúc công việc để thư giãn sau những ngày làm việc mỗi lúc một thêm mệt mỏi. Montgomery có một công viên đẹp được dùng làm nơi tổ chức Lễ hội Shakespeare Alabama, các nhà viết kịch và diễn viên kịch nói nổi tiếng trên cả nước quy tụ về đây để diễn kịch Shakespeare và các tác phẩm sân khấu hiện đại. Nhà hát tọa lạc trong khuôn viên rộng hàng trăm mẫu đất được chăm chút tỉ mẩn với những hồ nước mát của công viên. Công viên có một vài lối chạy bộ. Tối hôm đó, chúng tôi vừa chạy vừa phỏng đoán câu chuyện mà Myers sẽ kể cho chúng tôi nghe.

“Tại sao hắn lại gọi chúng ta nhỉ?” Michael hỏi. “Anh thử hình dung xem, hắn tới phòng xử và trơ trẽn bịa ra một câu chuyện khiến một người vô tội bị kết án tử hình. Tôi không chắc chúng ta có thể tin bất cứ điều gì hắn nói.”

“Ừ, có thể cậu nói đúng, nhưng hắn được giúp khá nhiều để dựng lên câu chuyện đó đấy. Cậu nhớ không, họ cũng từng giam Myers vào trại tử tù để ép hắn cung cấp một số lời khai. Ai mà biết được? Biết đâu hắn lại đang liên lạc với nhà nước, và đây là một chiêu trò để đánh lạc hướng chúng ta.”

Tôi chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về khả năng đó cho tới buổi chạy này. Tôi nghĩ lại về sự lươn lẹo của Myers trong suốt quá trình xét xử. “Chúng ta phải cẩn thận, tránh tiết lộ thông tin cho Myers - chỉ lấy những thông tin mà hắn có thôi. Nhưng chúng ta phải nói chuyện với hắn, vì nếu hắn phản cung, Nhà nước sẽ không còn lý gì để kết tội Walter nữa.”

Chúng tôi nhất trí rằng Myers có thể là người thay đổi hoàn toàn cục diện, tùy thuộc y sẽ nói gì. Chúng tôi đã đạt được nhiều bước tiến trong việc bác bỏ lời khai của Bill Hooks: Nhờ sự xuất hiện của Darnell Houston, bằng chứng mới về tình trạng chiếc xe tải của Walter, và những phát hiện về những ưu ái của các nhà chức trách dành cho Hooks, độ tin cậy trong lời khai của hắn giờ đã bị thách thức. Nhưng việc Myers phản cung sẽ là cú hích quan trọng hơn nhiều. Lời khai và lời buộc tội quái đản của Myers là căn cứ cho toàn bộ lập luận của nhà nước.

Đọc lời khai của Myers và rà soát các tài liệu hiện có về y, tôi biết y có một quá khứ bi kịch và nhân cách phức tạp. Walter và gia đình anh đã miêu tả Myers như ác quỷ vì những lời dối trá y đưa ra trước tòa. Cảm giác bị một người không quen biết lạnh lùng tố cáo trong phiên tòa là một trong những điều làm Walter thấy hoang mang nhất hôm sơ thẩm. Ngày hôm sau, khi Walter gọi điện đến, tôi kể cho anh nghe chuyện Myers đã liên hệ với chúng tôi và chúng tôi sẽ tới gặp để xem y nói gì. Walter cảnh báo: “Hắn là một con rắn. Các cậu cẩn thận đấy.”

Mất hai giờ lái xe, Michael và tôi mới tới được nhà tù bang ở Springville, hạt St. Clair. Nhà tù này nằm ở vùng nông thôn phía Đông Bắc Birmingham, nơi địa hình Alabama trở nên gập ghềnh với nhiều đồi núi. Được đặt chế độ bảo vệ cẩn mật tối đa, nhà tù này mới hơn Holman hay Donaldson - các nhà tù cẩn mật khác ở Alabama, nhưng không thể được coi là hiện đại. Michael và tôi đi qua cửa an ninh; viên cảnh vệ lục soát chúng tôi nói anh ta đã làm ở đây được ba tháng, và đây là lần đầu tiên có luật sư đến thăm trong ca trực của anh. Chúng tôi được dẫn đi dọc theo một hành lang dài tới một cầu thang đưa chúng tôi vào sâu hơn bên trong nhà tù. Phải đi tiếp qua vài cánh cửa an ninh bằng kim loại, chúng tôi mới tới được căn phòng lớn phục vụ mục đích thăm viếng. Nội thất bên trong khá điển hình. Những chiếc máy bán nước giải khát tự động được đặt cuối phòng, ngay sát tường, và có những chiếc bàn nhỏ hình chữ nhật để người tù gặp thân nhân. Sự quen thuộc của lối bài trí ấy chẳng giúp trấn an chúng tôi được bao nhiêu. Michael và tôi đặt bút đặt sổ lên một chiếc bàn, rồi đi đi lại lại trong phòng chờ Myers.

Khi Myers bước vào phòng thăm viếng, tôi bất ngờ vì trông y già quá. Tóc y gần như đã bạc hết, làm y trông có vẻ mỏng manh, yếu ớt. Y cũng thấp, vóc người nhỏ thó hơn rất nhiều so với hình dung của tôi. Tôi đã vẽ ra hình ảnh của y cao lớn hơn thực tế bởi lời khai của y đã gây ra quá nhiều đau khổ cho Walter và gia đình anh. Y bước về phía chúng tôi rồi khựng lại khi thấy Michael và ấp úng hỏi, “Cậu này là ai? Anh không nói với tôi là anh sẽ đi cùng một người nữa.” Myers nói giọng miền Nam đặc sệt. Nhìn gần, những vết sẹo khiến y trông đáng thương hơn là dữ dằn hay hung ác.

“Đây là Michael O’Connor. Cậu ấy là luật sư ở văn phòng luật của tôi và là cộng sự của tôi trong vụ này. Michael chỉ đang giúp tôi điều tra vụ việc thôi.”

“Hừm, mọi người nói tôi có thể tin tưởng anh. Nhưng tôi đâu biết gì về cậu này.”

“Cậu ấy tốt, tôi hứa đấy.” Tôi liếc nhìn Michael, thấy cậu đang cố biểu lộ vẻ đáng tin cậy, rồi quay lại nhìn Myers. “Mời anh ngồi.”

Y ngờ vực nhìn Michael rồi chậm rãi ngồi xuống. Kế hoạch của tôi là cố gắng tạo không khí thoải mái cho cuộc nói chuyện bằng cách khẳng định với y rằng chúng tôi chỉ muốn biết sự thật. Nhưng tôi chưa kịp nói gì thì Myers đã tuôn ra một tràng bác bỏ toàn bộ những gì y khai tại phiên xử.

“Tôi đã nói dối. Tất cả những gì tôi khai trong phiên tòa xử McMillian là dối trá. Tôi đã mất ngủ rất nhiều và quá khốn khổ về chuyện này. Tôi không thể giữ im lặng lâu hơn được nữa.”

“Lời khai của anh trong phiên tòa xử Walter McMillian là nói dối ư?” Tôi thận trọng hỏi.

Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi cố tỏ ra bình tĩnh hết mức có thể. Tôi sợ rằng nếu tôi quá sốt sắng hoặc quá kinh ngạc - bất cứ cảm xúc thái quá nào - y sẽ đổi ý.

“Tất cả đều là dối trá hết. Chuyện tôi sắp kể sẽ làm anh kinh hồn đấy, anh Stevenson.”

Y nhìn tôi chằm chằm trước khi quay sang Michael. “Cả cậu nữa, Jimmy Connors.” Không mất nhiều thời gian nói chuyện, tôi nhận ra Ralph không giỏi nhớ tên.

“Anh Myers, anh biết chúng tôi muốn anh không chỉ nói sự thật với chúng tôi, mà còn nói sự thật với tòa nữa. Anh có sẵn lòng không?”

Tôi khá lo lắng khi đặt vấn đề nhanh như vậy, nhưng tôi phải nói cho rõ. Tôi không muốn câu chuyện này giữa Myers và chúng tôi chỉ là một cuộc trao đổi riêng tư.

“Thì đấy là lý do tại sao tôi gọi anh mà.” Y tỏ ra ngạc nhiên khi tôi đặt câu hỏi về ý đồ của y. “Tôi đang tham gia một lớp trị liệu nhóm ở đây. Ở đây bọn tôi được yêu cầu phải thật trung thực. Bọn tôi đã nói về sự trung thực suốt gần ba tháng qua. Tuần trước mọi người kể về tất cả những tai họa họ gặp phải hồi nhỏ và tất cả những việc tồi tệ họ đã làm.”

Myers kể chuyện mỗi lúc thêm say sưa.

“Cuối cùng tôi nói với cả bọn, ‘Này, tất cả lũ chúng mày phải thua tao hết, tao đã làm cho một thằng lĩnh án tử hình bằng cách nói dối trước tòa đấy’.”

Y dừng lại như để thêm phần kịch tính.

“Sau khi tôi kể với cả bọn chuyện tôi đã gây ra, chúng bảo tôi nên sửa chữa đi. Đấy là điều tôi đang cố làm đây.” Y lại ngừng lời để tôi kịp tiếp thu. “Này, các anh mua cho tôi một lon soda khỉ gió gì đó đi, chả lẽ tôi cứ ngồi đây cả ngày, ngắm nghía cái máy bán nước chết tiệt kia và dốc hết ruột gan thôi à?” Lần đầu tiên y cười kể từ khi chúng tôi gặp nhau. Michael đứng dậy và đi mua nước cho y.

“Này Jimmy, nếu có thì lấy loại nước cam Sunkist ấy nhé.”

Trong hơn hai tiếng đồng hồ, tôi đặt câu hỏi, và Ralph trả lời. Cuối cùng, quả thực, y đã làm tôi kinh ngạc. Y kể mình đã bị cảnh sát trưởng và ABI [Sở Điều tra bang Alabama - ND] gây sức ép, họ dọa sẽ kết án tử hình nếu y không ra làm chứng chống lại McMillian. Y cáo buộc các quan chức tham nhũng, kể về sự liên can của y trong vụ giết hại Pittman, và tiết lộ rằng y từng có ý định rút lại lời khai. Cuối cùng y thừa nhận không biết chút gì về vụ sát hại Morrison, không có manh mối gì về những điều đã xảy ra với cô hay bất cứ điều gì khác trong vụ này. Y cho biết y đã kể với rất nhiều người - từ công tố viên trở xuống - rằng y đã bị ép phải làm chứng chống lại Walter. Cứ cho là chỉ một nửa những điều y nói là đúng sự thật, thì vẫn có nhiều người tham gia xử lý vụ này hẳn đã được nghe từ chính miệng y - kẻ buộc tội duy nhất - rằng Walter không liên quan gì tới cái chết của Ronda Morrison.

Ralph đã uống hết lon nước cam Sunkist thứ ba khi y kết thúc phần tự thú, y chúi người về trước và ra hiệu cho chúng tôi ghé tai lại gần. Y thì thầm với Michael và tôi.

“Các anh biết đấy, họ sẽ tìm cách giết các anh nếu các anh thật sự truy đến tận cùng sự việc.”

Chúng tôi nhận ra Ralph sẽ không bao giờ để cuộc gặp gỡ kết thúc mà không tung ra một tiết lộ, quan sát hay tiên đoán ly kỳ nào. Tôi cam đoan với y chúng tôi sẽ cẩn trọng.

Trên đường về Montgomery, Michael và tôi tranh luận xem chúng tôi có thể tin tưởng Myers đến mức nào. Những điều y kể với chúng tôi về vụ McMillian đều rất hợp lý. Câu chuyện y bịa ra ở phiên tòa vô lý đến nỗi ta có thể dễ dàng tin rằng y đã bị ép làm chứng gian. Câu chuyện tham nhũng mà y có vẻ muốn lột trần thì khó đánh giá hơn. Myers thừa nhận đã tham gia vụ sát hại Vickie Pittman theo lệnh của cảnh sát trưởng địa phương; y vẽ ra một thuyết âm mưu quy mô lớn liên quan đến cảnh sát, hoạt động buôn bán ma túy và rửa tiền. Nghe như một câu chuyện hư cấu.

Chúng tôi mất nhiều tuần để lần theo những manh mối mà Myers cung cấp. Y thú nhận mình chưa bao giờ gặp Walter mà chỉ nghe nói về anh qua Karen Kelly. Y cũng xác nhận đã qua lại với Karen Kelly, và rằng cô có liên quan tới vụ sát hại Pittman. Vì vậy, chúng tôi quyết định sẽ tìm đến Kelly để xác minh câu chuyện. Kelly hiện đang chịu án tại nhà tù nữ Tutwiler theo bản án mười năm tù vì vụ Pittman. Tutwiler là một trong những nhà tù lâu đời nhất bang và là nhà tù nữ duy nhất ở bang này. Các quy định an ninh ở đây không nghiêm ngặt như nhà tù của nam giới. Khi Michael và tôi lái xe tới cổng, chúng tôi có thể thấy những nữ tù nhân đi lang thang bên ngoài mà không có ai giám sát. Họ nhìn Michael và tôi dò xét rồi chào chúng tôi bằng những nụ cười không giấu nổi sự hiếu kỳ. Chúng tôi được một nhân viên nam khám xét qua quýt ở hành lang trước khi được phép đi qua cánh cổng sắt để tới khu vực giam chính. Chúng tôi chờ Karen Kelly trong một căn phòng rất nhỏ, hầu như không có gì ngoài một cái bàn vuông.

Kelly là một phụ nữ da trắng mảnh dẻ tầm ba mươi lăm tuổi, cô bước vào phòng mà không có còng tay hay xiềng xích gì. Chúng tôi bất ngờ khi thấy cô có vẻ khá thoải mái, cô tự tin bắt tay tôi, rồi gật đầu chào Michael. Cô có trang điểm, mắt cô đánh màu lá cây rực rỡ. Cô ngồi xuống và ngay lập tức tuyên bố rằng Walter đã bị vu khống, và rằng cô rất mừng vì cuối cùng cũng có dịp nói ra chuyện này. Khi chúng tôi bắt đầu đặt câu hỏi, cô nhanh chóng xác nhận rằng trước vụ Morrison, Myers không hề quen biết Walter.

“Ralph là thằng ngu. Anh ta nghĩ anh ta có thể tin mấy thằng cớm khốn nạn đó, và để chúng dụ dỗ khai rằng anh ta có liên can đến một vụ mà anh ta chẳng biết cái quái gì hết. Chẳng cần loanh quanh bịa chuyện thêm, thì anh ta cũng đã làm đủ chuyện xấu xa rồi.”

Mặc dù lúc đầu khá bình tĩnh, nhưng khi bắt đầu kể lại những sự kiện xoay quanh vụ việc, cô mỗi lúc lại xúc động hơn. Cô khóc không dưới một lần. Cô nuối tiếc kể về cú trượt dốc không phanh của đời mình kể từ khi bắt đầu lạm dụng ma túy.

“Tôi không phải người xấu, nhưng tôi đã có những quyết định thực sự tồi tệ và ngu xuẩn.”

Cô vô cùng đau lòng vì Walter bị kết án tử.

“Tôi cảm thấy như mình chính là nguyên nhân khiến anh ấy rơi vào cảnh tù tội. Tôi biết anh ấy không phải loại người có thể giết ai đó.” Rồi giọng cô trở nên cay đắng. “Tôi đã phạm nhiều sai lầm, nhưng những kẻ đó cũng nên biết nhục. Bọn họ cũng tồi tệ chẳng kém gì tôi. Cảnh sát trưởng Tate chỉ nghĩ đến một thứ duy nhất trong đầu. Hắn liên tục hỏi tôi, ‘Tại sao cô thích ngủ với bọn mọi đen? Tại sao cô thích ngủ với bọn mọi đen?’ Thật kinh tởm, hắn thật kinh tởm.” Cô ngừng lời và nhìn xuống đôi bàn tay. “Nhưng tôi cũng thật tệ. Hãy xem tôi đã làm gì,” cô buồn bã nói.

Tôi bắt đầu nhận được thư của Karen Kelly từ sau chuyến thăm đó. Cô muốn tôi nói với Walter rằng cô rất day dứt vì những điều đã xảy đến với anh. Cô nói cô vẫn rất quan tâm tới anh. Chúng tôi không rõ liệu mình có thể trông đợi gì ở Karen nếu chúng tôi có một phiên tòa nữa, ngoại trừ việc xác nhận rằng Ralph chưa bao giờ gặp Walter. Rõ ràng là cô nhìn Walter như một kiểu người không bao giờ có thể giết hại dã man ai, điều này tương đồng với ý kiến của tất cả những người quen biết anh. Cô không làm việc với cảnh sát nhiều xung quanh vụ Morrison và không có thông tin hữu ích về sai phạm của họ, ngoài việc chỉ ra họ đã bị kích động trước mối quan hệ giữa cô và Walter.

Michael và tôi quyết định dành thêm thời gian tìm hiểu vụ sát hại Pittman; chúng tôi nghĩ vụ này có thể cung cấp thêm một góc nhìn nữa về sức ép mà nhà nước gây ra với Myers. Chúng tôi biết rằng vì Myers từng rút lại lời buộc tội đối với Walter trước phiên xử, nên Nhà nước có thể sẽ không quá ngạc nhiên khi lần này anh ta lại phủ nhận vai trò của McMillian trong vụ án. Chúng tôi cố gắng tìm kiếm nhiều bằng chứng khách quan hết mức có thể để xác minh những điều Myers vừa nói. Hiểu rõ vụ Pittman và ghi chép lại những chi tiết sai lệch hiển nhiên mà Myers mới cung cấp sẽ giúp chúng tôi củng cố thêm bằng chứng.

Vụ sát hại Vickie Pittman đã hoàn toàn rơi vào quên lãng. Các quan chức hạt Monroe đã giảm án cho Myers và Kelly để đổi lấy lời khai của Myers chống lại Walter. Việc họ xoay sở để giảm án trong vụ Pittman, mặc dù vụ này xảy ra ở một hạt khác và nằm ngoài thẩm quyền của họ, là bất bình thường. Myers quả quyết rằng ngoài y và Kelly còn có những người khác dính líu đến vụ Pittman, trong đó có một cảnh sát trưởng tham nhũng. Nguyên nhân Vickie Pittman bị giết vẫn chưa có lời giải. Myers kể rằng nó liên quan đến nợ nần ma túy và những lời đe dọa tố cáo tham nhũng của cô.

Chúng tôi tìm thấy trong một vài báo cáo ban đầu của cảnh sát chi tiết cha của Vickie Pittman, ông Vic Pittman, bị cho là một nghi phạm trong vụ sát hại cô. Vickie Pittman có hai người dì, Mozelle và Onzelle, họ đã thu thập thông tin và mải miết đi tìm câu trả lời cho những bí ẩn xung quanh cái chết của cô cháu gái. Chúng tôi đã tìm đến họ với hy vọng mong manh rằng họ sẽ sẵn sàng nói chuyện với chúng tôi, và chúng tôi bất ngờ khi họ nhiệt tình đồng ý.

Mozelle và Onzelle là hai chị em sinh đôi - họ cũng là những người ham nói, thú vị, có chính kiến rõ ràng, và có thể nói chuyện thẳng như ruột ngựa. Hai phụ nữ nông thôn da trắng trung tuổi này thân thiết đến nỗi người này có thể dễ dàng tiếp lời người kia mà không cần quá chú tâm vào câu chuyện. Họ tự miêu tả mình là “dân quê cứng đầu” và tỏ ra là những phụ nữ gan góc, quyết liệt và không dễ khuất phục.

“Anh nhớ đấy: Chúng tôi có súng, thế nên đừng diễn trò khi đến đây nhé.” Đó là lời cảnh báo cuối cùng của Mozelle trước khi tôi gác máy kết thúc cuộc trò chuyện đầu tiên giữa chúng tôi.

Michael và tôi tới vùng nông thôn của hạt Escambia và được hai chị em Mozelle chào đón. Họ mời chúng tôi vào nhà, ngồi bên bàn ăn và không phí thời gian vào ngay câu chuyện.

“Thân chủ của các anh giết cháu chúng tôi phải không?” Mozelle hỏi thẳng.

“Không, thưa bà, tôi thực lòng tin rằng anh ấy không làm vậy.”

“Anh có biết hung thủ là ai không?”

Tôi thở dài. “Không, chúng tôi không rõ lắm. Chúng tôi đã nói chuyện với Ralph Myers và tin rằng hắn và Karen Kelly có dính líu, nhưng Myers khẳng định còn có những người khác nữa liên quan tới vụ này.”

Mozelle nhìn Onzelle và ngả người ra phía sau.

“Chúng tôi biết còn có những kẻ khác có liên quan,” Onzelle nói. Hai bà cho biết họ nghi ngờ anh trai mình và các nhà chấp pháp địa phương, nhưng công tố viên đã coi thường và phớt lờ ý kiến của họ. (Vic Pittman chưa bao giờ bị buộc tội chính thức trong vụ sát hại này.) Họ nói ngay cả hội bảo vệ quyền nạn nhân của bang cũng phớt lờ họ.

“Họ đối xử với chúng tôi cứ như chúng tôi là đám da trắng rác rưởi thấp hèn vậy. Họ hoàn toàn phớt lờ chúng tôi.” Mozelle rất bất bình. “Tôi tưởng họ sẽ đối xử tốt hơn với nạn nhân. Tôi tưởng chúng tôi sẽ có chút tiếng nói.”

Mặc dù nạn nhân của các vụ phạm tội từ lâu đã phàn nàn về cách hệ thống tư pháp hình sự đối xử với họ, song phải tới thập niên 1980, một phong trào mới nổi lên đưa đến kết quả là phía nạn nhân và gia đình được lắng nghe nhiều hơn. Duy chỉ có điều không phải tất cả các nạn nhân đều được đối xử như nhau.

Năm mươi năm trước, hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ thịnh hành quan niệm rằng khi có kẻ gây ra tội ác, thì tất cả thành viên cộng đồng đều là nạn nhân. Bên truy tố một bị cáo hình sự được gọi là “Nhà nước” hoặc “Nhân dân” hoặc “Cộng đồng” vì khi một người bị giết, hiếp, cướp hoặc hành hung, đó là tội ác đối với tất cả mọi người. Mặc dù vậy, đầu thập niên 1980, các bang bắt đầu đưa cá nhân người bị hại vào quá trình xét xử, và bắt đầu “cá nhân hóa” người bị hại khi trình bày vụ việc. Một số bang cho phép thân nhân [2] người bị hại được ngồi ở bàn công tố trong phiên xử. Ba mươi sáu bang đã ban hành [3] những điều luật trao cho nạn nhân một số quyền cụ thể cho phép họ tham gia vào quá trình xét xử hoặc đưa ra những tuyên bố về hậu quả của tội ác đối với nạn nhân. Ở nhiều nơi, các công tố viên bắt đầu nhận mình là luật sư đại diện cho một nạn nhân cụ thể, thay vì đại diện cho nhà chức trách.

Đối với những trường hợp tử hình, năm 1987, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ phán quyết rằng việc đưa ra những bằng chứng về thân thế, tính cách, uy tín hoặc gia đình của người bị sát hại là vi hiến. “Mọi nạn nhân đều bình đẳng” là ý tưởng thịnh hành trong nhiều thập niên, nói cách khác, vụ sát hại một đứa bé bốn tuổi con của một gia đình giàu có không nghiêm trọng hơn vụ sát hại một đứa trẻ mà cha hoặc mẹ đang ngồi tù, hoặc thậm chí không hơn vụ sát hại chính người cha hoặc người mẹ đang ngồi tù đó. Tối cao Pháp viện nghiêm cấm bồi thẩm đoàn nghe những tuyên bố về “hậu quả đối với nạn nhân” bởi chúng sẽ gây kích động và khiến quá trình kết án tử hình trở nên tùy tiện. Nhiều nhà phê bình lập luận rằng những chứng cứ như vậy cuối cùng sẽ lấn át tiếng nói của những nạn nhân nghèo, thuộc chủng tộc thiểu số và gia đình họ, những người không có nguồn lực để bảo vệ cho người thân đã qua đời. Tối cao Pháp viện chấp thuận [4] , và đã xóa bỏ kiểu bằng chứng này trong vụ Booth v. Maryland.

Quyết định của Tối cao Pháp viện bị các công tố viên và một số chính trị gia lên án mạnh mẽ [5] , và dường như nó đã thúc đẩy phong trào đòi quyền nạn nhân. Chưa đầy ba năm sau đó, Tối cao Pháp viện thay đổi quan điểm trong vụ Payne v. Tennessee và ủng hộ công tố viên nhà nước được quyền trình bày những chứng cứ về đặc điểm của nạn nhân trong các phiên tòa xét xử tội giết người cấp một.

Với “hồng ân” hiến pháp mà Tối cao Pháp viện ban cho các nạn nhân, nhờ đó giúp vai trò của họ hiện diện rõ nét hơn và được bảo vệ tốt hơn trong quá trình tố tụng, nhiều thay đổi được đẩy mạnh trong quy trình tố tụng hình sự Hoa Kỳ. Hàng triệu đô-la của bang và liên bang đã được sử dụng để thiết lập các nhóm vận động vì quyền nạn nhân ở mỗi bang. Các bang tìm ra vô số cách thức [6] để cá nhân người bị hại trong một vụ án cụ thể trở thành người tham gia và người ra quyết định. Những người bảo vệ nạn nhân được gia nhập các ủy ban ân xá, và ở hầu hết các bang, họ được giao cho một vị trí chính thức tại các văn phòng công tố cấp bang và cấp địa phương. Nỗ lực tiếp cận và cung cấp dịch vụ cho nạn nhân trở thành một phần quan trọng trong quy trình tố tụng. Một số bang còn tạo điều kiện cho phía người bị hại [7] khi quyết định cho phép thêm nhiều thân nhân người bị hại được phép chứng kiến cuộc xử tử.

Cơ quan lập pháp các tiểu bang đã ban hành những biện pháp trừng phạt nghiêm khắc mới, lấy tên một số nạn nhân đặc biệt để đặt cho các đạo luật. Ví dụ, Luật Megan [8] , với chức năng mở rộng quyền lực nhà nước trong việc thiết lập danh sách tội phạm tình dục, được đặt theo tên của Megan Kanka, một cô bé bảy tuổi bị một gã đàn ông từng có tiền án dâm ô với trẻ em cưỡng hiếp và sát hại. Thay vì một tiểu bang hay một cộng đồng vô danh tính, nạn nhân của tội ác giữ vị trí nổi bật trong phiên tòa, và các vụ việc hình sự bắt lấy những xung động thường thấy ở các phiên tòa dân sự truyền thống, nơi gia đình nạn nhân trực tiếp đối đầu với thủ phạm. Tin tức báo chí thổi phồng tính chất cá nhân [9] của xung đột giữa thủ phạm và một nạn nhân cụ thể. Một công thức mới được áp dụng trong quy trình tố tụng hình sự, đặc biệt với những vụ án nghiêm trọng, trong đó cảm xúc, quan điểm và ý kiến của nạn nhân có ảnh hưởng lớn tới cách thức xử lý vụ việc.

Tuy nhiên, như những gì mà Mozelle và Onzelle phát hiện thấy, sự tập trung vào thân thế của nạn nhân đã trở thành một phương thức mới để hệ thống tư pháp hình sự phân biệt đối xử đối với một số người. Những nạn nhân nghèo hoặc thuộc các cộng đồng thiểu số tiếp tục trở thành nạn nhân của hệ thống này. Phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ Payne được đưa ra không lâu sau phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ McCleskey v. Kemp, và là một minh chứng thực tế đầy thuyết phục rằng chủng tộc của nạn nhân là yếu tố quan trọng nhất quyết định ai là người phải chịu án tử hình ở Mỹ. Theo một nghiên cứu được thực hiện cho vụ án này [10] , nếu nạn nhân là người da trắng, kẻ phạm tội ở Georgia có khả năng bị lĩnh án tử hình cao hơn mười một lần so với trường hợp nạn nhân là người da đen. Phát hiện này cũng đúng với tất cả các tiểu bang khác, nơi những nghiên cứu về chủng tộc và hình phạt tử hình được tiến hành. Ở Alabama, mặc dù 65% nạn nhân [11] bị sát hại là người da đen, song gần 80% tử tù bị kết án tử vì những tội ác đối với nạn nhân là người da trắng. Sự kết hợp giữa bị cáo da đen và nạn nhân da trắng [12] thậm chí còn làm gia tăng hơn nữa nguy cơ bản án tử hình được áp dụng.

Nhiều nạn nhân nghèo và thuộc cộng đồng thiểu số than phiền rằng cảnh sát và công tố viên địa phương không liên lạc hay hỗ trợ gì cho họ. Nhiều người không được tham gia vào cuộc bàn thảo liệu trong trường hợp rất riêng này thương lượng nhận tội có chấp nhận được hay không, hay mức án nào là thích đáng. Nếu gia đình bạn có người thân bị giết hại hoặc bạn là nạn nhân của một vụ cưỡng hiếp hoặc hành hung nghiêm trọng, tình cảnh của bạn sẽ bị phớt lờ nếu bạn đồng thời cũng có người thân đang bị tù tội. Việc mở rộng quyền nạn nhân cuối cùng đã hợp thức hóa một thực tế vẫn luôn tồn tại: Có một số nạn nhân được tôn trọng và bảo vệ hơn những nạn nhân khác.

Trên tất cả, điều khiến Mozelle và Onzelle tuyệt vọng là sự thờ ơ của cảnh sát, công tố viên và các hội đoàn hỗ trợ nạn nhân. “Các anh là những người đầu tiên tới nhà chúng tôi, nghe chúng tôi nói về Vickie,” Onzelle nói. Sau gần ba giờ đồng hồ nghe các bà dốc tâm can, chúng tôi hứa sẽ cố gắng hết sức để tìm ra những kẻ có liên can khác trong cái chết của cháu gái họ.

Cuối cùng chúng tôi đã đi tới chỗ nếu không được tiếp cận với các biên bản và hồ sơ cảnh sát, chúng tôi sẽ không thể tiến thêm được nữa. Do vụ án đang trong thời gian chờ xét kháng cáo trực tiếp, nên nhà nước không có nghĩa vụ phải cho chúng tôi xem những biên bản và hồ sơ đó. Vì vậy, chúng tôi quyết định gửi một kiến nghị theo Điều lệ 32, kiến nghị này sẽ đưa chúng tôi trở lại tòa sơ thẩm với cơ hội trình bày những bằng chứng mới và thu thập những phát hiện mới, bao gồm cả cơ hội tiếp cận hồ sơ của phía nhà nước.

Kiến nghị theo Điều lệ 32 phải nêu ra những tuyên bố chưa được nêu hoặc đã không thể nêu trong phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Nó là phương tiện để phản bác một bản án vì lý do biện hộ không hiệu quả, công tố không tiết lộ chứng cứ, và quan trọng hơn cả, vì có chứng cứ mới cho thấy sự vô tội. Michael và tôi cùng viết kiến nghị khẳng định tất cả những tuyên bố này, bao gồm cả các sai phạm tố tụng lẫn sai phạm của phía cảnh sát, rồi gửi lên Tòa Sơ thẩm hạt Monroe.

Bản kiến nghị tuyên bố Walter McMillian không được xét xử công bằng, bị kết tội oan và kết án bất hợp pháp đã thu hút sự chú ý to lớn ở Monroeville. Đã ba năm trôi qua kể từ phiên tòa sơ thẩm xử McMillian. Việc tòa tuyên y án đối với Walter đã được báo chí địa phương đưa tin sôi nổi, và đa số mọi người cảm thấy không còn gì phải bàn cãi về tội trạng của Walter nữa. Tất cả những gì cần làm là chờ ngày thi hành án. Thẩm phán Key đã nghỉ hưu, và không ai trong số các thẩm phán mới của hạt Monroe tỏ vẻ muốn động tới kiến nghị của chúng tôi, vì vậy kiến nghị được gửi trả về hạt Baldwin với lý do đơn kháng cáo sau khi kết án phải được xử lý tại hạt diễn ra phiên tòa sơ thẩm. Chúng tôi thấy điều này thật vô lý vì chủ tọa phiên tòa này là một thẩm phán của hạt Monroe, nhưng chúng tôi chẳng thể làm được gì.

Không ngờ được là Tòa án Tối cao Alabama đã đồng ý hoãn quy trình kháng cáo trực tiếp trong vụ án của chúng tôi, để đơn kiến nghị dựa trên Điều lệ 32 được tiến hành trước. Thông thường, hồ sơ kháng cáo trực tiếp phải được hoàn tất, thì mới có thể mở hồ sơ kháng cáo bổ sung hậu kết án, dựa trên Điều lệ 32. Qua việc hoãn đơn kháng cáo trực tiếp, Tòa án Tối cao Alabama đã đưa ra dấu hiệu cho thấy họ tin rằng vụ án của Walter có một số điểm bất thường, khiến cho quá trình tố tụng tại tòa sơ thẩm cần phải được thẩm định lại. Thế nên, thẩm phán Tòa Sơ thẩm Hạt Baldwin giờ đây buộc phải thẩm định lại toàn bộ vụ án Walter và rất có thể phải chấp thuận những đơn kiến nghị đòi cung cấp bằng chứng của chúng tôi. Điều này đồng nghĩa với việc toàn bộ hồ sơ điều tra của cảnh sát, và cả hồ sơ của bên công tố phải được chuyển qua cho chúng tôi xem xét. Đây quả là một tiến triển tích cực cho vụ án.

Chúng tôi phải gặp lại công tố viên Tommy Chapman, tuy nhiên lần này, chúng tôi sẽ có thêm trát tòa cho phép lật lại các hồ sơ tố tụng và hồ sơ cảnh sát. Vậy là, cuối cùng chúng tôi cũng gặp trực tiếp các nhà chấp pháp có liên quan đến quá trình truy tố Walter: điều tra viên của công tố bang - Larry Ikner; nhân viên ABI - Simon Benson; và cảnh sát trưởng Tom Tate.

Chapman đề nghị chúng tôi tới văn phòng của ông ta ở tòa án hạt Monroe để cùng nhau rà soát toàn bộ hồ sơ. Chúng tôi đồng ý. Khi chúng tôi tới, tất cả bọn họ đã ở đó. Tate là một người đàn ông da trắng cao lớn, ông ta xuất hiện trong chiếc áo sơ mi sáng màu, quần jean và đôi bốt cao. Ikner là một tay da trắng khác tuổi ngoài bốn mươi, ăn mặc tương tự. Không ai trong số họ cười nhiều - họ chào Michael và tôi với sự tò mò xen lẫn bối rối mà tôi đã quá quen. Họ biết chúng tôi đang cáo buộc họ mắc sai phạm, nhưng vẫn tỏ ra lịch sự. Có lúc Tate nói với Michael rằng lão biết cậu là “dân miền Bắc” khi vừa mới gặp.

Michael mỉm cười trả lời, “Vâng, đúng vậy, tôi là sư tử núi Nittany”.

Câu đùa rơi tõm giữa căn phòng im ắng.

Không nao núng, Michael nói tiếp, “Tôi học đại học Penn State. Linh vật của Penn State là...”

“Chúng tôi đã đá đít các cậu hồi năm 78.” Tate tuyên bố như thể lão vừa trúng xổ số. Penn State và Đại học Alabama đã là đối thủ của nhau trong những trận cầu thập niên 1970 khi cả hai trường đều có những chương trình danh tiếng và những huấn luyện viên huyền thoại, Bear Bryant của Alabama, và Joe Paterno của Penn State. Alabama đã đánh bại đội cầu hạng nhất của Penn State với tỷ số 14-7 để giành ngôi vô địch quốc gia năm 1978.

Say mê các trận cầu ở khối trường đại học và là người hâm mộ “JoePa”, Michael nhìn tôi như thể cậu muốn xin phép được ăn nói táo bạo một chút. Tôi nhìn cậu cảnh báo, và may là cậu hiểu ý.

“Johnny D trả các anh bao nhiêu?” Tate hỏi, sử dụng biệt danh mà bạn bè và gia đình dùng để gọi Walter.

“Chúng tôi làm việc cho một tổ chức phi lợi nhuận. Chúng tôi không thu của thân chủ bất cứ loại phí nào.” Tôi nói bình thản và lịch sự hết mức có thể.

“Thôi nào, đằng nào mà các anh chẳng phải kiếm tiền từ đâu đó thì mới làm công việc này.”

Tôi quyết định phớt lờ và tiếp tục công việc.

“Tôi nghĩ chúng ta nên ký văn bản gì đó để xác nhận rằng đây là tất cả tài liệu các ông có về vụ án này. Chúng ta có thể kê khai những tài liệu mà các ông giao cho chúng tôi rồi tất cả cùng ký vào không?”

“Chúng ta không phải làm nhiều thủ tục thế đâu, anh Bryan. Những vị này đều là người của tòa, cũng như anh và tôi. Anh cứ lấy các giấy tờ là được rồi.” Chapman nói, rõ ràng ông ta cảm thấy lời đề nghị của tôi đã làm Tate và Ikner khó chịu.

“À vâng, có thể có những tài liệu vô tình bị sót hoặc thất lạc. Tôi chỉ muốn bảo đảm rằng chúng tôi đã nhận được đúng những tài liệu mà các ông giao - cùng số trang, cùng tựa đề, vân vân. Tôi không nghi ngờ về sự trung thực của mọi người đâu.”

“Không nghi ngờ cái khỉ ấy.” Tate nói thẳng toẹt. Lão nhìn Chapman. “Chúng ta có thể ký giấy gì đó để xác nhận những tài liệu chúng ta cung cấp. Tôi nghĩ chúng ta có lẽ sẽ cần đến nó hơn cả anh ta đấy.”

Chapman gật đầu. Chúng tôi nhận tài liệu và rời Monroeville trong tâm trạng háo hức trước viễn cảnh về những gì chúng tôi có thể sẽ tìm thấy trong hàng trăm trang bút lục. Trở lại Montgomery, chúng tôi háo hức đọc không chỉ những tài liệu của cảnh sát và công tố viên. Nhờ có trát tòa tạo điều kiện điều tra, chúng tôi cũng thu thập được hồ sơ ở Taylor Hardin, trung tâm điều trị sức khỏe tâm thần nơi Myers đã bị gửi tới sau lần đầu tiên y từ chối ra làm chứng. Chúng tôi cũng nhận được hồ sơ của ABI từ Simon Benson, nhân viên da đen duy nhất của ABI ở Nam Alabama như anh ta hãnh diện giới thiệu với chúng tôi. Chúng tôi lấy được hồ sơ của Sở Cảnh sát thành phố Monroeville và các giấy tờ khác của thành phố. Chúng tôi thậm chí còn lấy được cả hồ sơ của hạt Escambia và tang chứng của vụ sát hại Vickie Pittman. Những tài liệu này thật đáng kinh ngạc.

Có thể chúng tôi đã bị tác động bởi nỗi đau của Mozelle và Onzelle, hoặc bị cuốn hút bởi thuyết âm mưu mà Ralph Myers dày công xây dựng, nhưng chúng tôi mau chóng đặt câu hỏi về một số quan chức thực thi pháp luật khi tên của họ liên tục xuất hiện xung quanh vụ sát hại Pittman. Chúng tôi thậm chí còn quyết định nói chuyện với FBI về một số điểm chúng tôi tìm ra.

Không lâu sau đó, những lời đe dọa đánh bom bắt đầu.