← Quay lại trang sách

Chương chín TÔI CÓ MẶT!

Cuối cùng, ngày xử Walter McMillian cũng được ẩn định.

Giờ đây chúng tôi đã có cơ hội trình bày lời khai mới của Ralph Myers cùng tất cả những bằng chứng biện giải chưa từng được tiết lộ mà chúng tôi tìm thấy trong hồ sơ cảnh sát.

Michael và tôi đã rà soát vụ việc cả chục lần, suy nghĩ xem đâu là cách hay nhất để trình bày các bằng chứng vô tội của Walter. Mối lo ngại lớn nhất của chúng tôi là Myers, chủ yếu vì chúng tôi biết y sẽ cảm thấy cực kỳ áp lực khi bị đưa trở lại tòa án của hạt, nơi mà trước kia y từng suy sụp do áp lực. Chúng tôi tự an ủi rằng nhiều bằng chứng của chúng tôi thuộc dạng tài liệu và có thể được chấp nhận mà không cần những lời khai rối rắm và khó đoán của Myers.

Văn phòng hiện có một trợ lý luật sư, vì vậy chúng tôi rủ cô tham gia cùng. Từng là cảnh sát ở Montgomery, Brenda Lewis nhập hội với chúng tôi sau khi chứng kiến tình trạng lạm quyền vượt quá sức chịu đựng của cô ở sở. Là một phụ nữ gốc Phi, cô thể hiện năng lực ngay cả trong những môi trường nơi giới tính và chủng tộc khiến cô bị gạt ra ngoài lề. chúng tôi nhờ cô chuyện trò với các nhân chứng trước phiên tòa để rà soát lại lần cuối các chi tiết và trấn an họ.

Chapman nhờ văn phòng công tố viên tiểu bang giúp bảo vệ bản án dành cho Walter, và họ đã cử Phó Tổng chưởng lý Don Valeska, một công tố viên kỳ cựu nổi tiếng là gay gắt và hiếu chiến, tới bào chữa. Valeska là một người da trắng ở tuổi ngoại tứ tuần, vóc người tầm thước, cân đối, chứng tỏ bản thân là người ưa vận động; cặp kính làm nổi bật thêm thái độ nghiêm trang của ông ta. Người anh trai tên Doug của ông ta là một công tố viên ở hạt Houston, cả hai đều hiếu chiến và không nao núng khi truy tố “bọn xấu xa”. Michael và tôi tiếp cận Chapman một lần nữa trước phiên tòa để xem liệu chúng tôi có thể thuyết phục ông ta mở lại cuộc điều tra và xem xét lại một cách độc lập tội trạng của McMillian. Nhưng tới lúc này, Chapman và tất cả các viên chức chấp pháp đã quá mệt mỏi với chúng tôi. Họ ngày càng tỏ ra thù nghịch sau mỗi lần phải chạm trán chúng tôi. Tôi đã tính đến chuyện báo với họ về những lời đe dọa đánh bom và dọa giết nhằm vào chúng tôi bởi có khả năng chúng đến từ những người ở hạt Monroe, nhưng tôi không chắc văn phòng cảnh sát trưởng hay văn phòng công tố viên sẽ quan tâm.

Vị thẩm phán mới sẽ xét xử vụ việc, Thẩm phán Thomas B. Norton Jr., cũng đề cao cảnh giác với chúng tôi. Chúng tôi đã có một số phiên tòa tiền xét xử để trình bày các kiến nghị khác nhau, trong đó có vài lần ông trở nên bực bội trước cuộc tranh cãi giữa các bên. Chúng tôi kiên trì thu thập tất cả những hồ sơ và chứng cứ mà Nhà nước đang nắm giữ. Chúng tôi cũng tìm thấy nhiều bằng chứng biện giải chưa từng được tiết lộ đến mức chúng tôi tin rằng vẫn còn nhiều bằng chứng chưa được xới lên. Cuối cùng thẩm phán cho rằng chúng tôi đang tọc mạch sau khi chúng tôi gửi tới lời đề nghị thứ chín hoặc thứ mười đòi xem thêm hồ sơ cảnh sát và hồ sơ truy tố. Tôi ngờ rằng Thẩm phán Norton tổ chức phiên xử cuối cùng theo Điều lệ 32 một phần vì ông ta muốn tống tiễn vụ việc lôi thôi phức tạp này ra khỏi tòa án của mình.

Tại phiên chuẩn bị tiền xét xử cuối cùng, thẩm phán hỏi, “Anh sẽ cần bao lâu để trình bày bằng chứng, anh Stevenson?”

“Thưa ngài, chúng tôi cần một tuần.”

“Một tuần? Anh đùa à? Cho một phiên tòa theo Điều lệ 32? Phiên tòa cho vụ này chỉ kéo dài một ngày rưỡi thôi.”

“Thưa ngài, chúng tôi tin rằng đây là trường hợp đặc biệt, có một vài nhân chứng và...”

“Ba ngày nhé, anh Stevenson. Nếu trong ba ngày mà anh không xử lý xong cái vở tuồng mà anh bày ra, anh sẽ không có gì hết.”

“Thưa Thẩm phán, tôi...”

“Kết thúc tranh luận.”

Sau khi ở Monroeville thêm một ngày dài nữa để tìm kiếm những nhân chứng cuối cùng, Michael và tôi quay lại văn phòng bàn cách trình bày tất cả các bằng chứng trong thời gian eo hẹp mà thẩm phán cho chúng tôi. Chúng tôi cần trình bày với thẩm phán một cách chặt chẽ và dễ hiểu về sự phức tạp của vụ việc và về thực tế quyền của Walter đã bị xâm phạm trên nhiều khía cạnh. Một lo ngại khác là Myers và sở thích kể chuyện hoang đường của y, vì vậy trước phiên tòa vài ngày, chúng tôi ngồi lại cùng y và cố gắng giúp y tường thuật mạch lạc hết mức có thể.

“Đừng kể lan man về chuyện tham nhũng của cảnh sát,” tôi nói. “Hãy chỉ trả lời các câu hỏi một cách chính xác và trung thực nhé Ralph.”

“Tôi lúc nào chả vậy,” Ralph tự tin trả lời.

“Chờ đã, anh vừa nói anh lúc nào cũng vậy đúng không?” Michael hỏi. “Anh đang nói gì thế, anh lúc nào cũng trung thực á? Ralph, anh đã nói dối lè lè trong suốt phiên sơ thẩm. Đấy là điều chúng tôi sẽ trình bày trong phiên tòa này.”

“Tôi biết mà,” Myers bình thản nói. “Ý tôi là tôi luôn nói sự thật với các anh.”

“Đừng làm tôi sợ nhé Ralph. Anh cứ làm chứng thật trung thực vào,” Michael dặn.

Ralph gọi điện đến văn phòng chúng tôi hầu như hàng ngày, ba hoa bất tận về những suy nghĩ, sáng kiến và giả thuyết kỳ quặc của y. Tôi quá bận để nói chuyện với y, vì vậy Michael phải tiếp nhận hầu hết các cuộc gọi và trở nên ngày càng lo ngại về thế giới quan dị thường của Ralph. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không biết phải xử lý chuyện này như thế nào nữa.

Ngày hôm đó, chúng tôi tới tòa án thật sớm trong tâm trạng thấp thỏm. Cả hai chúng tôi đều mặc comple tối màu, sơ mi trắng và cà vạt màu nhã. Tôi luôn luôn ăn mặc nghiêm túc nhất có thể khi dự phiên tòa. Tôi là người da đen có râu quai nón, nhưng kể cả khi không có bồi thẩm đoàn, tôi vẫn cố gắng đáp ứng kỳ vọng của tòa về hình thức bên ngoài của một luật sư, vì lợi ích của các thân chủ. Đầu tiên chúng tôi tìm gặp Myers để biết chắc y đã đến nơi an toàn và có tâm lý ổn định trước khi phiên tòa bắt đầu. Các nhân viên của Sở Cảnh sát hạt Baldwin đã đưa Ralph từ nhà tù hạt St. Clair tới tòa từ đêm hôm trước. Chuyến xe kéo dài năm tiếng đồng hồ trên những con đường đêm của miền nam Alabama hẳn đã làm Ralph chộn rộn. Chúng tôi gặp y ở buồng tạm giam, trông y lo lắng thấy rõ. Tệ hơn thế, y còn im lặng và dè dặt một cách bất thường. Sau khi kết thúc cuộc gặp đáng ngại đó, tôi đi gặp Walter, anh cũng đang ở trong một buồng tạm giam của tòa án. Trở lại tòa án nơi cuộc đời mình dường như bị đóng lại bốn năm về trước làm anh không khỏi xốn xang, nhưng anh cố mỉm cười khi tôi bước vào.

“Chuyến đi có ổn không anh?” Tôi hỏi.

“Mọi việc đều tốt cả. Chỉ mong có gì đó khả quan hơn lần trước tôi ở đây.”

Tôi gật đầu đồng cảm và bàn với anh về những diễn biến mà tôi nghĩ sẽ xảy ra trong vài ngày tới.

Các buồng tạm giam nằm ở tầng hầm của tòa án, và sau cuộc gặp với Walter, tôi bước lên cầu thang để chuẩn bị sẵn sàng cho phiên tòa. Bước vào phòng xử, tôi bất ngờ trước những gì xuất hiện trước mắt. Hàng chục người từ cộng đồng - chủ yếu là những người da đen nghèo khổ - đã đứng kín khu vực dự khán. Ở cả hai phía của phòng xử, người nhà của Walter, những vị khách tham gia bữa tiệc gây quỹ vào ngày xảy ra vụ việc, những người chúng tôi đã phỏng vấn trong suốt mấy tháng qua, những người từng làm việc cùng Walter, thậm chí cả Sam Crook và bạn bè của ông ta cũng chen nhau trong phòng xử. Minnie và Armenia mỉm cười khi tôi bước vào.

Rồi Tom Chapman xuất hiện cùng Don Valeska, cả hai người quét ánh mắt khắp phòng. Biểu cảm trên mặt họ cho thấy họ không hài lòng về đám đông. Tate, Larry Ikner và Benson - nhóm cán bộ chấp pháp chịu trách nhiệm chính trong việc truy tố Walter - đứng lô nhô đằng sau các công tố viên rồi cũng ngồi xuống. Một phó cảnh sát trưởng hộ tống cha mẹ của Ronda Morrison tới ngay trước khi phiên tòa khai mạc. Khi thẩm phán yên vị, đám đông những người da đen ồn ào nhất loạt đứng lên rồi ngồi xuống. Nhiều người trong số họ ăn mặc như khi đi lễ nhà thờ. Đàn ông mặc comple, một số phụ nữ còn đội mũ. Mất mấy giây họ mới ổn định trật tự, khiến Thẩm phán Norton khó chịu. Nhưng tôi được tiếp thêm năng lượng từ sự hiện diện của họ và mừng cho Walter vì có nhiều người đến vậy đã tới ủng hộ anh.

Thẩm phán Norton là một người đàn ông da trắng hói đầu ở tuổi ngũ tuần. Ông ta không phải là người cao lớn, nhưng cái ghế cao làm ông ta trông uy nghi không kém bất kỳ vị thẩm phán nào. Khi điều hành một số phiên xử trước đó của chúng tôi, ông mặc comple, nhưng hôm nay ông mặc áo choàng, tay cầm chắc búa.

“Thưa các quý ngài, chúng ta đã sẵn sàng bắt đầu chưa?” Thẩm phán Norton hỏi.

“Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa Quý tòa,” tôi trả lời. “Nhưng chúng tôi có một đề nghị đối với một số cán bộ thực thi pháp luật hiện đang có mặt trong phòng xử. Tôi muốn áp dụng nguyên tắc cách ly.” Trong các vụ án hình sự, những người chuẩn bị ra làm chứng phải ngồi bên ngoài phòng xử để bảo đảm họ không thể thay đổi lời khai dựa trên lời khai của các nhân chứng khác.

Valeska đứng bật dậy. “Phản đối, thưa Thẩm phán, chuyện đó là không thể được. Đây là những người đã điều tra tội ác ghê tởm này, và chúng tôi cần họ ở đây để trình bày vụ việc.”

Tôi vẫn đứng yên. “Nhà nước không có trách nhiệm phải trình bày vụ việc trong thủ tục tố tụng này, thưa Quý tòa; chúng tôi mới phải làm việc đó. Đây không phải là một phiên tòa hình sự mà là một phiên xét chứng cứ hậu kết án.”

“Thưa Thẩm phán, họ đang tìm cách xét xử lại vụ việc, và chúng tôi cần người của chúng tôi ở lại đây,” Valeska phản bác.

Thẩm phán can thiệp, “Anh Stevenson, có vẻ như anh đang muốn xét xử lại vụ này, vì vậy tôi sẽ cho phép Nhà nước để các điều tra viên ở lại phòng xử.”

Đó là một khởi đầu không mấy thuận lợi. Tôi quyết định tiếp tục bằng một tuyên bố mở đầu trước khi gọi nhân chứng đầu tiên của chúng tôi là Myers. Tôi muốn thẩm phán hiểu rằng chúng tôi không đơn giản chỉ bào chữa cho McMillian từ một góc độ khác với các luật sư biện hộ trước đây. Tôi muốn ông ta biết rằng chúng tôi có những bằng chứng mới hết sức quan trọng để minh oan cho Walter, và rằng công lý đòi hỏi nhà nước phải thả anh ngay lập tức. Chúng tôi sẽ không thành công nếu thẩm phán không biết phải nghe bằng chứng như thế nào.

“Thưa Quý tòa, vụ kiện của Nhà nước chống lại Walter McMillian đã dựa hoàn toàn vào lời khai của ông Ralph Myers, người đã có một vài tiền án đại hình và một bản án giết người ở hạt Escambia vào thời điểm ông McMillian bị xét xử. Tại phiên sơ thẩm, ông McMillian đã khẳng định mình vô tội và không hề quen biết ông Myers vào thời điểm xảy ra tội ác. Ông vẫn luôn luôn khẳng định sự vô tội của mình trong suốt quá trình tố tụng.” Thẩm phán có vẻ sốt ruột và phân tâm từ khi tôi bắt đầu, vì vậy tôi ngừng lại. Kể cả nếu ông ta không đồng tình, tôi cũng muốn ông ta nghe tôi nói. Tôi im lặng cho đến khi ông ta tập trung trở lại. Cuối cùng ông ta cũng nhìn vào mắt tôi, tôi tiếp tục.

“Rõ ràng ông Walter McMillian đã bị kết án tử hình vì tội giết người dựa trên lời khai của ông Ralph Myers. Tại phiên tòa sơ thẩm, không có bằng chứng nào khác ngoài lời khai của ông Myers khẳng định tội giết người của ông McMillian. Nhà nước không có vật chứng nào chứng tỏ ông McMillian có liên quan tới tội ác này, Nhà nước không tìm được động cơ nào, Nhà nước cũng không có nhân chứng nào chứng kiến tội ác này, Nhà nước chỉ có duy nhất lời khai của ông Ralph Myers.”

“Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Myers khai rằng ông ta vô tình và bất đắc dĩ tham gia vào vụ giết người cướp của vào ngày 01 tháng Mười một năm 1986, khi ông Walter McMillian gặp ông ta ở một tiệm rửa xe và đề nghị ông ta lái giúp chiếc xe tải của ông McMillian vì ông này bị ‘đau tay’. Ông Myers kể rằng ông ta đã lái xe đưa ông McMillian tới hiệu giặt là Jackson, sau đó bước vào bên trong cửa hiệu và thấy ông McMillian cầm súng, đang nhét tiền vào một cái túi màu nâu. Một người đàn ông da trắng khác cũng có mặt tại cửa hiệu. Ông Myers khai rằng người này có mái tóc muối tiêu và đã nói chuyện với ông McMillian. Ông Myers khẳng định ông ta bị ông McMillian xô đẩy và đe dọa khi bước vào bên trong cửa hiệu. Người thứ ba bí ẩn, người bị cáo buộc là chủ mưu, được cho là đã ra lệnh cho ông McMillian ‘thanh toán ông Myers’, nhưng ông McMillian nói không thể vì đã hết đạn. Nhà nước chưa bao giờ tìm ra hay bắt giữ người đàn ông da trắng chủ mưu. Nhà nước đã không tìm kiếm người thứ ba, kẻ chủ mưu của tội ác này, vì tôi nghĩ họ biết người này không hề tồn tại.”

Tôi ngừng lại một lần nữa để Tòa kịp ghi nhớ. “Dựa trên lời khai của ông Ralph Myers, ông Walter McMillian bị kết tội giết người và tuyên án tử hình. Như ngài sắp sửa được nghe, lời khai của ông Ralph Myers là hoàn toàn bịa đặt. Tôi nhắc lại, thưa Quý tòa, lời khai của ông Ralph Myers trong phiên sơ thẩm là hoàn toàn bịa đặt.”

Tôi dừng lại một chút rồi yêu cầu chấp hành viên gọi Myers tới bục nhân chứng. Phòng xử im lặng cho tới khi người chấp hành viên mở cửa khu tạm giữ và Ralph Myers bước vào. Tiếng ồn ào nổi lên khi y xuất hiện. Ralph đã già đi trông thấy kể từ lần cuối cùng mọi người nhìn thấy y; tôi có thể nghe thấy những tiếng xì xào về mái tóc muối tiêu của Ralph. Mặc bộ quần áo tù màu trắng, Myers một lần nữa hiện ra bé nhỏ và buồn rầu trước mắt tôi khi y bước tới bục nhân chứng. Y hồi hộp nhìn quanh phòng rồi giơ tay thề sẽ nói sự thật. Tôi đợi đến khi phòng xử yên lặng. Thẩm phán Norton nhìn Myers chăm chú.

Tôi bước lên để bắt đầu chất vấn. Sau khi để nghị y xưng tên để phục vụ việc ghi biên bản và xác nhận rằng y đã từng hầu tòa và làm chứng chống lại Walter McMillian, tôi đi thẳng vào vấn đề.

Tôi tiến gần tới bục nhân chứng.

“Ông Myers, lời khai ông cung cấp trong phiên tòa sơ thẩm xử ông McMillian có đúng sự thật không?” Tôi hy vọng thẩm phán không thấy tôi nín thở chờ đợi câu trả lời của Ralph. Ralph nhìn tôi bình thản rồi nói rất rõ ràng và tự tin.

“Không hề.” Đám đông trong phòng xử bắt đầu xì xào rồi lập tức im lặng để nghe tiếp.

“Không hề,” tôi nhắc lại trước khi tiếp tục. Tôi muốn mọi người có thời gian để tiếp nhận lời bác bỏ của Ralph, nhưng không dừng lại quá lâu vì chúng tôi còn cần nghe thêm nhiều điều nữa.

“Ông có gặp ông McMillian vào ngày Ronda Morrison bị giết không?”

“Hoàn toàn không.” Ralph kiên định trả lời.

“Ông có lái chiếc xe tải của McMillian tới Monroeville vào ngày hôm đó không?”

“Hoàn toàn không.”

“Ông có tới hiệu giặt là Jackson lúc Ronda Morrison bị giết không?”

“Không. Chưa bao giờ.”

Tôi không muốn tòa nghĩ rằng Ralph đang máy móc bác bỏ tất cả những điều tôi hỏi y, vì vậy tôi đặt một câu hỏi để buộc y phải trả lời khẳng định. “Vậy, tại phiên tòa sơ thẩm xử ông McMillian, có đúng ông đã khai rằng có một người đàn ông da trắng ở trong cửa hiệu khi ông bước vào không?”

“Đúng, tôi đã khai như vậy.”

Tôi đã đi xa hết sức có thể với những câu hỏi có - không. “Lời khai đó là gì, thưa ông?”

“Tôi nhớ là tôi đã khai rằng tôi nghe thấy Walter McMillian nói gì đó với ông ta, và tôi nhớ tôi đã khai rằng tôi nhìn thấy phía sau đầu ông ta, nhưng đấy là tất cả những gì tôi nhớ được về đoạn đó.”

“Lời khai đó có đúng sự thật không, ông Myers?”

“Không, không hề.” Lúc này thẩm phán lắng nghe chăm chú. “Có lời cáo buộc nào của ông về việc ông Walter McMillian liên can đến vụ sát hại Ronda Morrison là đúng sự thật không?”

Ralph ngừng lại, nhìn quanh phòng trước khi trả lời. Lần đầu tiên giọng nói của y biểu lộ cảm xúc, đó là sự hối hận.

“Không.”

Tất cả mọi người trong phòng xử dường như đã nín thở nãy giờ, nhưng lúc này nhiều người ủng hộ Walter bắt đầu nói râm ran.

Tôi mang theo biên bản phiên tòa và đọc cho Ralph nghe từng câu trong lời khai chống lại Walter của y. Y thừa nhận từng câu một trong lời khai trước đây của mình là hoàn toàn sai sự thật. Myers nói rất thẳng thắn và thuyết phục. Y liên tục quay đầu nhìn thẳng vào mắt Thẩm phán Norton khi trả lời. Khi tôi đề nghị y nhắc lại những lời khai mà y bị ép phải khai man, Ralph vẫn bình tĩnh và nói hết sức thành thật. Thậm chí trong suốt cuộc thẩm vấn chéo dài dòng của Chapman, Myers vẫn không nao núng. Sau hàng loạt những câu chất vấn về lý do y thay đổi lời khai, và sau khi Chapman ám chỉ hẳn phải có người đã dụ dỗ y làm việc này, Ralph nổi cáu. Y nhìn công tố viên và nói:

Tôi, chính tôi [1] có thể nhìn thẳng vào mắt ông và bất cứ người nào khác và nói rằng tất cả những điều tôi nói về McMillian đều là nói dối... Theo như tôi biết, McMillian không liên can gì đến chuyện này vì hôm đó, vào hôm mà người ta nói chuyện này xảy ra, tôi thậm chí còn không trông thấy McMillian. Đó đích xác là điều tôi đã nói với rất nhiều người.

Lúc tái chất vấn trực tiếp, tôi đề nghị Ralph khẳng định lại một lần nữa rằng lời khai trước kia của y là giả dối và rằng y đã chủ tâm đẩy một người vô tội vào tội chết. Tôi ngừng trong giây lát và đi về phía bàn bào chữa để bảo đảm rằng tôi không bỏ sót điều gì. Tôi xem lại sổ tay và liếc nhìn Michael. “Chúng ta ổn chứ?”

Michael trông có vẻ sửng sốt. “Ralph được lắm. Hắn rất, rất tuyệt.”

Tôi nhìn Walter và lúc đó mới nhận thấy mắt anh rơm rớm. Anh lắc đầu liên tục vì không tin nổi. Tôi đặt tay lên vai anh và tuyên bố với tòa rằng Myers có thể được chiếu cố. Chúng tôi không có thêm câu hỏi nào nữa.

Myers đứng dậy và rời khỏi phòng xử. Khi được các cán bộ tòa án đưa ra cửa, y nhìn Walter với ánh mắt ăn năn trước khi bị áp giải ra ngoài. Tôi không chắc liệu Walter có nhìn y không.

Mọi người trong phòng xử bắt đầu xì xào trở lại. Tôi nghe thấy một người họ hàng của Walter thì thầm, “Ơn Chúa!”

Thách thức tiếp theo là phản bác lời khai của Bill Hooks và Joe Hightower, những người tuyên bố đã nhìn thấy chiếc xe tải “gầm thấp” của Walter phóng ra khỏi cửa hiệu giặt là vào thời điểm Ronda Morrison bị giết.

Tôi gọi Clay Kast lên bục nhân chứng. Anh thợ máy da trắng làm chứng rằng chiếc xe tải của McMillian không phải là xe gầm thấp vào tháng Mười một năm 1986 khi Morrison bị giết hại. Kast có lưu giấy tờ, và anh nhớ rõ mình đã độ chiếc xe tải của Walter vào tháng Năm năm 1987, hơn sáu tháng sau ngày Hooks và Hightowers cho rằng đã nhìn thấy một chiếc xe tải gầm thấp ở cửa hiệu giặt là. Chúng tôi kết thúc ngày làm việc với Woodrow Ikner, một sĩ quan cảnh sát ở Monroeville, Ikner làm chứng ràng anh ta là người đầu tiên có mặt tại hiện trường và thi thể của Ronda Morrison không nằm ở nơi mà Myers đã miêu tả trong lời khai. Ikner cho biết hiện trường vụ án mạng cho thấy rõ Morrison đã bị bắn vào lưng sau một cuộc vật lộn bắt đầu ở nhà vệ sinh và kết thúc ở phía sau nhà, nơi thi thể cô được phát hiện. Miêu tả hiện trường của Ikner trái ngược với khẳng định của Myers tại phiên tòa sơ thẩm rằng anh ta trông thấy Morrison ở gần quầy trước. Quan trọng hơn, Ikner thừa nhận rằng Pearson, công tố viên của phiên sơ thẩm, đã yêu cầu anh làm chứng rằng thi thể Morrison bị kéo lê từ quầy trước đến vị trí mà cô được tìm thấy. Ikner rất phẫn nộ khi nhớ lại cuộc đối thoại ấy tại bục nhân chứng. Anh biết lời khai như vậy là dối trá và từ chối đề nghị của công tố viên. Không lâu sau, anh bị sở cảnh sát sa thải.

Các phiên xét chứng cứ, giống như các phiên xử sơ thẩm có sự tham gia của bồi thẩm đoàn, có thể rất mệt mỏi. Tôi đã thẩm vấn trực tiếp tất cả các nhân chứng và bất ngờ khi nhận ra đồng hồ đã chỉ 5 giờ chiều. Phiên tòa đã diễn ra thuận lợi. Tôi rất phấn khởi và tràn đầy năng lượng khi cuối cùng cũng có thể trưng ra tất cả những bằng chứng về sự vô tội của Walter. Tôi để mắt tới Thẩm phán Norton để chắc chắn rằng ông ta vẫn tập trung, và ông ta có vẻ lung lay trông thấy. Tôi tin rằng vẻ lo ngại trên gương mặt ông ta thể hiện sự bối rối chưa biết phải làm gì với những bằng chứng này, và tôi coi thái độ đó của ông ta như là một bước tiến thật sự.

Tất cả các nhân chứng chúng tôi triệu tập trong ngày đầu tiên đều là người da trắng, và không ai có quan hệ thân thiết với Walter McMillian. Thẩm phán Norton có vẻ như bất ngờ trước điều đó. Khi Clay Kast xác nhận rằng chiếc xe tải mà các nhân chứng của Nhà nước miêu tả là “xe gầm thấp” mới chỉ được độ khoảng bảy tháng sau khi án mạng xảy ra, vị thẩm phán vội vã ghi chép vào sổ tay, gương mặt hằn sâu vẻ lo ngại. Khi Woodrow Ikner tiết lộ rằng mình đã bị sa thải vì cố gắng trung thực về bằng chứng chống lại McMillian, vị thẩm phán như run lên. Đây là bằng chứng đầu tiên được trình bày cho thấy các nhà chấp pháp đã ưu tiên kết tội Walter đến nỗi họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng để phớt lờ hoặc thậm chí che giấu những bằng chứng đối lập với cáo buộc của họ.

Khi Woodrow Ikner hoàn tất lời khai, trời đã xâm xẩm tối. Thẩm phán nhìn đồng hồ và tuyên bố kết thúc ngày làm việc.

Tôi muốn tiếp tục, kể cả tới nửa đêm nếu cần, nhưng đó là chuyện không thể. Tôi bước về phía Walter.

“Chúng ta phải dừng bây giờ sao?” anh lo lắng hỏi.

“Vâng, nhưng sáng mai chúng ta sẽ lại tiếp tục.” Tôi mỉm cười và thấy yên lòng khi anh cười đáp lại.

Walter nhìn tôi phấn chấn. “Trời ơi, tôi không thể tả được cảm giác lúc này. Tôi mong chờ sự thật đã lâu nhưng toàn phải nghe những lời dối trá. Hôm nay thật không thể tin được. Tôi chỉ...” Một nhân viên mặc đồng phục bước tới ngắt lời chúng tôi.

“Chúng tôi phải đưa anh ta quay lại buồng tạm giam, các anh sẽ phải nói chuyện ở đó.” Người cán bộ da trắng trung tuổi có vẻ bực bội. Tôi không để tâm và bảo Walter rằng tôi sẽ xuống gặp anh sau.

Khi mọi người rời phòng xử, ta có thể thấy hy vọng lấp lánh trên gương mặt người thân của Walter. Họ tiến tới và ôm tôi. Chị Armelia của Walter, Minnie - vợ anh và cậu cháu trai Giles đều hào hứng nói về những bằng chứng mà chúng tôi đã trình bày.

Khi chúng tôi trở lại khách sạn, Michael cũng hồ hởi. “Lẽ ra Chapman nên gọi anh ngay lập tức và nói rằng ông ta muốn xóa hết các cáo buộc chống lại Walter và thả cho anh ấy về nhà. ”

“Chắc đến chết ta mới chờ được cuộc gọi đó,” tôi trả lời.

Chapman có vẻ khó chịu khi chúng tôi rời tòa án. Tôi vẫn nuôi chút hy vọng rằng ông ta sẽ thay đổi thái độ và thậm chí giúp chúng tôi, nhưng chắc chắn chúng tôi không nên trông mong gì việc đó.

Sáng sớm hôm sau, tôi có mặt tại tòa để thăm Walter tại buồng giam dưới tầng hầm trước khi phiên tòa bắt đầu. Khi quay trở lên, tôi ngạc nhiên khi thấy một đám đông người da đen đang ngồi lô nhô ở hành lang bên ngoài phòng xử. Phiên tòa sắp bắt đầu. Tôi tiến về phía Armelia, chị đang ngồi với mọi người bên ngoài phòng xử và nhìn tôi lo lắng.

“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. “Sao mọi người không vào đi?”

Tôi nhìn quanh hành lang. Hôm qua đã có rất đông người đến dự, phiên tòa hôm nay thậm chí còn đông hơn, tôi có thể thấy cả một số chức sắc thuộc hàng giáo phẩm và những người da màu lớn tuổi mà tôi chưa bao giờ gặp.

“Họ không cho chúng tôi vào, anh Stevenson ạ.”

“Không cho vào nghĩa là sao?”

“Chúng tôi định vào từ sớm, nhưng họ bảo chúng tôi không được vào.”

Một thanh niên trong bộ đồng phục phó cảnh sát trưởng đang đứng trước cửa phòng xử. Khi tôi tiến đến, anh ta giơ tay chặn tôi lại.

“Tôi muốn vào phòng xử,” tôi nghiêm giọng.

“Anh không được vào.”

“Tôi không được vào? Ý anh là gì? Giờ đang là phiên tòa và tôi muốn vào trong.”

“Xin lỗi anh, anh không thể vào trong phòng xử được.”

“Tại sao không?” Tôi hỏi.

Anh ta im lặng. Cuối cùng, tôi nói thêm, “Tôi là luật sư bào chữa. Tôi nghĩ tôi phải được quyền vào phòng xử.”

Anh ta nhìn tôi chăm chú và lộ rõ vẻ lúng túng, “Ơ, tôi không biết. Tôi phải đi hỏi đã.” Anh ta biến mất vào phòng xử. Một lúc sau anh ta quay trở ra và cười trừ. “Anh có thể vào.”

Tôi lách qua anh ta, mở cửa và thấy cảnh tượng trong phòng xử đã thay đổi hoàn toàn. Đằng sau cánh cửa phòng xử, một bên họ đặt một chiếc máy dò kim loại lớn, bên kia là một con chó chân cừu giống Đức khổng lồ được một cảnh sát giữ. Phòng xử đã kín một nửa. Phần lớn những bảng ghế mà những người ủng hộ Walter ngồi hôm qua đã được ngồi kín bởi những người da trắng lớn tuổi. Rõ ràng họ là người ủng hộ gia đình Morrisons và cuộc truy tố. Chapman và Valeska đã yên vị ở bàn công tố như thể không có chuyện gì xảy ra. Tôi giận tím người.

Tôi tiến về phía Chapman, “Ai đã lệnh cho nhân viên ngăn những người ngoài kia vào phòng xử?” Tôi hỏi. Họ nhìn tôi như thể họ không biết tôi đang nói gì. “Tôi sẽ nói chuyện với thẩm phán về việc này.”

Tôi quay ngoắt và đi thẳng tới phòng thẩm phán, các công tố viên đi theo sau. Khi tôi trình bày với Thẩm phán Norton rằng gia đình và người ủng hộ McMillian được thông báo rằng họ không thể vào trong phòng xử trong khi những người ủng hộ Nhà nước lại được vào, thẩm phán đảo mắt tỏ vẻ khó chịu.

“Anh Stevenson, người bên anh lẽ ra phải đến sớm hơn,” ông ta chối biến.

“Thưa Thẩm phán, vấn đề không phải là họ không đến sớm. Vấn đề là người ta bảo họ rằng họ không được vào phòng xử.”

“Không ai không được phép vào phòng xử cả, anh Stevenson ạ.”

Ông ta ra hiệu cho chấp hành viên, và người đó rời khỏi phòng. Tôi đi theo chấp hành viên và thấy anh ta thì thầm gì đó với viên cán bộ đứng bên ngoài phòng xử. Người ủng hộ McMillian sẽ được vào - nhưng lúc này phân nửa số ghế đã có người ngồi.

Tôi tiến đến chỗ hai mục sư đã tụ họp tất cả những người ủng hộ Walter và cố gắng giải thích tình hình.

“Rất xin lỗi mọi người,” tôi nói. “Hôm nay họ đã làm một chuyện rất vô lý. Bây giờ họ sẽ để mọi người vào, nhưng những người ủng hộ Nhà nước đã ngồi mất nửa số ghế rồi. Sẽ không đủ chỗ cho tất cả mọi người.”

Một mục sư to béo người Mỹ gốc Phi mặc bộ comple tối màu và đeo cây thánh giá lớn trước ngực tiến về phía tồi. “Anh Stevenson, không sao đâu. Đừng lo cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ cử một số người đại diện, và ngày mai chúng tôi sẽ đến sớm hơn nữa. Chúng tôi sẽ không để ai làm mình ngã lòng đâu anh à.”

Các mục sư bắt đầu chọn người đại diện tham dự phiên tòa. Họ bảo Minnie, Armelia, các con của Walter và mấy người nữa đi vào trước. Khi các mục sư gọi tên bà Williams, dường như tất cả mọi người đều mỉm cười. Bà Williams, một bà da đen lớn tuổi, đứng dậy sửa soạn để vào phòng xử. Bà chỉnh trang đầu tóc thật cẩn thận. Trên mái đầu bạc của bà là một chiếc mũ nhỏ mà vị trí của nó đã được bà chỉnh lại cho ngay ngắn. Sau đó, bà lấy ra một chiếc khăn dài màu xanh da trời rồi nhẹ nhàng quàng vào cổ. Xong xuôi đâu đấy, bà mới chậm rãi bước tới cửa phòng xử nơi những người ủng hộ McMillian đã đứng xếp hàng ngay ngắn. Tôi bị hút hồn bởi cử chỉ trịnh trọng của bà, rồi sực tỉnh nhận ra mình cũng phải chuẩn bị. Tôi đã không kịp chuẩn bị cho các nhân chứng như dự định, mà bị cuốn vào vụ sách nhiễu xuẩn ngốc nhằm vào những người ủng hộ McMillian. Tôi đi qua đoàn người đang chờ đợi kiên nhẫn, bước vào trong để chuẩn bị cho phiên tòa.

Tôi đang đứng trước bàn luật sư bào chữa thì trông thấy bà Williams bước tới cửa phòng xử. Trông bà thật thanh lịch với chiếc mũ và khăn. Bà không phải là người cao lớn nhưng lại có vẻ gì đó rất uy nghi - tôi không thể ngừng nhìn ngắm khi bà nhẹ nhàng bước qua cửa về phía máy dò kim loại. Bà đi chậm hơn tất cả mọi người nhưng luôn ngẩng cao đầu với vẻ quý phái và đường hoàng không thể phủ nhận được. Bà làm tôi nhớ đến những bà mà tôi đã gặp trong cuộc đời mình - những phụ nữ sống cuộc đời cực nhọc nhưng luôn tốt bụng và cống hiến hết mình để xây dựng và bảo vệ cộng đồng. Bà Williams liếc nhìn những hàng ghế trống để xem mình sẽ ngồi đâu, rồi đi tiếp qua chiếc máy dò kim loại - và đó là lúc bà trông thấy con chó.

Thần thái uy nghi của bà bỗng chốc biến mất, thay vào đó là vẻ kinh hãi tột cùng. Đôi vai bà chùng xuống, người bà chùn lại và đờ ra. Bà đứng đó, bất động hơn một phút liền, rồi người bà bắt đầu run rẩy và rồi rung bần bật. Tôi nghe thấy tiếng bà rên la. Nước mắt tuôn trên mặt bà rồi bà lắc đầu buồn bã. Tôi tiếp tục dõi theo cho đến khi bà quay đầu và nhanh chóng rời khỏi phòng xử.

Tâm trạng tôi biến đổi. Tôi không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với bà Williams, nhưng tôi biết rằng ở Alabama, cảnh khuyển và những người da đen tìm kiếm công lý chưa bao giờ hoà hợp với nhau.

Khi tôi đang cố rũ bỏ cảm giác u uất do sự việc đầu giờ sáng gây ra, thì các cán bộ đưa Walter vào phòng xử. Vì phiên tòa không có bồi thẩm đoàn, nên thẩm phán không cho phép tôi đưa cho anh trang phục bình thường để mặc, do vậy Walter phải mặc áo tù. Họ không bắt anh đeo còng số tám khi hầu tòa, nhưng vẫn cùm chân anh. Michael và tôi hội ý nhanh về trình tự trình bày của các nhân chứng trong khi gia đình McMillian và những người ủng hộ tiếp tục chầm chậm đi qua máy dò kim loại và chó nghiệp vụ để vào phòng xử.

Mặc cho những chiêu trò của Nhà nước lúc sáng sớm và điềm xấu khi bà Williams trông thấy con chó, chúng tôi có thêm một ngày thuận lợi nữa ở tòa. Bằng chứng của những bác sĩ điều trị tâm lý cho Myers sau khi y từ chối ra làm chứng tại phiên tòa đầu tiên, rồi bị gửi tới Viện Y học An ninh Taylor Hardin để chẩn đoán đã xác nhận lời khai của Myers trong phiên tòa hôm trước. Bác sĩ Omar Mohabbat cho biết khi đó Myers đã kể với ông rằng “cảnh sát chỉ cho anh ta một trong hai lựa chọn, hoặc chấp nhận hình phạt cho vụ án giết người mà anh ta bị buộc tội, hoặc ‘ra làm chứng’ rằng ‘gã đó là thủ phạm.’” Mohabbat cho biết Myers đã “thẳng thừng bác bỏ mọi liên can tới vụ việc, và nói ‘tôi không biết tên con bé đó, tôi không biết án mạng xảy ra vào giờ nào, ngày nào, ở đâu.’” Mohabbat làm chứng rằng Myers đã nói với ông, “Họ bảo tôi nói những điều họ muốn tôi nói.”

Bằng chứng từ các bác sĩ khác củng cố thêm lời khai này. Bác sĩ Norman Poythress của viện Taylor Hardin cho biết Myers đã kể với ông rằng “lời ‘thú tội’ trước đó của anh ta là giả và cảnh sát đã cưỡng ép anh ta nói vậy bằng cách cô lập cả thân thể lẫn tinh thần của anh ta.”

Bác sĩ Kamal Nagi của viện Taylor Hardin nói Myers đã kể cho ông về “một vụ giết người xảy ra vào năm 1986 trong đó một cô gái bị bắn chết tại một cửa hiệu giặt là tự động. Anh ta nói ‘cả cảnh sát và luật sư đều muốn tôi nói rằng tôi đã lái xe đưa những tên đó tới hiệu giặt là để chúng bắn cô gái, nhưng tôi sẽ không làm vậy.’” Myers cũng kể với Nagi, “Họ đe dọa tôi. Họ muốn tôi nói điều họ muốn nghe; nếu không, họ bảo rằng tôi sẽ phải lên ghế điện.”’

Myers cũng tiết lộ với một bác sĩ nữa rằng y bị ép phải khai man chống lại Walter McMillian. Bác sĩ Bernard Bryant làm chứng Myers kể với ông rằng “anh ta không gây ra tội đó nhưng lúc bị tạm giam, anh ta bị cảnh sát địa phương dọa dẫm và sách nhiễu buộc anh ta phải thừa nhận rằng mình có tội.”

Trong suốt phiên tòa hôm đó, chúng tôi nhấn mạnh với tòa rằng tất cả những tuyên bố này đều do Myers đưa ra trước phiên tòa sơ thẩm. Những lời này đã khẳng định thêm tính chân xác của việc Myers rút lại lời khai; không chỉ có vậy, chúng còn được lưu lại trong những hồ sơ y tế và chưa bao giờ được chuyển cho luật sư bào chữa của Walter theo quy định của pháp luật. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ từ lâu đã quy định rằng cơ quan tố tụng phải cung cấp cho phía bị cáo tất cả mọi chứng cứ có thể giải tội hoặc giúp ích cho phía bị cáo trong việc phản bác một nhân chứng.

Những người ủng hộ mà Nhà nước mời tới phiên tòa và gia đình nạn nhân tỏ ra bối rối trước bằng chứng chúng tôi trình bày - nó thách thức câu chuyện đơn giản mà họ đã tin tưởng tuyệt đối về tội trạng của Walter và nhu cầu phải trừng phạt thẳng tay cũng như quyết liệt kẻ thủ ác. Những người ủng hộ Nhà nước ra về dần, thêm nhiều người da đen được vào phòng xử. Tới cuối ngày thứ hai, tôi thấy tràn trề hy vọng. Chúng tôi đã giữ được nhịp độ tốt và các cuộc thẩm vấn chéo diễn ra nhanh hơn tôi dự tính. Tôi nghĩ chỉ một ngày nữa thôi là chúng tôi có thể kết thúc vụ việc.

Tôi mệt nhưng hài lòng khi bước ra xe buổi tối hôm đó. Tôi bất ngờ khi thấy bà Williams ngồi một mình trên băng ghế bên ngoài tòa án. Bà đứng dậy khi chúng tôi nhìn thấy nhau. Tôi tiến lại phía bà, nhớ lại cảm giác lo lắng của mình khi bà rời phòng xử.

“Bà Williams, cháu rất xin lỗi về chuyện xảy ra sáng nay. Lẽ ra họ không nên làm vậy, cháu xin lỗi nếu họ làm bà phiền lòng. Nhưng, cháu báo để bà mừng, hôm nay mọi việc tiến triển tốt lắm. Cháu cảm thấy chúng ta đã có một ngày rất tốt...”

“Luật sư Stevenson, tôi cảm thấy rất tồi tệ. Tôi cảm thấy rất tồi tệ,” bà nắm tay tôi và nói.

“Sáng nay tôi nên vào phòng xử mới phải. Lẽ ra tôi phải có mặt ở đó,” bà nói rồi bật khóc.

“Bà Williams, mọi chuyện ổn rồi,” tôi nói. “Họ không nên làm như thế. Bà đừng lo nữa.” Tôi ôm bà an ủi.

“Không, không, không, Luật sư Stevenson. Lẽ ra tôi phải vào phòng xử, lẽ ra tôi nên có mặt ở đó.”

“Không sao đâu, bà Williams, không sao đâu.”

“Không, anh ạ, tôi phải có mặt ở đó, và tôi muốn có mặt ở đó. Tôi đã cố gắng, cố gắng, có Chúa trời chứng giám, anh Stevenson ạ. Nhưng lúc tôi trông thấy con chó...” Bà lắc đầu rồi đưa mắt nhìn xa xăm. “Lúc thấy con chó, tôi nhớ lại hồi năm 1965, khi chúng tôi tụ tập chỗ cầu Edmund Pettus ở Selma để biểu tình đòi quyền bầu cử. Họ đã đánh chúng tôi và thả chó ra cắn.” Bà nhìn tôi buồn bã. “Tôi đã cố bước vào đấy, Luật sư Stevenson ạ, tôi muốn vào lắm, nhưng tôi không thể.”

Dường như có cả một bầu không khí buồn bã bao quanh bà khi bà nói. Bà buông tay tôi rồi rời đi. Tôi thấy bà lên xe cùng mấy người tôi trông thấy trong phòng xử lúc nãy.

Tôi lái xe quay lại nhà nghỉ để chuẩn bị cho ngày điều trần cuối cùng, tâm trạng ảm đạm hơn trước.

Hôm sau, tôi đến tòa án từ sáng sớm để bảo đảm sẽ không có vấn đề gì xảy ra. Không ngờ có rất ít người ủng hộ Nhà nước tới dự. Và mặc dù máy dò kim loại và con chó vẫn ở đó, không có nhân viên nào đứng ở cửa chặn người da đen như hôm trước. Bên trong phòng xử, tôi nhận ra một chị đi cùng bà Williams tối hôm trước. Chị bước về phía tôi và giới thiệu mình là con gái bà Williams. Chị cảm ơn tôi vì đã an ủi bà.

“Lúc về nhà tối qua, mẹ tôi buồn lắm. Bà không ăn uống gì, không nói chuyện với ai mà chỉ về phòng ngủ. Chúng tôi nghe thấy bà cầu nguyện suốt cả đêm. Sáng nay bà gọi điện cho Đức Cha để xin thêm cơ hội làm đại diện cộng đồng trong phiên tòa. Lúc tôi thức dậy thì đã thấy bà dậy từ lúc nào, ăn mặc chỉnh tề, sẵn sàng tới dự phiên tòa. Tôi bảo bà không phải đến, nhưng bà không nghe. Bà đã trải qua nhiều biến cố, và trên đường tới đây, bà cứ lẩm nhẩm mãi, ‘Lạy Chúa, con không được sợ chó, không được sợ chó.’”

Đúng lúc tôi xin lỗi con gái bà Williams một lần nữa về những chuyện mà viên chức tòa án gây ra thì bỗng có tiếng ồn ào phía cửa phòng xử. Chúng tôi quay ra và thấy bà Williams đứng đó. Bà vẫn phục sức hoàn hảo với khăn và mũ. Bà nắm chặt chiếc xắc tay ở cạnh sườn và có vẻ run run. Tôi dõi mắt theo khi các viên chức để bà bước vào. Bà ngẩng cao đầu và đi chầm chậm qua máy dò kim loại, miệng lẩm nhẩm “tôi không sợ chó”. Bà không thể tránh nhìn con chó. Bà qua được máy dò và nhìn đăm đăm vào nó. Rồi bà kêu to, đủ để ai cũng nghe thấy, “Tôi không sợ chó!”

Bà đi qua con chó và bước vào phòng xử. Những người da đen ngồi đó mắt ánh lên niềm vui mừng khi bà đi qua họ. Bà ngồi xuống gần mấy hàng ghế đầu rồi quay sang nhìn tôi, tươi cười thông báo, “Luật sư Stevenson, tôi có mặt!”

“Vâng, bà Williams, cháu rất mừng vì bà ở đây. Cảm ơn bà đã tới.”

Phòng xử đã kín chỗ, tôi bắt đầu chuẩn bị tài liệu. Họ đưa Walter vào phòng xử, tín hiệu cho thấy phiên tòa sắp bắt đầu. Đúng lúc đó tôi nghe thấy bà Williams gọi tên tôi.

“Không, Luật sư Stevenson, anh không nghe rõ tôi nói rồi. Tôi bảo là tôi có mặt.” Bà nói rất to, làm tôi hơi bối rối và ngại ngùng. Tôi quay lại cười với bà.

“Vâng, bà Williams, cháu có nghe thấy bà nói, và cháu rất mừng vì bà đã ở đây.” Khi tôi nhìn bà, dường như bà đang ở trong thế giới của riêng mình.

Phòng xử đã chật kín, chấp hành viên tòa án ổn định trật tự khi thẩm phán bước vào. Mọi người đứng dậy theo đúng nghi thức. Khi thẩm phán ngồi xuống, mọi người cũng ngồi xuống theo. Có một khoảng im lặng dài bất thường khi tất cả chúng tôi đều chờ thẩm phán nói gì đó. Tôi để ý thấy mọi người nhìn thứ gì đó sau lưng tôi, và khi quay lại, tôi thấy bà Williams vẫn đứng đó. Phòng xử im phăng phắc. Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào bà. Tôi cố gắng ra hiệu cho bà ngồi xuống, nhưng bà ngẩng cao đầu và nói dõng dạc, “Tôi có mặt!” Mọi người vừa lo lắng vừa cười rinh rích khi bà ngồi xuống, nhưng khi bà nhìn tôi, tôi thấy mắt bà rơm rớm.

Vào khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy một điều lạ thường, đó là cảm giác về sự công nhận. Tôi mỉm cười, bởi tôi hiểu bà đang nói với cả căn phòng rằng, “Tôi có thể già, tôi có thể nghèo, tôi có thể là người da đen, nhưng tôi có mặt ở đây. Tôi có mặt vì tiếng gọi của công lý thôi thúc tôi làm nhân chứng. Tôi có mặt vì đó là điều nên làm. Tôi có mặt vì các người không thể đuổi tôi đi.”

Tôi mỉm cười với bà Williams khi bà kiêu hãnh ngồi xuống. Lần đầu tiên kể từ khi tôi bắt đầu xử lý vụ việc này, mọi thứ mà chúng tôi đang nỗ lực để giành được dường như cuối cùng cũng có ý nghĩa. Phải mất một phút tôi mới nhận ra thẩm phán đang gọi tên mình, sốt ruột đề nghị tôi bắt đầu.

Ngày xét xử cuối cùng diễn ra thuận lợi. Có sáu người bị tạm giam hoặc ngồi tù cùng Ralph Myers được nghe chính miệng Ralph kể rằng y bị ép phải khai man chống lại McMillian. Chúng tôi tìm được gần hết bọn họ và nhờ họ ra làm chứng. Các lời khai của họ đều nhất quán. Isaac Dailey, người từng bị Myers vu cáo về tội giết Pittman, giải thích Myers đã lôi Walter vào vụ Pittman như thế nào. Sau khi bị bắt giam, Myers tiết lộ với Dailey rằng y và Karen đã bàn bạc về việc đổ tội giết Pittman cho Walter. “Anh ta kể với chúng tôi rằng anh ta và Karen đã gây ra vụ giết người và thông đồng với nhau để đổ tội cho Johnny D.”

Một tù nhân khác, người giúp Myers viết thư ở trại giam hạt Monroe, cho biết Myers không quen McMillian, không biết gì về vụ sát hại Morrison, và bị cảnh sát gây sức ép nên buộc phải làm chứng giả chống lại McMillian.

Tôi để dành đến phút cuối cùng mới trình bày bằng chứng mạnh mẽ nhất. Các băng ghi âm cuộc thẩm vấn Myers do Tate, Benson và Ikner thực hiện khá kịch tính. Hàng loạt lời tuyên bố được ghi âm của Myers cho thấy y đã liên tục khẳng định với cảnh sát rằng y không biết gì về vụ sát hại Morrison cũng như Walter McMillian. Băng ghi âm cũng lưu lại những lời đe dọa Myers của các nhà chấp pháp và sự phản kháng của y đối với việc dựng chuyện để đổ tội giết người cho một người vô tội. Các cuộn băng không chỉ củng cố những lời phản cung của Myers, mà còn phơi bày lời nói dối mà Pearson đã đưa ra trước tòa, bồi thẩm đoàn và luật sư bào chữa của McMilian - rằng Myers chỉ tuyên bố hai điều. Trên thực tế, Myers có ít nhất sáu tuyên bố nữa với cảnh sát, và những tuyên bố này khá nhất quán với lời khai của y tại phiên tòa theo Điều lệ 32 đang diễn ra rằng y không có thông tin gì về việc Walter McMillian giết hại Ronda Morrison. Tất cả những tuyên bố được ghi âm này đều đã được đánh máy lại và có thể giúp minh oan cho Walter McMillian, tuy nhiên chúng không hề được cung cấp cho luật sư của McMillian như luật định.

Tôi gọi Bruce Boynton và J. L. Chestnut, các luật sư từng biện hộ cho McMilian, lên làm chứng rằng đáng ra họ có thể làm được nhiều hơn để thân chủ được tha bổng nếu Nhà nước cung cấp những bằng chứng bị giấu nhẹm này. Chúng tôi hoàn thành phần trình bày chứng cứ, và bất ngờ khi Nhà nước không đưa ra bằng chứng phản bác nào. Tôi không biết họ có thể trình bày điều gì để bác bỏ bằng chứng của chúng tôi, nhưng tôi vẫn đinh ninh rằng họ sẽ trình bày cái gì đó. Dường như thẩm phán cũng bất ngờ. Ông ta trầm ngâm rồi yêu cầu các bên đệ trình văn bản lập luận về phán quyết mà ông nên đưa ra. Chúng tôi đã mong chờ điều này, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi tòa cho chúng tôi thời gian để giải thích bằng văn bản tầm quan trọng của tất cả các chứng cứ và giúp thẩm phán chuẩn bị phán quyết, một phán quyết mà tôi hy vọng sẽ trả tự do cho Walter. Sau ba ngày tranh biện căng thẳng, thẩm phán tuyên bố tạm dừng tố tụng.

Sáng hôm đó, Michael và tôi vội vàng tới phiên tòa nên chưa kịp trả phòng khách sạn. Chúng tôi từ biệt gia đình Walter ở phòng xử rồi trở về khách sạn, mệt nhoài nhưng hài lòng.

Vịnh Minette, nơi diễn ra phiên tòa, cách những bãi biển xinh đẹp của Vịnh Mexico khoảng ba mươi phút chạy xe. Chúng tôi đã bắt đầu truyền thống đưa nhân viên đi nghỉ mát vào tháng Chín hàng năm, và tất cả chúng tôi đều mê mẩn làn nước ấm áp, trong trẻo nơi đây. Bờ cát trắng và bãi biển còn hoang sơ chưa được khai phá thật yên ả và đẹp diệu kỳ. Cảnh đẹp bị những giàn khoan khổng lồ ngoài khơi mà ta có thể trông thấy từ xa phá hỏng đôi chút, nhưng nếu có thể bỏ qua chúng, ta sẽ thấy mình đang ở thiên đàng. Cá heo rất mê vùng vịnh này, ta có thể thấy chúng đùa nghịch trong làn nước lúc bình minh. Tôi thường nghĩ đáng lẽ chúng tôi nên chuyển văn phòng tới đây, ngay bên bờ biển này.

Ghé qua bãi biển trước khi quay về Montgomery là ý tưởng của Michael. Tôi không chắc đó là ý hay, nhưng thời tiết ấm áp và biển lại rất gần, nên tôi khó lòng cưỡng lại. Chúng tôi nhảy lên xe, đuổi theo những vệt nắng cuối cùng của ngày để tới bờ biển xinh đẹp gần Fort Morgan, Alabama. Vừa đến nơi, Michael đã thay bộ comple bằng chiếc quần bơi rồi lao xuống biển. Tôi mệt quá không bơi nổi, nên chỉ mặc quần soóc và ngồi bên mép nước. Ngày sắp tàn, nhưng hơi nóng vẫn chưa dịu đi. Những sự việc diễn ra trong phiên tòa vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi: tôi nhớ lại những điều các nhân chứng đã nói và băn khoăn không biết mọi chuyện tiến triển như vậy đã ổn chưa. Tôi rà lại mọi chi tiết trong đầu, mọi sai sót có thể đã xảy ra, cho đến khi chợt nhớ phiên tòa đã kết thúc, và chẳng ích gì khi tôi tự làm mình phát điên vì nghĩ ngợi quá nhiều. Tôi quyết định xuống biển và quên đi mọi thứ trong phút chốc.

Trước đó, trong một lần bị kẹt ở sân bay mà không có gì khác để đọc, tôi đã đọc một bài báo nói về những vụ cá mập tấn công. Khi chạm vào những con sóng thẫm ánh hoàng hôn ở Fort Morgan, tôi nhớ rằng cá mập thường đi săn mồi vào lúc bình minh và hoàng hôn. Tôi thấy Michael bơi tít đằng xa, và dù hơi buồn cười, tôi phải thừa nhận rằng tôi sẽ dễ trở thành con mồi hơn nếu cá mập xuất hiện. Michael bơi như cá còn tôi muốn nổi trên mặt nước thôi cũng khó.

Michael vẫy tôi và hét lớn: “Anh B, xuống đây đi!” Tôi thận trọng lội ra đủ xa để trần tình với cậu nỗi lo của tôi về cá mập. Cậu cười tôi. Nước biển ấm tuyệt vời và dễ chịu không ngờ. Một đàn cá bơi tung tăng bên chân tôi, tôi mê mải ngắm chúng cho đến khi nhận ra có thể chúng đang trốn một con cá dữ nào đó. Tôi thận trọng quay vào bờ.

Tôi ngồi trên bãi cát trắng, ngắm những con bồ nông trắng lóa bay lượn nhẹ như không trên mặt nước để tìm thức ăn. Những con dã tràng chạy tung tăng quanh tôi, nhút nhát không dám lại gần nhưng vẫn không giấu nổi tò mò lảng vảng quanh đó. Tôi nghĩ tới Walter đang trên đường trở lại Holman, chân bị cùm và ngồi trong thùng xe. Tôi mong anh lạc quan nhưng đủ vững vàng để đón nhận bất cứ quyết định nào của tòa án. Tôi nghĩ về gia đình anh và những người tới dự phiên tòa. Họ đã giữ niềm tin suốt năm năm kể từ khi Walter bị bắt giữ, và lúc này họ có lý do để cảm thấy mình được động viên và tiếp thêm sức mạnh. Tôi nghĩ tới bà Williams. Bà đã gặp tôi sau phiên tòa và tặng cho tôi một nụ hôn ngọt ngào lên má. Tôi bảo bà rằng tôi đã mừng vui cỡ nào khi bà trở lại tòa. Bà nhìn tôi tinh nghịch. “Luật sư Stevenson, anh biết tôi sẽ có mặt, và anh biết tôi sẽ không để họ loại tôi ra mà.” Tôi vui vì câu nói của bà.

Michael lên bờ, trông đầy lo lắng.

“Cậu trông thấy cái gì thế?” Tôi đùa. “Cá mập à? Hay lươn? Sứa độc? Cá đuối ó? Cá răng đao?”

Cậu thở không ra hơi. “Họ đã đe dọa chúng ta, lừa dối chúng ta, có người nói rằng mấy người ở hạt này điên tiết về những việc chúng ta làm đến nỗi họ sẽ giết chúng ta. Anh có nghĩ họ sẽ ra tay ngay bây giờ không khi họ biết chúng ta có rất nhiều bằng chứng để minh oan cho Walter?”

Tôi cũng từng nghĩ về việc này. Đối thủ của chúng tôi đã làm mọi chuyện có thể để gán tội cho Walter và đẩy anh vào chỗ chết. Họ đã nói dối và vi phạm thủ tục tư pháp. Không ít người đã nhắc nhở chúng tôi rằng họ nghe nói có những người trong cộng đồng đang điên cuồng dọa lấy mạng chúng tôi vì tin rằng chúng tôi đang cố giúp một kẻ sát nhân thoát án tử.

“Tôi không biết nữa,” tôi bảo Michael, “nhưng chúng ta phải đi tiếp thôi. Chúng ta phải đi tiếp.”

Chúng tôi cùng ngồi đó trong yên lặng, ngắm mặt trời mờ dần vào màn đêm. Những con dã tràng bò ra mỗi lúc một nhiều hơn, chúng chạy lon ton tới chỗ chúng tôi ngồi. Tôi quay sang Michael khi bóng đêm phủ xuống.

“Chúng ta về thôi.”