Chương tám NHỮNG ĐỨA CON CỦA CHÚA
Những giọt lệ không rơi
Hãy tưởng tượng những giọt lệ không thể rơi
Vì những nỗi đau chôn giấu
Chúng chờ đợi trốn thoát
Khỏi cửa sổ - đôi mắt tôi
“Sao ngươi không thả chúng ta ra?”
Những giọt lệ cật vấn lương tâm
“Cứ buông đi sợ hãi và nghi ngờ
Rồi ngươi sẽ chữa lành được chính mình.”
Lương tâm bảo những giọt lệ
“Ta biết các người thật lòng muốn ta khóc
Nhưng nếu ta thả các người khỏi nhà tù này,
Các người sẽ chết trên đường tối tự do.”
Những giọt lệ ngẫm ngợi
Rồi đáp lời lương tâm
“Nếu khóc mà đến được bờ vui
Thì cái chết cũng có hề gì.”
IAN E. MANUEL, Trung tâm Cải huấn Liên minh
Trina Garnett là người nhỏ tuổi nhất trong số mười hai đứa trẻ sống ở khu phố nghèo nhất của Chester, Pennsylvania, một khu dân cư nghèo khó nằm ở ngoại vi Philadelphia. Tỷ lệ đói nghèo, tội phạm và thất nghiệp cao ngất ngưỡng [1] của Chester đi cùng với hệ thống trường công xếp hạng bét trong số 501 quận của Pennsylvania. Gần 46% [2] trẻ em thành phố này sống dưới chuẩn nghèo liên bang.
Cha của Trina, Walter Garnett, từng là một võ sĩ đấm bốc, song sự nghiệp thất bại đã biến ông ta thành một tay nghiện rượu hung hãn mà cảnh sát địa phương không ai là không biết tiếng vì ông ta sẵn sàng gây gổ chỉ sau vài lời khích bác không đâu. Mẹ Trina, Edith Garnett, thì đau ốm luôn vì sinh đẻ quá nhiều, trong đó một số được sinh ra do những lần bà bị chồng hãm hiếp. Càng già yếu, Edith càng trở thành đối tượng cho những cơn thịnh nộ của Walter. Lão thường xuyên đấm, đá và mắng chửi vợ trước mặt các con. Walter cũng thường giở trò hành hung dã man, lão lột quần áo vợ và đánh bà cho tới khi bà quằn quại trên sàn trước ánh mắt kinh hãi của lũ trẻ. Nếu bà bất tỉnh, Walter sẽ lấy que chọc chọc vào cổ họng bà để bà tỉnh lại rồi đánh tiếp. Không có gì là an toàn ở gia đình Garnett. Trina từng thấy cha siết cổ chú chó cưng của cô vì nó cứ sủa ầm ĩ không ngừng. Lão dùng búa đập chết con vật tội nghiệp rồi ném cái xác mềm rũ của nó ra ngoài cửa sổ.
Trina có hai người chị sinh đôi hơn cô một tuổi, tên là Lynn và Lynda. Hồi cô còn nhỏ, họ dạy cô chơi trò “tàng hình” để cô có thể tự bảo vệ mình khỏi người cha khi lão say rượu, đi lảng vảng trong nhà với chiếc thắt lưng trong tay, lột trần lũ trẻ và đánh chúng tùy hứng. Trina được dạy trốn dưới gầm giường hoặc trong tủ và giữ im lặng hết sức có thể.
Từ bé, Trina đã có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, và cô cũng gặp nhiều vấn đề khác. Khi mới chập chững biết đi, cô bị ốm một trận thập tử nhất sinh do uống phải ga bật lửa lúc người lớn không để ý. Lúc năm tuổi, cô làm vùng ngực, bụng và lưng mình bị bỏng nặng do nghịch lửa. Cô trải qua những cuộc phẫu thuật ghép da đau đớn kéo dài hàng tuần liền trong bệnh viện, khiến cả người cô chi chít sẹo.
Mẹ mất khi Trina mới chín tuổi. Các chị lớn cố gắng chăm sóc Trina, nhưng khi Walter giở trò xâm hại tình dục với chính con mình, họ bỏ trốn. Sau khi các chị lớn bỏ nhà đi, Trina, Lynn và Lynda trở thành nạn nhân của Walter. Các cô gái trốn khỏi nhà và bắt đầu lang thang trên các con phố Chester. Trina và các chị ăn thức ăn bới từ thùng rác, có những khi ba chị em phải nhịn đói nhiều ngày liền. Họ ngủ trong công viên và nhà vệ sinh công cộng. Rồi các cô bé về ở cùng người chị Edy cho tới khi chồng Edy bắt đầu quấy rối họ. Các chị lớn và các dì thỉnh thoảng cho ba chị em nương nhờ, nhưng cuộc sống của họ thường xuyên bị gián đoạn bởi bạo lực hoặc cái chết, và sau mỗi lần như vậy, Trina lại phải lang thang ngoài đường.
Cái chết của mẹ, sự lạm dụng của cha, và nhiều nỗi tuyệt vọng làm các vấn đề sức khỏe tâm thần và cảm xúc của Trina thêm trầm trọng. Đôi khi cô quẫn trí và suy sụp đến nỗi các chị lớn phải nhờ một người họ hàng đưa cô tới bệnh viện. Không một xu dính túi, cô chẳng bao giờ được nằm viện đủ lâu để có thể ổn định sức khỏe và hồi phục hẳn.
Một đêm tháng Tám năm 1976, Trina, lúc đó mười bốn tuổi, và cô bạn mười sáu tuổi Francis Newsome, trèo vào cửa sổ một ngôi nhà ở Chester. Hai cô bé muốn nói chuyện với mấy cậu con trai nhà đó. Mẹ của các cậu đã cấm con mình chơi với Trina, nhưng Trina muốn gặp họ. Sau khi trèo vào trong nhà, Trina quẹt diêm để tìm lối đi tới phòng mấy cậu bạn. Ngôi nhà bắt lửa. Lửa lan rất nhanh, hai cậu bé đang say ngủ chết vì ngạt khói. Mẹ các cậu buộc tội Trina cố tình đốt nhà, nhưng Trina và cô bạn quả quyết rằng đó chỉ là một tai nạn.
Quá sốc trước cái chết của các bạn, Trina không thể nói được gì lúc bị cảnh sát bắt. Cô đờ đẫn đến nỗi luật sư bào chữa nghĩ rằng cô không đủ năng lực để hầu tòa. Những bị cáo không đủ năng lực hầu tòa [3] sẽ không bị xét xử theo thủ tục tố tụng hình sự đối kháng thông thường - nói cách khác, Nhà nước không thể truy tố một người trừ khi người đó đủ sức khỏe để tự bào chữa cho mình. Người bị buộc tội hình sự sắp hầu tòa có quyền được điều trị và thụ hưởng các dịch vụ hỗ trợ. Tuy nhiên, luật sư của Trina đã không gửi kiến nghị phù hợp hoặc trình bày chứng cứ để Trina được công nhận là không đủ năng lực. Luật sư này cũng không hề phản bác khi Nhà nước quyết định xét xử Trina như người trưởng thành (về sau ông này bị rút giấy phép và phải ngồi tù vì một sai phạm hình sự không liên quan). Vì vậy, Trina buộc phải hầu tòa vì tội giết người cấp độ 2 trong một tòa án dành cho người thành niên. Tại tòa, Francis Newsome làm chứng chống lại Trina để đổi lấy việc được thoát tội. Trina bị buộc tội giết người cấp độ 2, và phiên tòa chuyển sang phần tuyên án.
Thẩm phán tòa sơ thẩm hạt Delaware Howard Reed hiểu rằng Trina không cố ý giết người. Tuy nhiên, theo luật Pennsylvania, thẩm phán không thể xem xét tình tiết hành vi của bị cáo là vô ý khi quyết định bản án. Ông không thể chiếu cố độ tuổi, chứng bệnh tâm thần và hoàn cảnh khó khăn của Trina, sự đối xử tàn tệ mà cô phải hứng chịu, hay những bối cảnh bi kịch xoay quanh vụ hỏa hoạn. Luật kết án của bang Pennsylvania rất nghiêm ngặt [4] : Chỉ có một mức án duy nhất cho những người bị kết tội giết người cấp độ 2 - tù chung thân không ân xá. Thẩm phán Reed vô cùng lo ngại về mức án mà ông buộc phải áp dụng. “Đây là vụ việc đau lòng nhất mà tôi từng gặp phải [5] ,” ông viết. Vậy là vì một sai lầm bi kịch ở tuổi mười bốn [6] , Trina bị kết án tù chung thân.
Sau khi bị kết án, Trina lập tức được chuyển tới một nhà tù dành cho phụ nữ thành niên. Ở tuổi mười sáu, cô bước qua những cánh cổng của Trại Cải huấn tiểu bang ở Muncy, một nhà tù dành cho tù nhân nữ, trong tình trạng hoảng loạn, sang chấn tâm lý và cực kỳ dễ bị tổn thương khi biết rằng cô sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi đây. Nhà tù giúp Trina thoát khỏi sự bấp bênh của cuộc sống vô gia cư, nhưng lại gây ra cho cô những hiểm nguy và khó khăn mới. Không lâu sau khi cô tới Muncy, một cán bộ cải huấn nam đã kéo cô vào chỗ vắng cưỡng hiếp.
Vụ việc vỡ lỡ khi Trina mang thai. Như thường lệ, tay cán bộ bị sa thải nhưng không bị truy tố hình sự. Trina vẫn ở tù, và cô sinh hạ được một bé trai. Giống như hàng trăm phụ nữ sinh con trong tù, Trina hoàn toàn không được chuẩn bị cho sự gian khó của ca sinh nở. Cô lâm bồn trong tình trạng tay bị còng vào giường. Mãi tới năm 2008 [7] , phần lớn các bang mới bãi bỏ thực hành xích hoặc còng tay nữ tù nhân trong lúc họ sinh con.
Con trai của Trina bị tách mẹ và được gửi tới trại trẻ mồ côi. Sau hàng loạt biến cố - vụ hỏa hoạn, nhà tù, vụ cưỡng hiếp, những đau đớn lúc sinh nở, và rồi con trai bị cướp mất - sức khỏe tâm thần của Trina ngày càng xấu đi. Qua năm tháng, năng lực hoạt động của cô mỗi lúc một kém hơn trong khi bệnh tâm thần càng ngày càng thêm trầm trọng. Người cô bắt đầu bị co giật và run rẩy không kiểm soát được, tới mức cô phải dùng đến gậy, rồi xe lăn. Khi cô bước sang tuổi ba mươi, các bác sĩ của nhà tù chẩn đoán cô mắc bệnh đa xơ cứng, khuyết tật trí tuệ và bệnh tâm thần do sang chấn.
Trina đệ đơn kiện tay cán bộ đã hãm hiếp cô, và bồi thẩm đoàn xử cho cô được bồi thường 62.000 đô-la. Tay cán bộ kháng cáo [8] , và tòa đảo ngược bản án với lý do anh ta đã không được phép nói với bồi thẩm đoàn rằng Trina đang bị tù giam vì tội giết người. Vì vậy, Trina không được nhận bất cứ hỗ trợ tài chính hay dịch vụ nào từ nhà nước để bồi thường cho việc cô bị một cán bộ “cải huấn” cưỡng hiếp dã man.
Năm 2014, Trina bước sang tuổi năm mươi hai. Chị đã ở tù được ba mươi tám năm. Chị là một trong gần 500 người [9] ở Pennsylvania bị kết án tù chung thân không ân xá vì những tội danh bị cáo buộc khi ở độ tuổi 13 đến 17. Chẳng có nơi nào khác trên thế giới lại có nhiều tội phạm trẻ em bị kết án chung thân đến thế.
Năm 1990, Ian Manuel và hai cậu bé lớn tuổi hơn chủ mưu cướp tiền của một cặp vợ chồng đang đi ăn tối ở Tampa, Florida. Ian lúc đó mười ba tuổi. Khi Debbie Baigre chống trả, Ian bắn cô bằng một khẩu súng ngắn mà hai cậu kia đưa cho. Viên đạn đâm xuyên qua má Baigre, làm vỡ mấy chiếc răng và khiến quai hàm của cô bị phá hỏng nghiêm trọng. Cả ba cậu bị bắt giữ và buộc tội cướp có vũ khí và cố sát.
Luật sư chỉ định của Ian động viên cậu nhận tội, cam đoan rằng cậu sẽ chỉ bị kết án mười lăm năm tù. Luật sư không nhận thấy rằng hai trong số các cáo buộc đối với Ian có thể bị trừng phạt với mức án chung thân không ân xá. Thẩm phán chấp nhận lời nhận tội của Ian và tuyên mức án cao nhất. Mặc dù Ian chỉ mới mười ba tuổi, thẩm phán vẫn kết tội Ian vì cậu sống lang thang nơi hè phố, không được bố mẹ giám sát tử tế, và từng bị bắt nhiều lần vì trộm cắp. Ian bị tống vào một nhà tù dành cho người thành niên - Trại Cải huấn Apalachee, một trong những nhà tù khắc nghiệt nhất bang Florida. Các cán bộ cải huấn ở trung tâm xử lý của nhà tù [10] không kiếm được bộ đồng phục nào vừa với khổ người Ian, họ buộc phải cắt đi mười lăm phân từ đũng chiếc quần nhỏ nhất mà họ tìm được. Trẻ vị thành niên bị giam trong các nhà tù dành cho người trưởng thành [11] có nguy cơ bị tấn công tình dục cao gấp năm lần bình thường, vì vậy các cán bộ ở Apalachee giam Ian, một cậu bé nhỏ con hơn so với tuổi, vào buồng biệt giam.
Buồng biệt giam ở Apalachee nghĩa là buồng bê tông bé bằng cỡ chiếc tủ quần áo. Bạn phải nhận thức ăn qua một khe hẹp, bạn không nhìn thấy các tù nhân khác, và bạn không bao giờ được chạm vào hay tới gần một người khác. Nếu bạn “chống đối” bằng cách nói hỗn hoặc từ chối tuân lệnh cán bộ cải huấn, bạn sẽ phải ngủ không chăn nệm trên sàn bê tông. Nếu bạn la hét, thời gian biệt giam sẽ kéo dài thêm; nếu bạn làm gì tổn hại đến bản thân như tuyệt thực hay tự cứa vào người, thời gian biệt giam sẽ kéo dài thêm; nếu bạn kêu ca với các cán bộ hoặc nói bất cứ điều gì không phù hợp hay mang tính uy hiếp, thời gian biệt giam sẽ kéo dài thêm. Bạn được tắm ba lần một tuần, và vài lần trong tuần bạn được ra tập thể dục bốn mươi lăm phút trong một khu vực bé như cái cũi. Ngoài ra, bạn phải sống đơn độc, ẩn mình trong một cái buồng bê tông, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác.
Ở buồng biệt giam, Ian bắt đầu thích tự cứa mình; cậu có thể lấy bất cứ vật gì có cạnh sắc trong khay thức ăn để cứa cổ tay và cánh tay chỉ để xem mình chảy máu. Sức khỏe tâm thần của cậu suy yếu, cậu đã cố tự tử mấy lần. Mỗi lần cậu tự làm đau mình hoặc có thái độ chống đối, thời gian biệt giam của cậu lại tăng lên.
Ian sống trong buồng biệt giam mười tám năm liên tục.
Mỗi tháng cậu được phép gọi điện thoại một lần. Không lâu sau khi vào trại, đêm Giáng sinh năm 1992, cậu gọi điện cho Debbie Baigre, người phụ nữ mà cậu đã bắn. Khi cô nhấc máy, Ian cất lên lời xin lỗi đầy cảm xúc, thể hiện sự hối hận và tiếc nuối sâu sắc. Baigre sửng sốt trước cuộc gọi từ chính thằng nhóc đã bắn cô, nhưng cuộc gọi của cậu cũng làm cô rất xúc động. Sức khỏe đã hồi phục từ sau vụ nổ súng, cô đang nỗ lực để trở thành một vận động viên thể hình thành công và đã cho ra đời một tạp chí về sức khỏe phụ nữ. Cô là một phụ nữ rắn rỏi, quyết không để tai nạn năm nào làm chệch hướng con đường sự nghiệp của mình. Cuộc điện thoại bất ngờ đầu tiên đó dẫn đến mối liên lạc thường xuyên. Ian đã bị gia đình bỏ mặc từ trước khi phạm tội. Cậu lang thang nơi hè phố mà không có sự quan tâm của bố mẹ và gia đình. Bị biệt giam, cậu cũng hiếm khi có cơ hội gặp các tù nhân khác hoặc cán bộ cải huấn. Khi cậu chìm sâu vào tuyệt vọng [12] , Debbie Baigre trở thành một trong số ít những người trong cuộc đời động viên Ian tiếp tục sống mạnh mẽ.
Sau vài năm nói chuyện qua lại với Ian, Baigre gửi thư tới tòa án và nói với vị thẩm phán đã kết án Ian rằng bản án dành cho cậu là quá nặng, và rằng điều kiện giam giữ của cậu rất vô nhân đạo. Cô cố gắng nói chuyện với các nhà chức trách và trả lời phỏng vấn báo chí để thu hút sự chú ý tới hoàn cảnh của Ian. “Không ai biết rõ hơn tôi về cả sự hủy hoại lẫn sự điên rồ mà tội lỗi của Ian gây ra. Nhưng những gì chúng ta đang làm với cậu ấy là hèn hạ và vô trách nhiệm,” cô nói với một phóng viên. “Khi gây ra tội ác này, cậu ấy là một đứa trẻ, một cậu nhóc mười ba tuổi đang gặp phải rất nhiều vấn đề, không ai giám sát, không ai giúp đỡ. Còn chúng ta không phải là trẻ con.”
Tòa án phớt lờ lời kêu gọi giảm án cho Ian của Debbie Baigre.
Tới năm 2010 [13] , bang Florida đã kết án tù chung thân không ân xá cho hơn 100 trẻ em vì những tội không gây chết người, trong đó một số em mới chỉ mười ba tuổi [14] vào thời điểm phạm tội. Tất cả những bị cáo nhỏ tuổi nhất trong số ấy [15] , những em ở độ tuổi mười ba, mười bốn, đều là trẻ da đen hoặc gốc Latin. Không đâu trên thế giới [16] có số lượng trẻ em bị kết án tù chung thân vì những tội không gây chết người cao như Florida.
Vùng Nam Trung Los Angeles nơi Antonio Nuñez sống bị bủa vây trong vòng xoáy bạo lực băng đảng. Mẹ Antonio thường bắt các con nằm bẹp xuống sàn khi có tiếng súng nổ bên ngoài căn nhà chật chội của họ, và việc đó xảy ra đều đặn đến đáng sợ. Láng giềng của họ có khoảng chục người đã bị bắn chết khi mắc kẹt giữa những cuộc đụng độ bạo lực bằng súng.
Những hiểm nguy bên ngoài ngôi nhà của Antonio lại được cộng thêm bạo lực gia đình nghiêm trọng. Từ khi còn đóng bỉm, Antonio đã phải hứng chịu những trận đòn ác nghiệt của cha, lão đánh cậu bằng bàn tay, nắm đấm, dây lưng, dây điện đến mức người cậu bầm tím, rách thịt; cậu cũng chứng kiến những trận cãi vã kinh hoàng của cha mẹ, họ đánh nhau dữ dội và dọa giết nhau. Tình trạng bạo lực tệ đến nỗi đã vài lần Antonio phải gọi cảnh sát. Hàng đêm, cậu tỉnh dậy và la hét vì những cơn ác mộng khủng khiếp. Mẹ Antonio chán nản và bỏ mặc cậu; kể cả khi cậu khóc, bà cũng phớt lờ. Sự kiện duy nhất của Antonio mà bà nhớ mình từng tham dự là lễ tốt nghiệp một chương trình giáo dục về phòng chống ma túy của cậu ở trường tiểu học.
“Nó rất khoái chí khi được chụp ảnh [17] với cảnh sát,” về sau bà kể lại. “Nó muốn lớn lên sẽ trở thành cảnh sát.”
Tháng Chín năm 1999, một tháng sau khi bước sang tuổi mười ba, một kẻ lạ mặt đã bắn Antonio Nuñez khi cậu đang đạp xe về gần tới nhà, đạn găm vào bụng, mạng sườn và cánh tay Antonio. Antonio ngã gục xuống đường. Nghe thấy tiếng thét của em, cậu anh trai José mười bốn tuổi lao tới. José bị bắn vào đầu và tử vong ngay khi định cứu em. Antonio phải nằm viện nhiều tuần liền vì nội tạng bị tổn thương nghiêm trọng.
Khi Antonio xuất viện, mẹ cậu gửi cậu tới sống nhờ một người họ hàng ở Las Vegas, ở đây cậu cố gắng bình tâm lại sau cái chết bi kịch của anh José. Antonio thấy nhẹ nhõm vì thoát được những hiểm nguy của vùng Nam Trung Los Angeles. Cậu tránh xa những chuyện rắc rối, học hành chăm chỉ, và ngoan ngoãn ở nhà, tối tối cậu ngồi làm bài tập với sự giúp đỡ của chồng người chị họ. Cậu bỏ lại phía sau chuyện băng đảng và bạo lực nơi quê nhà và có những tiến bộ rõ rệt. Nhưng chưa đầy một năm, các cán bộ quản chế bang California lệnh cho cậu phải trở về Los Angeles với lý do cậu vẫn đang trong thời kỳ quản chế sau khi bị tòa án đưa vào diện trẻ em cần được giám sát vì một tội cậu gây ra trước đó.
Tại các thị trấn nghèo trên khắp nước Mỹ, các cậu bé da màu thường xuyên gặp rắc rối với cảnh sát. Mặc dù chẳng làm gì sai, song nhiều em vẫn lọt vào tầm ngắm của cảnh sát và bị các nhà chấp pháp nghi ngờ là đối tượng nguy hiểm hoặc có tham gia vào các hoạt động tội phạm. Bị cảnh sát hỏi thăm, thẩm vấn và sách nhiễu bừa bãi khiến nguy cơ các em bị bắt giữ vì những tội nhỏ nhặt gia tăng đáng kể. Cùng một hành vi, song nhiều đứa trẻ sẽ phải mang lý lịch tư pháp đen trong khi những đứa trẻ con nhà giàu có hơn lại không bị truy cứu gì.
Bị buộc quay lại vùng Nam Trung Los Angeles, nơi chỉ cách chỗ người anh bị giết vài dãy phố, Antonio cảm thấy vô cùng căng thẳng. Sau này, một tòa án đã miêu tả “Phải sống cách nơi mình bị bắn và anh mình bị giết chỉ vài dãy nhà, Nuñez có triệu chứng hoảng loạn, cậu thường xuyên nhớ lại thảm kịch, có nhu cầu cấp bách được tránh xa khu vực đó, luôn cảnh giác cao độ về những mối họa có thể xảy ra, và có nhu cầu tự vệ mạnh mẽ trước những nguy hiểm có thật hoặc tưởng tượng.” Cậu tự trang bị một khẩu súng để tự vệ [18] , nhưng vì vậy mà cậu nhanh chóng bị bắt giữ và tống vào một trại cải tạo vị thành niên, tại đây các giám sát viên ghi nhận cậu tham gia chăm chỉ và có phản ứng tích cực với môi trường giáo dục và sự hướng dẫn của các cán bộ trong trại.
Sau khi ra trại, Antonio được mời tới dự một bữa tiệc, ở đó có hai thanh niên gấp đôi tuổi cậu tiết lộ rằng họ đang chuẩn bị thực hiện một vụ bắt cóc giả để moi tiền chuộc từ một người họ hàng. Họ năn nỉ Antonio tham gia cùng. Cậu bé mười bốn tuổi Antonio lên xe với hai gã thanh niên để đi lấy tiền chuộc. Nạn nhân rởm ngồi ở ghế sau, Juan Perez cầm lái, còn Antonio ngồi bên cạnh. Chưa kịp tới chỗ lấy tiền ở hạt Cam, họ phát hiện thấy mình đang bị hai gã gốc Latin bám đuôi và truy đuổi trên một chiếc xe tải màu xám. Perez và cậu kia đưa cho Antonio một khẩu súng và bảo cậu bắn vào chiếc xe tải. Một vụ xả súng tốc độ cao cực kỳ nguy hiểm nổ ra. Những người đang đuổi theo họ là cảnh sát mặc thường phục - nhưng Antonio không nhận ra điều ấy khi cậu nổ súng. Khi một chiếc xe cảnh sát tham gia vào cuộc truy đuổi, Antonio buông súng ngay trước khi xe đâm vào một gốc cây. Không ai bị thương, nhưng Antonio và Perez bị kết tội bắt cóc nghiêm trọng và cố ý sát hại cảnh sát.
Antonio và đồng phạm hai mươi bảy tuổi cùng bị xét xử trong một phiên tòa sơ thẩm, và cả hai đều bị kết tội. Theo luật California, mức án chung thân không ân xá vì tội giết người chỉ dành cho người từ mười sáu tuổi trở lên. Nhưng không có độ tuổi tối thiểu áp dụng cho tội phạm bắt cóc, vì vậy thẩm phán hạt Cam tuyên án tù chung thân đối với Antonio, khẳng định cậu là một thành viên băng đảng nguy hiểm, không bao giờ có thể thay đổi hoặc cải tạo được, bất chấp thực tế là cậu có hoàn cảnh khó khăn và không có tiền án nào nghiêm trọng. Thẩm phán chuyển cậu tới một nhà tù đông đúc, nguy hiểm dành cho người thành niên ở California. Ở tuổi mười bốn, Antonio trở thành phạm nhân trẻ nhất nước Mỹ bị kết án chung thân vì một tội không gây thương tích.
Đa số người thành niên nếu phạm những tội giống như Trina, Ian và Antonio sẽ không phải chịu mức án tù chung thân không ân xá. Trong hệ thống liên bang, những người thành niên vô tình đốt nhà-giết người, làm ít nhất một người tử vong thường nhận mức án cho phép họ được hưởng ân xá sau chừng chưa tới hai mươi lăm năm. Nhiều người trưởng thành bị kết tội cố sát [19] ở Florida chỉ ngồi tù chưa đến mười năm. Bạo lực súng không xảy ra thương tích thường dẫn đến những án tù dưới mười năm đối với các bị cáo thành niên, kể cả trong thời kỳ của những hình phạt khắc nghiệt.
Ở nhiều bang, trẻ em phạm những tội nghiêm trọng từ lâu đã phải đối mặt với nguy cơ bị truy tố và trừng phạt như người trưởng thành. Tuy nhiên với sự phát triển của hệ thống tư pháp vị thành niên ngày nay, phần lớn tội phạm trẻ em sẽ được gửi tới những trại giam riêng cho lứa tuổi này. Ở Mỹ, hệ thống tư pháp cho trẻ vị thành niên tại mỗi bang lại một khác, nhưng đa số các bang sẽ giam giữ Trina, Ian hay Antonio ở những trại giáo dưỡng cho tới khi họ bước sang tuổi 18 hoặc 21. Nếu lý lịch tư pháp hoặc hồ sơ cải tạo cho thấy họ vẫn là mối đe dọa đối với sự an toàn của cộng đồng, thì họ sẽ bị giam giữ tới năm 21 tuổi hoặc lâu hơn nữa.
Thời trước, nếu một người phạm tội lúc mười ba hoặc mười bốn tuổi, người đó sẽ chỉ bị xử lý như người thành niên với mức án nhiều năm tù nếu tội đặc biệt nghiêm trọng - hoặc tội đó là do một đứa trẻ da đen gây ra cho một người da trắng ở miền Nam. Ví dụ, trong vụ Những cậu bé Scottsboro nổi tiếng [20] những năm 1930, hai trong số các bị cáo, Roy Wright và Eugene Williams, mới chỉ mười ba tuổi khi họ bị xử oan tội hiếp dâm và bị tuyên án tử hình ở Alabama.
Trong một vụ án vị thành niên nổi tiếng khác, George Stinney, một cậu bé da đen mười bốn tuổi, đã bị bang South Carolina xử tử vào ngày 16 tháng Sáu năm 1944. Trước đó ba tháng, hai cô bé da trắng sống ở Alcolu, một thị trấn nơi các nhóm chủng tộc được ngăn cách bởi đường tàu, đi hái hoa và không bao giờ trở về nhà. Rất nhiều người trong cộng đồng đi tìm hai cô bé mất tích. George và các anh chị em của cậu cũng tham gia đoàn tìm kiếm. Trong lúc tìm kiếm, George có nói với một người da trắng trong đoàn rằng cậu và em gái đã trông thấy các cô bé sớm hôm đó. Các cô lại gần khi họ đang chơi ngoài cửa để hỏi chỗ hái hoa.
Ngày hôm sau, thi thể hai cô bé được tìm thấy dưới một cái mương cạn. George lập tức bị bắt giữ vì cậu thừa nhận đã gặp các cô bé trước khi họ biến mất và là người cuối cùng nhìn thấy họ còn sống. Cậu bị thẩm vấn hàng giờ liền mà không có mặt cha mẹ hoặc luật sư. Cơn thịnh nộ có thể hiểu được về cái chết của các cô bé bùng nổ khi người ta truyền tai nhau rằng một thằng nhóc da đen đã bị bắt giữ vì tội giết người. Cảnh sát trưởng tuyên bố George đã nhận tội, mặc dù không một lời khai bằng văn bản có chữ ký nào được đưa ra. Cha của George lập tức bị đuổi việc; gia đình cậu bị dọa hành hình tập thể nếu không rời khỏi thị trấn. Sợ mất mạng, gia đình George trốn khỏi thị trấn ngay khuya hôm đó, bỏ George ở lại một mình trong tù. Chỉ trong vòng vài giờ sau khi lời thú tội được công bố [21] , một đám đông đã tụ tập trước trại giam Alcolu đòi hành hình George, nhưng người ta đã chuyển cậu bé mười bốn tuổi tới một trại giam ở Charleston.
Một tháng sau, phiên tòa diễn ra. Đối mặt với cáo buộc giết người cấp độ 1, George ngồi đơn độc trước một đám đông khoảng 1.500 người da trắng chen chúc trong phòng xử và vây quanh tòa án. Không một người Mỹ gốc Phi nào được phép vào trong. Luật sư chỉ định của George, một luật sư da trắng chuyên về luật thuế nhưng có tham vọng chính trị, không triệu tập bất kỳ một nhân chứng nào. Bằng chứng duy nhất là tuyên bố của cảnh sát trưởng về lời nhận tội của George. Phiên xử kết thúc sau vài giờ. Bồi thẩm đoàn toàn người da trắng dành mười phút hội ý trước khi kết tội George cưỡng hiếp và giết người. Thẩm phán Stoll lập tức tuyên án tử hình đối với cậu bé mười bốn tuổi. Luật sư của George thông báo phía bị cáo sẽ không kháng cáo vì gia đình không có tiền chi trả.
Bất chấp những lá đơn kháng cáo của NAACP [22] cùng yêu cầu của một mục sư da đen đòi giảm án cho George xuống mức tù chung thân, Thống đốc Olin Johnston vẫn từ chối can thiệp, và George bị chuyển tới Columbia để chờ chết trên chiếc ghế điện của bang South Carolina. Nhỏ bé so với tuổi, cậu bé Stinney cao hơn mét rưỡi, nặng hơn bốn mươi cân đã bước tới chiếc ghế điện với một quyển Kinh thánh trong tay. Cậu phải ngồi lên quyển Kinh thánh vì nhân viên nhà tù không thể lắp các điện cực vào khung người nhỏ bé của cậu. Đơn độc trong phòng xử tử mà không có gia đình hay bất cứ người da đen nào ở bên, cậu bé sợ hãi ngồi trên chiếc ghế điện quá khổ. Cậu hoảng loạn nhìn khắp phòng để cầu cứu nhưng chỉ thấy các cán bộ chấp pháp và phóng viên. Chiếc mặt nạ cỡ người lớn trượt xuống mặt George khi luồng điện đầu tiên chạy qua người cậu. Những người chứng kiến vụ xử tử [23] có thể thấy “đôi mắt mở to ầng ậng nước và nước dãi chảy ra từ miệng cậu.” Tám mươi mốt ngày sau khi gặp hai cô bé hỏi chỗ hái hoa, George Stinney chịu án tử. Nhiều năm sau, có tin đồn rằng một người đàn ông da trắng của một gia đình danh giá trong lúc hấp hối đã thú nhận rằng chính ông ta đã giết các cô bé. Gần đây, một nỗ lực minh oan [24] cho George Stinney đã bắt đầu được khởi động.
Vụ xử tử Stinney quá ghê sợ và đau lòng, nhưng nó phản ánh nền chính trị phân biệt chủng tộc ở miền Nam hơn là cách đối xử thường thấy đối với trẻ em bị kết tội. Nó là ví dụ cho thấy những chính sách và quy tắc nhằm kiểm soát và trừng phạt người da đen đã len lỏi vào hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta như thế nào. Tới cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, nền chính trị dựa trên nỗi sợ hãi và thù ghét bao trùm đất nước chúng ta và thúc đẩy chính sách giam giữ hàng loạt đã chuyển tầm ngắm của nó sang trẻ em.
Các nhà tội phạm học có ảnh hưởng [25] đã tiên đoán về một làn sóng “siêu tội phạm” sắp tràn đến mà hệ thống tư pháp vị thành niên sẽ không thể xử lý được. Thỉnh thoảng lại công khai chĩa mũi dùi [26] vào trẻ em da màu, các lý thuyết gia tuyên bố rằng nước Mỹ sắp bị xâm chiếm bởi “đám trẻ tiểu học mang súng thay cho bữa trưa” cũng như những đứa trẻ “không chút coi trọng tính mạng con người”. Sự hoảng loạn trước nguy cơ làn sóng tội phạm sắp tràn tới [27] từ những đứa trẻ “cực kỳ hung hãn và máu lạnh” thôi thúc hầu hết các bang thực thi những điều luật làm tăng nguy cơ trẻ em bị truy tố như người trưởng thành. Nhiều bang hạ thấp hoặc xóa bỏ độ tuổi tối thiểu để xét xử trẻ em như người trưởng thành, khiến những em dù chỉ tám tuổi cũng dễ bị truy tố và chịu những bản án vốn dành cho người thành niên.
Một số bang cũng bắt đầu áp dụng các quy tắc thuyên chuyển bắt buộc, nhờ đó các công tố viên và thẩm phán không còn phải đắn đo cân nhắc có nên giam một đứa trẻ trong trại vị thành niên hay không. Hàng chục nghìn đứa trẻ từng được giám sát bởi hệ thống tư pháp vị thành niên với các biện pháp bảo vệ chu đáo và các yêu cầu đặc biệt dành cho trẻ em, nay bị ném vào hệ thống nhà tù ngày càng chật chội và bạo lực khốn cùng của người lớn.
Lời tiên đoán về làn sóng “siêu tội phạm” đã được thực tế chứng minh là hết sức sai lầm. Từ năm 1994 tới năm 2000, dân số vị thành niên ở Mỹ gia tăng [28] nhưng tỷ lệ tội phạm vị thành niên giảm, khiến các học giả từng ủng hộ học thuyết “siêu tội phạm” phải chối bỏ nó. Năm 2001, Tổng Y sĩ Hoa Kỳ [29] công bố một báo cáo khẳng định lý thuyết “siêu tội phạm” chỉ là chuyện hoang đường, và tuyên bố “không có bằng chứng cho thấy những thanh thiếu niên dính líu tới bạo lực trong những năm cao điểm đầu thập niên 1990 là những người phạm tội thường xuyên và nghiêm trọng hơn so với lớp thanh thiếu niên những năm trước đó.” Sự thừa nhận này đến quá muộn đối với những đứa trẻ như Trina, Ian và Antonio. Một mê cung những quy định về thủ tục, thời hiệu khởi kiện và rào cản pháp lý được thiết kế với mục đích cản trở thủ tục kháng cáo hậu kết án đã chặn những phản biện pháp lý và đơn kháng cáo bản án chung thân áp lên họ.
Khi tôi gặp Trina, Ian và Antonio nhiều năm sau này, cả ba đều đã bị hủy hoại sau hàng năm trời sống trong cảnh tù đày tuyệt vọng. Họ là những đứa trẻ bị kết án một cách hợp pháp, bị giấu biệt trong những nhà tù của người trưởng thành, hoàn toàn bị lãng quên và không ai biết tới. Họ phải vật lộn để tồn tại trong một môi trường nguy hiểm khủng khiếp mà không có sự hỗ trợ của gia đình hay bất cứ ai bên ngoài. Họ không phải là những trường hợp cá biệt. Có hàng nghìn đứa trẻ giống như họ sống rải rác trong các nhà tù trên khắp nước Mỹ - những đứa trẻ bị kết án tù chung thân không ân xá hoặc các mức án khắc nghiệt khác. Sự vô danh tính của những đứa trẻ này khiến hoàn cảnh và nỗi tuyệt vọng của các em như nặng nề thêm. Tôi quyết định đại diện cho Trina, Ian và Antonio, rồi văn phòng của chúng tôi cuối cùng đã coi việc phản đối những bản án tù chung thân nhằm vào trẻ em là một trọng tâm chính của công việc. Dù vậy, chẳng khó để nhận ra những bản án cực đoan và bất công chỉ là một trong nhiều vấn đề cần giải quyết. Những đứa trẻ này đều đã bị hủy hoại và sang chấn vì hệ thống tư pháp của chúng ta.
Sức khỏe tâm thần và thể chất của Trina khiến cuộc sống trong tù của chị vô cùng khó khăn. Chị cảm kích trước sự giúp đỡ của chúng tôi và đã có những biến chuyển tích cực khi chúng tôi hứa sẽ đấu tranh giúp chị được giảm án, song chị còn nhiều nguyện vọng khác. Chị liên tục nói đến mong muốn được gặp mặt người con trai. Chị muốn biết mình không đơn độc trong thế giới này. Chúng tôi đã tìm kiếm các chị em của chị, và sắp xếp một buổi để Trina có thể gặp con trai mình. Điều đó dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho chị trên những khía cạnh mà tôi không ngờ đến.
Tôi bay tới Los Angeles và lái xe hàng trăm dặm qua những nông trang miền Trung California để gặp Antonio trong một nhà tù được bảo vệ cẩn mật, bị các băng đảng chi phối và có tình trạng bạo lực xảy ra như cơm bữa. Cậu đang cố gắng thích nghi với một thế giới nơi con người bị hủy hoại và vùi dập về mọi mặt. Đọc chữ luôn là một thách thức đối với Antonio, nhưng cậu khao khát được đi học và rất quyết tâm để hiểu cho được mặt chữ. Cậu đọc đi đọc lại một đoạn văn, tra cứu ý nghĩa của những từ không quen thuộc bằng một cuốn từ điển mà chúng tôi gửi cho cậu cho đến khi hiểu được chúng mới thôi. Chúng tôi vừa mới gửi cậu cuốn Nguồn gốc các loài của Darwin, cậu hy vọng nó sẽ giúp cậu hiểu hơn về thế giới xung quanh.
Hóa ra Ian là cậu bé rất, rất sáng dạ. Mặc dù sự thông minh và nhạy cảm làm cậu cảm thấy thời kỳ biệt giam đằng đẵng tàn khốc hơn, nhưng cậu đã cố gắng tự học, đọc hàng trăm cuốn sách, sáng tác những bài thơ và truyện ngắn thể hiện một trí tuệ phong phú và sôi nổi. Cậu gửi tôi hàng chục bức thư và bài thơ. Khi trở về văn phòng sau những chuyến công tác, tôi thường nhận được những lá thư của Ian. Thỉnh thoảng tôi tìm thấy trong lá thư một mảnh giấy nhàu nát ẩn giấu những bài thơ dịu dàng chất chứa nhiều trăn trở như “Những giọt lệ trong lòng”, “Gắn kết bằng lời”, “Phút giây khắc nghiệt”, “Lặng im”, và “Nghi lễ ngày thứ Tư”.
Chúng tôi quyết định xuất bản một báo cáo [30] để thu hút sự chú ý tới hoàn cảnh của những trẻ em Mỹ bị kết án tù chung thân. Tôi muốn chụp ảnh một số thân chủ để đem lại cho những bản án tù chung thân không ân xá nhằm vào trẻ em một khuôn mặt con người. Florida là một trong số ít bang cho phép thợ ảnh được vào bên trong nhà tù, vì vậy chúng tôi hỏi xin phép các quản giáo cho Ian ra khỏi buồng biệt giam một giờ để người thợ ảnh chúng tôi thuê có thể chụp ảnh cậu. Tôi rất mừng vì họ đồng ý và cho phép Ian gặp một thợ nhiếp ảnh từ bên ngoài. Ngay sau khi buổi chụp ảnh kết thúc, Ian viết cho tôi một lá thư.
Anh Stevenson kính mến!
Tôi hy vọng anh vẫn khỏe, và vạn sự đều tốt đẹp đối với anh. Tôi viết thư này để cảm ơn anh vì buổi chụp với người thợ nhiếp ảnh, và cũng để hỏi anh làm thế nào để tôi có được những tấm ảnh đó.
Anh biết đấy, tôi đã bị biệt giam khoảng mười bốn năm rưỡi rồi. Cảm giác giống như là hệ thống này đã chôn sống tôi, và với thế giới bên ngoài, tôi đã chết. Những bức ảnh có ý nghĩa rất lớn với tôi lúc này . Tất cả những gì tôi có là 1,75 đô-la trong tài khoản tù nhân. Nếu tôi gửi anh 1 đô-la, tôi có thể mua được bao nhiêu tấm ảnh?
Vì hứng khởi về buổi chụp ảnh hôm nay, tôi quên không kể với anh rằng hôm nay, ngày 19 tháng Sáu, là ngày sinh nhật người mẹ đã quá cố của tôi. Tôi biết chuyện này không quan trọng lắm, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thì việc này dường như thật đặc biệt và đầy ý nghĩa biểu tượng vì buổi chụp ảnh lại diễn ra đúng vào ngày sinh của mẹ tôi.
Tôi không biết làm thế nào để anh hiểu được cảm xúc của tôi và ý nghĩa của những tấm ảnh này, nhưng sự thật là tôi muốn cho cả thế giới thấy tôi vẫn còn sống! Tôi muốn nhìn ngắm những bức ảnh và cảm thấy mình đang sống! Nó sẽ giúp tôi đỡ buồn hơn nhiều. Hôm nay tôi đã rất vui suốt buổi chụp ảnh. Tôi muốn nó kéo dài mãi mãi. Mỗi lần các anh đến thăm rồi rời đi, tôi lại thấy buồn. Nhưng tôi kịp ghi nhớ và trân trọng những giây phút đó, hồi tưởng lại nó trong tâm trí, và cảm thấy trân trọng hơn mỗi liên hệ và sự tương tác giữa người với người. Hôm nay, chỉ những cái bắt tay giản dị giữa chúng ta cũng đã điểm thêm màu sắc vào cuộc sống đã mất hết cảm giác của tôi.
Xin anh cho tôi biết tôi có thể mua được bao nhiêu tấm ảnh? Tôi muốn sở hữu những bức ảnh của chính mình, cũng tha thiết gần như tôi muốn được tự do vậy.
Cảm ơn anh đã đem lại cho cuộc đời tôi thật nhiều điều tốt đẹp. Tôi không biết đích xác luật pháp đã đưa anh đến với tôi như thế nào, nhưng ơn Chúa vì sự đã như vậy. Tôi vô cùng biết ơn tất cả những điều anh và EJI đang làm cho tôi. Anh nhớ gửi tôi mấy tấm ảnh nhé?