Chương mười XOA DỊU
Các nhà tù ở Mỹ đã trở thành trại giam những người mắc bệnh tâm thần.
Những bản án quá nặng và chính sách sai lầm khi đối phó với vấn nạn ma túy là những tác nhân quan trọng thúc đẩy việc giam giữ hàng loạt, nhưng chính tình trạng giam giữ hàng trăm nghìn người nghèo mắc bệnh tâm thần mới là nguyên nhân hàng đầu khiến chúng ta đạt tới tỷ lệ giam giữ cao kỷ lục. Và nó đã tạo ra nhiều vấn đề chưa từng có tiền lệ.
Tôi gặp Avery Jenkins lần đầu qua điện thoại. Anh gọi điện cho tôi, nhưng nói chuyện khá bập bõm. Anh không giải thích được mình bị kết tội gì, thậm chí cũng chẳng thể nói rành rọt anh cần tôi làm gì. Anh phàn nàn về điều kiện giam giữ cho đến khi một ý nghĩ bất chợt nào đó làm anh đột nhiên chuyển chủ đề. Anh gửi thư cho tôi, nhưng chúng cũng khó hiểu y như những cuộc điện thoại, vì vậy tôi quyết định đến gặp anh trực tiếp để xem biết đâu tôi sẽ hiểu ra nên giúp anh như thế nào.
Trong suốt hơn một thế kỷ, chế độ chăm sóc người mắc bệnh tâm thần nặng ở Mỹ được luân chuyển giữa nhà tù và bệnh viện tâm thần. Cuối thế kỷ 19, bất bình trước cách đối xử vô nhân đạo đối với những tù nhân mắc các chứng rối loạn tâm thần, bà Dorothea Dix và Đức Cha Louis Dwight đã tổ chức thành công một chiến dịch giải thoát những người bị bệnh tâm thần khỏi cảnh tù đày. Số lượng người bị giam giữ mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng giảm mạnh, đồng thời ngày càng có nhiều cơ sở y tế công và tư mọc lên để chăm sóc người bệnh. Các bệnh viện tâm thần của nhà nước cũng nhanh chóng được thành lập ở khắp nơi.
Tới giữa thế kỷ 20, tình trạng ngược đãi bên trong các bệnh viện tâm thần lại thu hút nhiều sự chú ý, và việc giam nhốt cưỡng ép người mắc bệnh tâm thần trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Gia đình, nhà trường và tòa án đã gửi hàng nghìn người vào viện tâm thần, chủ yếu vì họ không tuân theo các chuẩn mực xã hội, văn hóa và tính dục, hơn là vì họ mắc bệnh tâm thần cấp tính. Những người quan hệ đồng tính, đi ngược lại chuẩn mực giới, hay yêu người khác chủng tộc thường là đối tượng bị giam giữ. Việc bào chế ra các loại thuốc chống loạn thần như Thorazine một mặt đã mang lại nhiều hứa hẹn cho những người mắc một số hội chứng rối loạn tâm thần nghiêm trọng, song mặt khác thứ thuốc này đã bị sử dụng thái quá ở nhiều trại tâm thần, gây ra tình trạng lạm dụng thuốc và đi cùng với đó là những tác dụng phụ khủng khiếp. Những câu chuyện kinh hoàng về cách đối xử hung hăng thô bạo với bệnh nhân tại một số cơ sở đã làm bùng nổ một chiến dịch mới, lần này là với mục đích đưa nạn nhân thoát khỏi môi trường điều trị của các bệnh viện tâm thần.
Trong những năm 1960 và 1970 [1] , nhiều đạo luật đã được thực thi nhằm hạn chế tình trạng giam giữ cưỡng ép. Giải tán viện tâm thần* trở thành mục tiêu của nhiều bang. Các luật sư và các nhà vận động vì sức khỏe tâm thần đã thắng hàng loạt vụ kiện lên Tối cao Pháp viện, buộc các bang phải chuyển bệnh nhân từ viện tâm thần sang các chương trình cộng đồng. Các phán quyết pháp lý này cho phép những người chậm phát triển có thể chủ động từ chối điều trị và tạo thêm quyền cho người bị rối loạn tâm thần, nhờ đó tình trạng giam giữ cưỡng ép trong các bệnh viện không còn phổ biến như trước nữa. Tới những năm 1990, một số bang đã đạt tỷ lệ giải tán viện tâm thần lên tới hơn 95%, nghĩa là cứ 100 bệnh nhân lưu trú trong các bệnh viện tâm thần của nhà nước trước khi có chương trình giải tán viện tâm thần, thì đến thời điểm nghiên cứu được thực hiện trong thập niên 1990 chỉ còn chưa đầy 5 người ở viện. Năm 1955, cứ 300 người Mỹ thì có 1 giường bệnh tâm thần; năm mươi năm sau, chỉ còn 1 giường bệnh tâm thần chung cho 3000 người.
Nguyên văn: deinstitutionalization, là quá trình thay thế hình thức lưu trú dài ngày tại các bệnh viện tâm thần bằng những dịch vụ y tế cộng đồng đỡ cô lập hơn dành cho những người bị chẩn đoán rối loạn tâm thần hoặc bị khuyết tật phát triển. (ND.)
Mặc dù những cải cách này là vô cùng cấp thiết, song chương trình giải tán viện tâm thần lại đi cùng với việc áp dụng tràn lan những chính sách giam giữ hàng loạt - các đạo luật hình sự và những bản án khắc nghiệt được tăng cường - dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. “Thế giới tự do” trở thành một chốn đầy hiểm họa đối với những người nghèo mắc bệnh tâm thần mới được giải tán. Do không được điều trị và cung cấp thuốc men cần thiết, nguy cơ đụng độ với cảnh sát của nhiều người tâm thần thu nhập thấp tăng cao, và hệ quả không thể tránh khỏi là họ rơi vào cảnh tù tội. Các trại tạm giam và nhà tù trở thành chiến lược đối phó của nhà nước đối với cuộc khủng hoảng y tế do nạn lạm dụng và lệ thuộc thuốc gây ra. Hàng loạt người mắc bệnh tâm thần bị tống giam vì những vi phạm nhỏ, những tội liên quan đến ma túy, hay đơn giản chỉ vì những hành vi mà cộng đồng nơi họ sống không sẵn lòng dung thứ.
Ngày nay, hơn 50% [2] số người bị giam trong các trại tạm giam và nhà tù ở Mỹ được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần, cao hơn gần 5 lần so với tỷ lệ mắc bệnh tâm thần trong dân số trưởng thành nói chung. Gần 1/5 [3] số người bị giam giữ mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng. Trên thực tế, số người mang bệnh tâm thần nghiêm trọng [4] trong các trại tạm giam hoặc nhà tù cao gấp hơn 3 lần so với trong bệnh viện; tại một số bang, con số này là 10 lần. Và nhà tù là một nơi khủng khiếp đối với những người có bệnh tâm thần hoặc chứng rối loạn thần kinh mà các quản giáo không hiểu hết vì không được đào tạo.
Khi tôi còn làm việc ở Atlanta, văn phòng của chúng tôi đã kiện nhà tù Angola tai tiếng của bang Louisiana vì nhà tù này từ chối thay đổi chính sách buộc tù nhân trong các buồng biệt giam phải chìa tay qua song sắt để giám thị còng lại trước khi giám thị bước vào buồng giam. Những tù nhân bị chứng động kinh hay co giật đôi lúc sẽ cần được giúp đỡ khi lên cơn trong buồng giam, và khi họ không thể đưa tay qua song sắt, giám thị sẽ dùng bình xịt hơi cay hoặc bình cứu hỏa để khống chế họ. Kiểu can thiệp này chỉ khiến tình trạng sức khỏe của tù nhân thêm trầm trọng và đôi khi dẫn đến tử vong.
Hầu hết những nhà tù đông đúc không có đủ năng lực chăm sóc và điều trị cho người bị bệnh tâm thần. Điều kiện y tế nghèo nàn kết hợp với hàng loạt quy định phức tạp làm cuộc sống trong tù trở nên bi đát đối với nhiều người khuyết tật. Không chỉ có vậy, các tù nhân khác cũng lợi dụng hoặc phản ứng thô bạo với những biểu hiện hành vi của người bị bệnh tâm thần. Những cán bộ cáu bẳn của nhà tù liên tục hành hạ, biệt giam hay áp lên họ những hình thức giam giữ khắc nghiệt nhất. Nhiều thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa không nhận thức được nhu cầu đặc biệt của người có bệnh tâm thần, dẫn tới những bản án sai lạc, hạn tù kéo dài, và tỷ lệ tái phạm cao.
Tôi từng đại diện cho một người bệnh tâm thần ở trại tử tù Alabama tên là George Daniel. George bị tổn thương não sau một vụ tại nạn xe hơi khiến anh bất tỉnh vào một đêm muộn ở Houston, Texas. Khi tỉnh dậy, anh thấy mình ở trong chiếc xe lộn ngược bên lề đường. Anh về thẳng nhà vào đêm đó mà chẳng hề đi khám. Về sau, bạn gái anh kể với gia đình anh rằng lúc đầu anh chỉ tỏ ra hơi lơ đễnh. Sau đó, anh bắt đầu hoang tưởng và có những hành vi ngày càng kỳ lạ và bất thường. Anh ngủ thất thường, than phiền rằng mình nghe thấy những giọng nói, và hai lần trần truồng chạy ra khỏi nhà vì cho rằng mình bị ong đuổi. Chỉ trong vòng một tuần sau vụ tai nạn, anh không thể nói được một câu trọn vẹn. Ngay trước khi mẹ anh, khi đó đang ở Montgomery, được gọi tới để thuyết phục anh đi bệnh viện, George đã bắt một chiếc xe buýt lúc nửa đêm. Anh đi xa hết mức có thể với số tiền có trong túi.
Mất phương hướng và không giao tiếp được, anh bị đuổi xuống xe khi tới Hurtsboro, Alabama, vì anh đã làm một số hành khách hoảng sợ khi nói ầm ĩ với chính mình và chỉ trỏ lung tung vào những vật thể tưởng tượng đang bay quanh anh. Chiếc xe buýt đã đi qua Montgomery, nơi gia đình anh sống, nhưng anh ngồi tiếp cho đến khi bị đẩy xuống trong tình trạng không một xu dính túi, trên người chỉ có độc bộ quần jean, áo phông, chân không mang giày giữa tiết trời tháng Một. Anh đi lang thang khắp Hurtsboro và cuối cùng dừng chân trước một ngôi nhà kia. Anh gõ cửa, và khi chủ nhà mở cửa, anh ngang nhiên xông thẳng vào nhà, anh đi loanh quanh tới khi tìm thấy bàn ăn và ngồi xuống. Bà chủ nhà hoảng sợ gọi điện cho con trai, anh ta về và tống cổ George đi. George tới một ngôi nhà khác, cũng của một bà già và làm điều tương tự. Bà chủ nhà gọi cảnh sát. Viên cảnh sát tiếp nhận vụ việc là người nổi tiếng dữ dằn, anh ta thô bạo tống cổ George. George bắt đầu phản ứng khi bị dồn lên xe cảnh sát, hai người vật lộn rồi ngã xuống đất. Viên cảnh sát rút súng, trong lúc hai người giằng co thì súng bị cướp cò, viên đạn găm vào bụng viên cảnh sát làm anh ta tử vong.
George bị bắt giữ và buộc tội giết người. Trong trại giam hạt Russel, anh có biểu hiện loạn tâm thần cấp tính. Các quản giáo báo cáo rằng anh không chịu rời buồng giam. Họ thấy anh ăn cả phân của mình. Mẹ anh tới thăm, nhưng anh không nhận ra bà. Anh không thể nói trọn một câu. Hai luật sư được chỉ định bào chữa cho anh tại phiên tòa sơ thẩm thì chỉ mải quan tâm đến chuyện sẽ chỉ có một người trong số họ nhận được 1.000 đô-la tiền làm việc ngoài giờ theo chính sách của bang Alabama dành cho các luật sư chỉ định trong những vụ trọng án. Họ bắt đầu cãi cọ [5] , và một người đệ đơn kiện người kia đòi phân chia khoản tiền. Trong thời gian đó, thẩm phán chuyển George tới Bệnh viện Bryce ở Tuscaloosa để kiểm tra năng lực. Ed Seger, vị bác sĩ khám cho George, không hiểu sao lại kết luận rằng anh không bị bệnh tâm thần mà chỉ đang “giả bộ”.
Dựa trên kết luận đó, thẩm phán cho phép tiến hành phiên tòa sơ thẩm xét xử tội danh giết người. Các luật sư của George bận cãi nhau, không trình bày lập luận bào chữa và cũng chẳng gọi người nào ra làm chứng. Nhà nước mời bác sĩ Seger làm chứng, ông ta đã thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng George không có vấn đề gì về tâm thần, mặc dù anh liên tục nhổ nước bọt vào cốc và kêu cục cục trong suốt phiên xử. Gia đình George vô cùng sầu não. Trước khi xảy ra vụ tai nạn, George làm việc tại một xưởng đồ gỗ của hãng Pier 1 ở Houston. Anh đã rời thị trấn mà không buồn đi lấy phiếu lương vốn đã có sẵn để lấy trước khi anh đi hơn hai ngày. Mẹ anh, một phụ nữ nghèo thấu hiểu đồng tiền có giá trị như thế nào với một người như George, nhận thấy hành vi của con trai giống biểu hiện tâm thần hơn bất cứ điều gì khác mà bà có thể chỉ ra, bà ủy quyền cho luật sư đi lấy tấm chi phiếu với hy vọng họ có thể dùng nó làm vật chứng trước tòa để khẳng định tình trạng rối loạn tâm thần của George. Vẫn đang mâu thuẫn tiền bạc, các luật sư lĩnh và thủ luôn khoản tiền từ chi phiếu thay vì dùng nó làm bằng chứng.
George bị kết tội [6] với mức án tử hình. Đến thời điểm EJI chúng tôi can thiệp, George đã ngồi ở trại tử tù được vài năm, mỗi ngày anh lại tiến gần hơn tới cuộc xử tử không thể nào tránh khỏi. Khi tôi gặp anh, các bác sĩ trong tù đang kê cho anh rất nhiều thuốc hướng thần để chí ít có thể ổn định hành vi của anh. Chuyện George bị tâm thần đã rõ mười mươi, đến nỗi chúng tôi chẳng hề sốc khi phát hiện ra tay bác sĩ chẩn đoán cho anh ở Bệnh viện Bryce là một tên lừa đảo không hề được đào tạo y khoa. “Bác sĩ Ed Seger” đã dùng bằng cấp giả. Hắn chưa bao giờ tốt nghiệp đại học nhưng đã lừa được các lãnh đạo bệnh viện tin rằng hắn là một bác sĩ được đào tạo chuyên môn về tâm thần. Trong suốt
Tôi đại diện cho George trong quá trình tố tụng tại tòa án liên bang. Tại đó, Nhà nước thừa nhận Seger là kẻ lừa đảo nhưng không đồng ý cho George được xét xử lại. Cuối cùng chúng tôi cũng giành được một phán quyết có lợi [7] từ một thẩm phán liên bang, nhờ đó bản án của George được lật lại. Vì có bệnh tâm thần và mất năng lực, George không bao giờ bị xét xử lại hay truy tố nữa. Anh sống tại một viện tâm thần từ đó đến nay. Có lẽ vẫn còn hàng trăm người khác nữa bị cầm tù vì chẩn đoán của những “Bác sĩ Seger”, song bản án của họ chưa bao giờ được xem xét lại.
Nhiều thân chủ của tôi ở trại tử tù mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng, nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể xác định rõ liệu có phải họ có tiền sử tâm thần trước khi vào tù hay không, bởi các triệu chứng bệnh có thể biểu hiện ngắt quãng hoặc thường do stress gây ra. Thế nhưng, những lá thư viết tay của Avery Jenkins với cỡ chữ li ti buộc tôi phải dùng tới kính lúp để đọc đã thuyết phục tôi rằng anh đã bệnh từ rất lâu rồi.
Tôi tìm hiểu vụ án của anh và bắt đầu xâu chuỗi các sự kiện. Hóa ra anh bị kết án vì sát hại dã man một ông lão. Những nhát đâm liên tiếp trên người nạn nhân có thể là minh chứng cho chứng rối loạn tâm thần, nhưng hồ sơ và biên bản phiên tòa không đề cập lời nào về bệnh tình của Jenkins. Tôi nghĩ mình sẽ hiểu rõ hơn sự tình khi tới gặp anh trực tiếp.
Khi lái xe vào bãi xe của nhà tù, tôi để ý thấy một chiếc xe bán tải trông như một tượng đài của Miền Nam Cũ*: Nó phủ đầy những tấm dán ghê rợn, đề can in cờ Liên minh miền Nam Hoa Kỳ và những hình ảnh khó chịu khác. Biển số xe in hình cờ Liên minh quả thật rất thịnh hành ở miền Nam, nhưng tôi chưa bao giờ thấy mấy tấm dán như thế này. Nhiều tấm ghi các khẩu hiệu về súng ống và thể hiện bản sắc miền Nam. Một tấm viết, “NẾU BIẾT MỌI SỰ THÀNH RA THẾ NÀY, THÌ TA ĐÃ TỰ ĐI HÁI ĐÁM BÔNG MẮC DỊCH”*. Mặc dù lớn lên với những hình ảnh của Liên minh và đã làm việc nhiều năm ở miền Thâm Nam, tôi vẫn cảm thấy ớn lạnh trước những biểu tượng như thế.
Nguyên văn: the Old South, là từ chỉ miền Nam Hoa Kỳ trước cuộc Nội chiến (1861-1865). (B.B.T.)
Đây là câu nói mang hàm ý sỉ nhục người da đen, tạm hiểu là “nếu biết dân mọi sẽ được thả tự do để rồi phá hỏng mọi thứ, thì ta đã chẳng bắt chúng làm nô lệ mà tự mình hái bông còn hơn.”(ND.)
Tôi luôn đặc biệt hứng thú với lịch sử Hoa Kỳ thời hậu Tái thiết. Bà tôi là con gái của những người nô lệ. Bà sinh ra ở Virginia vào những năm 1880 sau khi quân đội liên bang rút đi, đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ bạo lực và khủng bố thống trị nhằm xóa bỏ tất cả các quyền chính trị, xã hội của người Mỹ gốc Phi. Cụ ông đã kể cho bà nghe chuyện về những người da đen mới được giải phóng nghiễm nhiên bị bắt trở lại làm nô lệ cho các cựu sĩ quan của Liên minh; bọn họ đã dùng bạo lực, những lời đe dọa, những vụ hành hình và chế độ làm thuê công nhật để đẩy những người gốc Phi ra ngoài lề, và không cách gì ngóc đầu lên được. Các cụ cảm thấy vô cùng cay đắng khi giấc mơ tự do và bình đẳng sau chế độ nô lệ đã tan vỡ khi những người miền Nam da trắng theo đảng Dân chủ giành lại được quyền lực chính trị bằng bạo lực.
Những nhóm khủng bố như Ku Klux Klan khoác trên mình những biểu tượng của Liên minh miền Nam để đe dọa và hãm hại hàng nghìn người da đen. Không gì làm cộng đồng da đen ở các miền quê hoang mang cho bằng những tin đồn về một hoạt động của Klan xảy ra gần đó. Trong một trăm năm, bất cứ dấu hiệu tiến bộ nào của người da đen ở miền Nam cũng đều gặp phải phản ứng của người da trắng, lần nào cũng là với những biểu tượng của Liên minh và lời kêu gọi phản kháng. Tại thời khắc chuyển giao thế kỷ, không lâu sau khi người da trắng viết lại hiến pháp bang để đảm bảo vị trí thượng tôn của họ, Ngày Kỷ niệm Liên minh [8] được tuyên bố là ngày lễ của bang Alabama. (Ngày nay, người ta vẫn kỷ niệm ngày lễ này). Khi những cựu binh da đen trở về [9] miền Nam sau Chiến tranh Thế giới thứ II, các chính trị gia miền Nam thành lập khối “Dixiecrat” để duy trì sự phân rẽ chủng tộc và đảm bảo địa vị thống trị của người da trắng vì mối lo ngại rằng thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự có thể sẽ khuyến khích các cựu binh da đen đặt câu hỏi về tình trạng phân biệt chủng tộc. Trong những năm 1950 và 1960, phong trào dân quyền và các đạo luật liên bang mới lại kích thích thái độ phản kháng đối với những tiến bộ chủng tộc, khiến việc sử dụng các hình ảnh của Liên minh gia tăng đột biến. Trên thực tế, trong thập niên 1950 [10] , sau khi sự phân rẽ chủng tộc trong các trường công lập được tuyên bố là vi hiến trong vụ
Tại một phiên tòa tiền xét xử, tôi đã lên tiếng phản đối hành động loại người Mỹ gốc Phi ra khỏi danh sách ứng viên bồi thẩm đoàn. Riêng ở cộng đồng nông thôn miền Nam đó, người da đen chiếm khoảng 27% dân số nhưng chỉ chiếm 10% trong danh sách ứng viên bồi thẩm. Sau khi tôi trình bày số liệu và lập luận về tính vi hiến khi loại trừ người Mỹ gốc Phi, thẩm phán to tiếng.
“Tôi sẽ chấp nhận đề nghị của anh, anh Stevenson ạ, nhưng tôi nói thật, tôi đã quá ngán những người suốt ngày lải nhải về quyền của người thiểu số. Nào là người Mỹ gốc Phi, người Mỹ gốc Mexico, người Mỹ gốc Á, người Mỹ bản địa... Bao giờ thì mới có người tới phòng xử của tôi để bảo vệ quyền của những người Mỹ trong Liên minh?” Tôi sững người trước câu hỏi của vị thẩm phán. Tôi rất muốn hỏi nếu tôi sinh ra ở miền Nam hoặc sống ở Alabama thì tôi có được coi là người Mỹ trong Liên minh không, nhưng tôi kịp kiềm lại.
Tôi dừng lại ở sân nhà tù để quan sát chiếc xe tải kỹ hơn. Tôi tò mò đi vòng quanh nó và đọc những tấm đề can đầy khiêu khích. Rồi tôi quay lại cổng chính nhà tù, cố gắng tập trung vào việc chính, nhưng không thể thờ ơ với những thứ mà tôi cho là biểu tượng của sự áp bức chủng tộc. Tôi đã tới nhà tù này thường xuyên đủ để quen mặt nhiều nhân viên cải huấn, nhưng lần này, tôi gặp một nhân viên tôi chưa thấy mặt bao giờ. Đó là một người da trắng cao tầm như tôi, khoảng mét tám, cơ bắp cuồn cuộn. Anh ta chắc khoảng ngoài bốn mươi, tóc cắt ngắn kiểu nhà binh. Anh ta nhìn tôi lạnh tanh với đôi mắt xanh ánh thép. Tôi đi về phía cánh cổng dẫn tới hành lang phòng thăm viếng, nơi tôi đoán mình sẽ bị kiểm tra trước khi vào phòng. Tay nhân viên nhảy ra trước mặt tôi, chặn đường không cho tôi đi tiếp.
“Anh làm gì ở đây?” Gã gầm ghè.
“Tôi có một buổi gặp pháp lý.” Tôi trả lời. “Tôi đã hẹn lịch từ trước rồi. Mọi người ở văn phòng quản lý có lưu giấy tờ.” Tôi mỉm cười và nói lịch sự hết mức có thể để làm dịu tình hình.
“Được rồi, được rồi, nhưng anh phải khám người trước đã.”
Thật khó lờ đi thái độ thù địch trắng trợn của gã, nhưng tôi cố hết sức.
“OK, anh có cần tôi bỏ giày ra không?” Các nhân viên khó tính thỉnh thoảng vẫn bắt tôi cởi giày trước khi vào trong.
“Anh phải đi vào phòng tắm đằng kia và cởi hết ra nếu anh muốn vào nhà tù của tôi nhé.”
Tôi bị sốc nhưng vẫn cố nói chuyện tử tế. “À không, thưa anh. Tôi nghĩ có thể anh đã nhầm. Tôi là luật sư. Luật sư không phải khám truồng khi đến nhà tù tư vấn pháp lý.”
Thay vì trấn tĩnh, điều này dường như lại làm gã điên tiết hơn. “Này, tôi không biết anh nghĩ mình là ai, nhưng anh không thể vào nhà tù của tôi mà không tuân theo quy tắc an ninh của chúng tôi. Bây giờ, anh vào phòng tắm kia và cởi đồ ra, không thì mời anh quay lại bất cứ xó nào mà anh đã xuất phát nhé.”
Tôi đã có vài lần va chạm với các nhân viên khi tới nhà tù, chuyện này chủ yếu xảy ra ở các trại giam nhỏ của hạt hoặc những nơi tôi chưa đến bao giờ, nhưng lần này thực sự bất thường.
“Tôi đã tới nhà tù này nhiều lần nhưng chưa bao giờ bị yêu cầu khám truồng. Tôi không nghĩ đó là quy tắc.” Tôi khẳng định chắc chắn.
“Được, tôi không biết và cũng chẳng quan tâm những người khác làm như thế nào, nhưng đây là quy tắc tôi theo.”
Tôi định cố tìm một giám thị phụ tá nhưng nghĩ như vậy cũng khó, vì dù sao một giám thị phụ tá sẽ không thể bảo với một cán bộ là anh ta sai ngay trước mặt tôi. Tôi đã mất hai giờ lái xe tới đây và lịch làm việc trong ba tuần tới của tôi đã kín đặc; tôi sẽ không thể quay lại nhà tù này sớm nếu hôm nay tôi không vào được. Tôi vào phòng tắm và cởi quần áo. Gã nhân viên bước vào, rà soát thô bạo rồi lẩm bẩm cho tôi qua. Tôi mặc lại comple và đi ra ngoài.
“Tôi muốn vào phòng thăm viếng ngay bây giờ.” Tôi nói với giọng cứng rắn hơn, cố giành lại chút phẩm giá.
“Này, anh phải quay lại ký sổ đã.”
Gã nói giọng tử tế nhưng rõ ràng là đang tìm cách gây khó dễ cho tôi. Nhà tù có một quyển nhật ký thăm nuôi để người nhà phạm nhân ký vào, nhưng cuốn sổ đó không phải để dành cho các buổi gặp pháp lý. Tôi đã ký vào sổ luật sư, chẳng có lý gì để tôi ký vào một quyển sổ nữa.
“Luật sư không cần ký quyển sổ đó...”
“Nếu anh muốn vào nhà tù của tôi, anh sẽ phải ký vào đây.” Hình như gã đang cười khẩy. Tôi phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh.
Tôi quay người đi về phía quyển sổ rồi ký tên. Tôi quay lại chờ trước cửa phòng thăm viếng. Phải mở chiếc khóa móc trên cánh cửa căn phòng bằng kính thì tôi mới vào gặp thân chủ được. Cuối cùng viên quản giáo cũng rút chìa khóa. Tôi đứng đó, lòng thầm mong mình sẽ vào được mà không bị hoạnh họe gì nữa. Cửa mở, tôi bước vào nhưng bị gã tóm lấy cánh tay chặn lại. Gã gằn giọng.
“Này, anh có thấy chiếc xe tải ở ngoài sân khu thăm viếng không? Chiếc xe có rất nhiều miếng dán, cờ và một cái giá súng ấy?
Tôi thận trọng trả lời. “Có, tôi có thấy chiếc xe đó.”
Gã nghiêm mặt rồi nói. “Tôi muốn anh biết đấy là xe của tôi.” Gã bỏ tay ra và để tôi bước vào phòng. Tôi rất tức gã, nhưng tôi thậm chí còn bực hơn vì sự bất lực của mình. Rồi tôi quên chuyện đó khi cửa sau phòng thăm viếng hé mở và Jenkins được một nhân viên khác dẫn vào.
Jenkins là một người gốc Phi thấp lùn, tóc húi cua. Anh nắm tay tôi bằng cả hai bàn tay và cười toét miệng khi ngồi xuống. Anh có vẻ vui lạ thường khi gặp tôi.
“Anh Jenkins, tôi là Bryan Stevenson. Tôi là luật sư mà anh đã nói chuyện...”
“Anh có mang sữa lắc sôcôla cho tôi không?” Anh nói rất nhanh.
“Tôi xin lỗi, anh nói gì cơ?”
Anh vẫn cười nhăn nhở. “Anh có mang sữa lắc sôcôla cho tôi không? Tôi muốn uống sữa lắc sôcôla.”
Chặng đường dài, chiếc xe tải Liên minh, sự sách nhiễu của viên cai tù, và bây giờ là yêu cầu uống sữa lắc - đây đúng là một ngày kỳ cục. Tôi không giấu được vẻ sốt ruột.
“Không, anh Jenkins, tôi không mang sữa lắc sôcôla. Tôi là luật sư. Tôi đến đây để giúp anh trong vụ việc này và sẽ cố gắng để anh được xét xử lại. Được chứ? Đấy là lý do tại sao tôi ở đây. Bây giờ tôi muốn hỏi anh mấy câu để hiểu rõ chuyện đã xảy ra.”
Tôi thấy nụ cười tắt ngấm khỏi gương mặt anh. Tôi bắt đầu hỏi, và anh trả lời nhát gừng, thỉnh thoảng anh chỉ lẩm bẩm có hoặc không. Tôi nhận ra anh vẫn đang nghĩ về sữa lắc sôcôla. Xích mích với viên quản giáo làm tôi quên mất chứng rối loạn tâm thần ở người đàn ông này có thể trầm trọng đến độ nào. Tôi dừng cuộc phỏng vấn và chúi người về trước.
“Anh Jenkins, tôi thật sự xin lỗi. Tôi không biết anh muốn tôi mang sữa lắc sôcôla. Nếu tôi biết thì tôi đã cố gắng mang rồi. Tôi hứa lần sau đến đây, nếu họ cho phép, tôi sẽ mang sữa lắc sôcôla cho anh. Được chứ?”
Với lời hứa đó, nụ cười của anh trở lại, tâm trạng của anh sáng sủa hơn. Hồ sơ thụ án của anh cho thấy anh thường lên cơn rối loạn tâm thần, mỗi lần như thế anh lại la hét hàng giờ liền. Trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, anh khá tử tế và nhẹ nhàng nhưng rõ là anh có bệnh. Tôi không hiểu tại sao biên bản xét xử không hề đề cập đến căn bệnh tâm thần của anh, nhưng sau vụ việc của George Daniel, không điều gì làm tôi ngạc nhiên nữa. Khi tôi quay lại văn phòng, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu kỹ hơn về thân thế của Jenkins. Chúng tôi tìm ra những câu chuyện hết sức đau lòng. Cha anh bị giết hại trước khi anh ra đời, còn mẹ anh chết vì dùng ma túy quá liều khi anh mới một tuổi. Anh đã sống trong trại trẻ mồ côi từ khi lên hai. Tuổi thơ trong trại trẻ của anh rất khủng khiếp; chưa đầy tám tuổi mà anh đã phải sống ở mười chín trại trẻ khác nhau. Từ nhỏ anh đã có những biểu hiện chậm phát triển trí tuệ. Anh bị suy giảm nhận thức - dấu hiệu của tổn thương não, và có một số vấn đề về hành vi – dấu hiệu của tâm thần phân liệt, cùng các chứng bệnh tâm thần nghiêm trọng khác.
Lên mười tuổi, Avery sống với một cặp cha mẹ nuôi rất ác nghiệt, những nguyên tắc cứng nhắc của họ thường xuyên làm khổ cậu. Cậu không thể đáp ứng tất cả những yêu cầu được đặt ra, vì vậy cậu liên tục bị nhốt trong phòng kín, bị bỏ đói, đánh đập, hành hạ thân thể. Khi hành vi của cậu không cải thiện, người mẹ nuôi quyết định tống khứ cậu đi. Bà ta đưa cậu vào rừng, trói cậu vào gốc cây và bỏ mặc cậu ở đó. Ba ngày sau, những người thợ săn tìm thấy cậu trong tình trạng sức khỏe suy kiệt. Sau khi bình phục khỏi những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng sau vụ bỏ rơi, cậu được giao nộp cho nhà chức trách, rồi bị gửi trở lại trại trẻ mồ côi. Năm mười ba tuổi, cậu bắt đầu lạm dụng rượu và ma túy. Năm mười lăm tuổi, cậu bắt đầu bị động kinh và rối loạn tâm thần. Mười bảy tuổi, cậu được chẩn đoán mất năng lực kiểm soát hành vi và bị đẩy vào tình cảnh vô gia cư. Avery vào tù ra tội cho tới năm hai mươi tuổi, trong một cơn rối loạn tâm thần, anh lang thang vào một ngôi nhà, anh nghĩ rằng mình đang bị ác quỷ tấn công. Trong nhà, anh đâm chém dã man một người đàn ông tới chết vì tưởng ông ta là quỷ dữ. Luật sư bào chữa của Jenkins không điều tra về quá khứ của anh trước phiên xét xử, anh nhanh chóng bị luận tội giết người và kết án tử.
Nhà tù không cho phép tôi mang sữa lắc cho Jenkins. Tôi đã cố giải thích với anh, nhưng mỗi lần tôi tới thăm, câu hỏi đầu tiên của anh bao giờ cũng là về sữa lắc. Tôi nói tôi sẽ tiếp tục cố gắng - tôi phải hứa như vậy, để anh có thể tập trung vào việc chính. Nhiều tháng sau, cuối cùng chúng tôi cũng được sắp xếp cho một phiên tòa để trình bày những bằng chứng về bệnh tâm thần nghiêm trọng của anh, những tài liệu mà đáng ra phải được trình bày trong phiên sơ thẩm. Chúng tôi đồ rằng những luật sư của anh đã bào chữa không hiệu quả trước tòa vì không tìm hiểu và trình bày về quá khứ cũng như bệnh tình của Avery để tác động đến bản án.
Khi tới tòa án cách nhà tù khoảng ba giờ xe, tôi tìm gặp Avery lúc này đang ở buồng tạm giam dưới tầng hầm. Sau khi hoàn thành nghi thức sữa lắc như thường lệ, tôi cố gắng giải thích cho anh hiểu những gì sẽ diễn ra trong phiên tòa. Tôi lo anh sẽ bị kinh động khi trông thấy một số nhân chứng, những người đã quản lý anh thời ở trại trẻ mồ côi. Các chuyên gia cũng sẽ cung cấp những lời khai rất trực diện về tình trạng khuyết tật và bệnh tình của anh. Tôi muốn anh hiểu vì sao chúng tôi phải làm thế. Anh vui vẻ bằng lòng, như mọi khi.
Khi bước lên cầu thang tới phòng xử, tôi trông thấy viên cán bộ cải huấn đã sách nhiễu vào lần đầu tiên tôi gặp Avery. Từ sau vụ va chạm khó chịu đó, tôi chưa gặp lại gã lần nào. Tôi hỏi những thân chủ khác và được biết gã khét tiếng và thường làm ca tối. Đa số mọi người đều cố tránh mặt gã. Chắc hẳn gã đã được giao nhiệm vụ áp giải Avery tới tòa; tôi lo lắng không biết Avery đã bị đối xử như thế nào trong chuyến đi, nhưng có vẻ anh vẫn bình thường.
Trong ba ngày sau đó, chúng tôi trình bày những chứng cứ về thân thế của Avery. Các chuyên gia đã rất tuyệt vời khi trình bày về bệnh trạng của Avery. Họ không thiên vị hay có thành kiến gì, mà chỉ miêu tả rất thuyết phục về việc chứng tổn thương não hữu cơ, tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực có thể hiệp lực gây ra tình trạng suy giảm tâm thần nghiêm trọng như thế nào. Họ giải thích rằng chứng loạn tâm thần và các vấn đề sức khỏe tâm trí nghiêm trọng khác của Jenkins có thể dẫn tới hành vi nguy hiểm, nhưng hành vi đó là một biểu hiện của bệnh chứ không phản ánh nhân cách của anh. Chúng tôi cũng đưa ra bằng chứng cho thấy hệ thống chăm sóc trẻ cơ nhỡ đã làm hỏng Avery ra sao. Một số cặp cha mẹ nuôi của Avery về sau đã bị kết tội lạm dụng tình dục và ngược đãi con nuôi. Chúng tôi trình bày về quá trình Avery bị đá từ nơi bất hạnh này qua nơi bất hạnh khác cho đến khi anh trở thành người nghiện ngập và vô gia cư.
Một số cặp cha mẹ nuôi thừa nhận họ cảm thấy bất lực khi nuôi Avery vì họ không được chuẩn bị để đối phó với những vấn đề sức khỏe tâm thần nghiêm trọng của anh. Tôi lập luận với tòa rằng xét xử Avery mà không chiếu cố đến tình trạng sức khỏe tâm thần của anh thì cũng tàn nhẫn như khi ta nói với một người cụt chân rằng “Anh phải tự leo lên những bậc thang này, nếu không thì anh là đồ lười,” hay nói với một người khiếm thị rằng, “Anh phải tự băng qua con đường cao tốc liên bang đông đúc này, nếu không thì anh là đồ hèn.”
Chúng ta đã có hàng trăm cách để đáp ứng nhu cầu của những người khuyết tật thể lý, hay chí ít là để hiểu họ. Chúng ta bức xúc khi nhu cầu được cảm thông và giúp đỡ tận tình của người khuyết tật thể lý không được nhìn nhận; nhưng vì khuyết tật tâm thần không hiển lộ ra theo cách như vậy, nên chúng ta có xu hướng phủ nhận nhu cầu của những người mang khuyết tật tâm thần và vội vàng phán xét khiếm khuyết cũng như thất bại của họ. Tất nhiên, hành vi sát hại dã man một người đòi hỏi Nhà nước phải buộc thủ phạm chịu trách nhiệm nhằm bảo vệ người dân. Nhưng hoàn toàn không đếm xỉa đến tình trạng khuyết tật của thủ phạm sẽ làm cho quá trình luận tội và xác định mức án trở nên bất công.
Tôi về nhà trong tâm trạng hài lòng về phiên tòa, nhưng sự thật là một phiên tòa hậu kết án hiếm khi đem lại phán quyết có lợi. Nếu có tin tốt, nhiều khả năng là nó sẽ tới trong phiên phúc thẩm. Tôi không trông đợi bất cứ một phán quyết kỳ diệu nào.
Khoảng một tháng sau phiên tòa, trước khi quyết định được công bố, tôi quyết định quay lại nhà tù để gặp Avery. Chúng tôi không có nhiều thời gian nói chuyện sau phiên tòa, và tôi muốn biết chắc rằng anh vẫn ổn. Trong suốt phiên tòa, anh ngồi thư thái, nhưng khi một vài cặp cha mẹ nuôi cũ bước vào phòng xử, tôi thấy mặt anh biến sắc. Tôi nghĩ chuyến thăm này của tôi sẽ có ích.
Khi vào bãi đỗ xe, một lần nữa tôi trông thấy chiếc xe tải gớm ghiếc với cờ, miếng dán, và giá súng đầy vẻ hăm dọa kia. Tôi ngại phải chạm mặt viên quản giáo đó. Y như rằng, sau khi làm xong thủ tục tại bàn thư ký, và đi về phía phòng thăm viếng, tôi thấy gã xuất hiện. Tôi chuẩn bị tinh thần để nói chuyện với gã. Và rồi một chuyện bất ngờ xảy ra.
“Xin chào, anh Stevenson. Anh khỏe không?” Viên quản giáo hỏi. Giọng gã có vẻ chân thành. Tôi thấy nghi ngờ.
“Vâng, tôi khỏe. Anh thế nào?”
Gã nhìn tôi với ánh mắt khác lần trước; gã không nhìn trừng trừng nữa mà có vẻ thực tâm muốn nói chuyện. Tôi quyết định thử gã.
“Xem này, tôi sẽ vào nhà tắm và chuẩn bị sẵn sàng để anh khám xét.”
“Ồ, anh Stevenson, đừng lo chuyện đó,” gã vội vàng trả lời. “Tôi biết anh không có vấn đề gì mà.” Giọng điệu và cách xử sự của gã đã khác hoàn toàn.
“Ồ vâng, cảm ơn anh nhiều. Vậy tôi sẽ quay lại để ký sổ nhé.”
“Anh Stevenson, anh không phải làm thế đâu. Tôi thấy anh đến nên đã ký hộ anh. Tôi đã lo xong chuyện đó rồi.” Tôi nhận thấy thực ra gã đang lúng túng.
Tôi bối rối trước sự thay đổi thái độ của gã. Tôi cảm ơn gã và tiến về phía cửa phòng thăm viếng khi gã lẽo đẽo theo sau. Gã mở khóa để tôi vào trong. Khi tôi lướt qua gã để vào phòng, gã đặt tay lên vai tôi.
“Anh này, tôi muốn nói với anh một chuyện.”
Tôi không biết gã đang ấp ủ điều gì.
“Anh biết đấy, tôi là người đưa lão Avery tới tòa án và đã ở đó cùng các anh suốt ba ngày. Và tôi, à, ờm, tôi muốn anh biết rằng tôi có nghe anh trình bày.” Gã bỏ tay khỏi vai tôi và nhìn bâng quơ như thể có thứ gì đó sau lưng tôi. “Anh biết không, tôi, à, ừm, tôi rất trân trọng những điều anh đã làm, thật đấy. Tôi cảm thấy thật khó khăn khi ở trong phòng xử đó và nghe cuộc thảo luận của các anh. Anh biết không, tôi lớn lên ở trại trẻ mồ côi. Tôi cũng lớn lên trong trại trẻ mồ côi đấy.” Nét mặt gã giãn ra. “Ôi trời, tôi tưởng không ai phải chịu khổ nhục như tôi. Họ đá tôi từ chỗ nọ sang chỗ kia như thể không ai muốn nuôi tôi. Tình cảnh của tôi khá thảm. Nhưng khi nghe anh nói về Avery, tôi mới thấy trên đời còn có những người khác cũng khổ như tôi vậy. Mà thậm chí còn khổ hơn. Ý tôi là, có mặt ở phòng xử đó làm rất nhiều ký ức của tôi quay trở lại.”
Gã rút từ trong túi ra một chiếc khăn tay để lau mồ hôi rịn ra trên lông mày. Lần đầu tiên tôi để ý thấy gã có một lá cờ Liên minh xăm trên cánh tay.
“Anh biết không, có lẽ điều tôi muốn nói đó là tôi nghĩ anh đang làm một việc rất tốt. Thời niên thiếu của tôi đầy oán hận, đến nỗi nhiều khi tôi thật sự muốn làm đau một ai đó, chỉ vì tôi oán hận quá. Tôi sống vật vã đến năm mười tám tuổi thì nhập ngũ và anh biết không, đời tôi giờ cũng tạm ổn. Nhưng ngồi trong phòng xử làm tôi nhớ lại nhiều chuyện, và tôi nhận ra tôi vẫn còn nhiều hận thù lắm.”
Tôi mỉm cười. Gã nói tiếp: “Ông bác sĩ chuyên gia mà anh mời đến nói rằng trẻ sống trong môi trường bạo hành sẽ phải chịu một số tổn thương vĩnh viễn; tôi đang lo về chuyện đó. Anh có nghĩ ông ta nói đúng không?”
“Ồ, tôi nghĩ là chúng ta luôn có thể sống tốt hơn.” Tôi bảo gã. “Những chuyện tồi tệ đã xảy ra không làm nên bản chất con người ta. Điều quan trọng là đôi khi mọi người cần hiểu về quá khứ của ta.”
Chúng tôi nói chuyện nhẹ nhàng với nhau. Một nhân viên khác đi qua, nhìn chúng tôi chằm chằm. Tôi nói tiếp: “Anh biết không, tôi rất biết ơn vì anh đã nói ra điều này. Nó rất có ý nghĩa với tôi, thật đấy. Thỉnh thoảng tôi cũng quên mất rằng có những lúc tất cả chúng ta ai cũng cần được xoa dịu.”
Gã nhìn tôi, mỉm cười, “Ở tòa anh cứ nói mãi về sự xoa dịu. Tôi đã tự hỏi anh đang làm cái quái gì khi cứ lải nhải chuyện ‘xoa dịu’. Về nhà tôi mới tra nghĩa của từ này. Lúc trước tôi không hiểu ý của anh lắm, nhưng giờ thì tôi hiểu rồi.”
Tôi cười lớn. “Đôi lúc tôi cũng chẳng biết mình đang nói gì trước tòa nữa.”
“Ồ không, tôi nghĩ anh đã làm rất tốt, tốt thật đấy.” Gã nhìn vào mắt tôi rồi chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay, và tôi đi tiếp về phía cửa. Khi tôi chuẩn bị bước vào trong thì gã lại níu cánh tay tôi một lần nữa.
“À, chờ đã. Tôi phải kể cho anh một chuyện nữa. Tôi đã làm một chuyện mà có lẽ không phải việc của tôi, nhưng tôi muốn anh biết. Trên đường từ tòa án về đây, vào ngày cuối cùng đó, ừm, tôi biết Avery thế nào mà, anh biết đấy. À thì, tôi chỉ muốn kể với anh rằng trên đường về, tôi đã lái xe ra khỏi đường cao tốc. Và, ờ, tôi đưa anh ta vào một tiệm Wendy’s và mua cho anh ta một ly sữa lắc sôcôla.”
Tôi ngờ vực nhìn gã, và gã bật cười khúc khích. Rồi gã đóng cửa để tôi ở lại phòng. Tôi quá bất ngờ trước điều gã vừa kể nên không để ý thấy một quản giáo khác đã đưa Avery tới. Lúc nhận ra Avery đã ở trong phòng, tôi tới chào anh. Tôi hơi hoảng khi anh không nói gì.
“Anh có ổn không?”
“Vâng, thưa anh, tôi ổn. Anh thế nào?” Anh hỏi.
“Vâng, anh Avery, tôi cũng ổn.” Tôi chờ nghi thức của chúng tôi bắt đầu. Anh không nói gì, tôi nghĩ vậy thì tôi sẽ nói phần của mình. “Trông này, tôi đã cố mang sữa lắc sôcôla cho anh, nhưng họ không...”
Avery ngắt lời tôi. “À, tôi có sữa lắc rồi. Tôi ổn rồi.”
Khi tôi bắt đầu nói về phiên tòa, anh cười toe toét. Chúng tôi nói chuyện suốt một giờ cho đến khi tôi phải đi gặp một thân chủ khác. Avery không bao giờ hỏi xin tôi sữa lắc sôcôla nữa. Chúng tôi giành được một phiên xử mới cho anh và sau cùng cũng đưa được anh thoát khỏi trại tử tù và tới sống ở một bệnh viện nơi anh được điều trị tâm thần. Tôi không bao giờ gặp lại viên quản giáo kia nữa; có người kể với tôi rằng gã đã nghỉ việc không lâu sau lần cuối cùng tôi trông thấy gã.