← Quay lại trang sách

Chương mười một TÔI SẼ BAY ĐI

Đó là lời đe dọa đánh bom thứ ba trong hai tháng. Tất cả nhân viên đều hoang mang trong khi khẩn trương dọn dẹp văn phòng và chờ cảnh sát đến. Chúng tôi hiện có năm luật sư, một điều tra viên và ba nhân viên hành chính. Các sinh viên luật bắt đầu đến thực tập ngắn hạn ở chỗ chúng tôi, nhờ đó chúng tôi có được sự hỗ trợ thiết thực và kịp thời cho công việc pháp lý và điều tra. Không ai trong số họ xin vào làm để nghe những lời đe dọa đánh bom này. Ai cũng muốn lờ chúng đi, nhưng hai năm trước, một luật sư dân quyền người Mỹ gốc Phi ở Savannah, Georgia, tên là Robert “Robbie” Robinson, đã thiệt mạng khi một quả bom gửi tới văn phòng luật của ông phát nổ. Cũng vào thời điểm đó, một thẩm phán tòa phúc thẩm liên bang, Robert Vance, đã thiệt mạng ở Birmingham vì một quả bom thư. Nhiều ngày sau, quả bom thứ ba được gửi tới một văn phòng dân quyền ở Florida, và quả thứ tư được gửi tới một tòa án ở Atlanta. Kẻ đánh bom có vẻ đang tấn công các chuyên gia pháp lý liên quan đến các hoạt động vì dân quyền. Chúng tôi được cảnh báo rằng mình có thể là mục tiêu, và suốt nhiều tuần liền, chúng tôi thận trọng mang chồng bưu kiện tới tòa án liên bang quét bom trước khi mở. Sau đó, những lời đe dọa đánh bom không còn là trò đùa nữa.

Tất cả mọi người tháo chạy khỏi tòa nhà, chúng tôi vừa chạy vừa thảo luận về nguy cơ bị đánh bom thật. Kẻ gọi điện đe dọa đã miêu tả chính xác tòa nhà của chúng tôi. Cô lễ tân Sharon mắng hắn. Cô là một bà mẹ trẻ có hai con nhỏ và lớn lên trong một gia đình da trắng nghèo ở nông thôn. Cô thường nói thẳng như ruột ngựa.

“Tại sao ông làm chuyện này? Ông đang làm chúng tôi sợ đấy!”

Cô bảo giọng của hắn cho thấy hắn là một người miền Nam trung tuổi, nhưng không thể miêu tả gì thêm. “Tôi sẽ mở một lối thoát cho các người,” hắn hăm dọa. “Tôi muốn các người chấm dứt việc các người đang làm. Lựa chọn số một của tôi là không giết ai cả, vì vậy các người phải cút ngay! Lần sau sẽ không còn cảnh báo nữa đâu.”

Đã một tháng trôi qua kể từ phiên tòa xử McMillian. Lần đầu tiên văn phòng bị đe dọa, kẻ gọi điện đã nói những lời lẽ sặc mùi phân biệt chủng tộc rằng y sẽ dạy cho chúng tôi một bài học. Cũng trong thời gian đó, tôi nhận được những cuộc gọi hăm dọa vào điện thoại nhà. Kẻ gọi điện thường nói, “Nếu mày nghĩ bọn tao sẽ để yên cho mày giúp thằng mọi đó thoát tội giết cô bé, thì mày cứ chờ đấy. Cả hai thằng mọi chúng mày sẽ toi đời!”

Mặc dù chúng tôi cũng đang xử lý các vụ việc khác, nhưng tôi biết chắc những cuộc gọi đó nhằm vào vụ McMillian. Trước khi phiên tòa diễn ra, Michael và tôi đã bị theo dõi mấy lần trong khi tiến hành điều tra ở hạt Monroe. Từng có một người hoảng hốt gọi cho tôi lúc đêm khuya, kể rằng có người đề nghị trả anh ta một khoản bộn để giết tôi, nhưng anh ta nói sẽ không làm thế vì trân trọng những gì chúng tôi làm. Tôi tỏ lòng cảm kích sự ủng hộ của anh ta và lịch sự cảm ơn. Khó có thể biết nên coi chuyện này nghiêm túc đến đâu, nhưng chắc chắn nghe ra nó rất rùng rợn.

Sau khi chúng tôi dọn dẹp tòa nhà, cảnh sát rà soát khắp văn phòng cùng với chó nghiệp vụ. Họ không tìm thấy quả bom nào, và một tiếng rưỡi sau khi tòa nhà vẫn chưa phát nổ, chúng tôi quay trở lại. Chúng tôi còn nhiều việc phải làm.

Bẵng đi mấy hôm, tôi nhận được một loại bom mới, lần này là một cuộc gọi từ văn phòng lục sự ở hạt Baldwin. Lục sự gọi để thông báo Thẩm phán Norton đã ra quyết định cho vụ McMillian - cô cần số fax của tôi để gửi văn bản quyết định. Tôi đọc số cho cô và hồi hộp ngồi chờ bên máy fax. Tôi lo lắng khi chỉ có ba tờ giấy tuôn ra.

Trên những trang giấy là một lệnh tòa ngắn gọn từ Thẩm phán Norton, từ chối xóa tội. Tôi thất vọng hơn là suy sụp. Tôi không ngờ đây lại là phản hồi của Thẩm phán Norton. Vì lợi ích của bản thân ở phiên tòa, ông ta không hề tỏ ra đặc biệt quan tâm tới câu hỏi cơ bản Walter có tội hay vô tội. Bị trói buộc vào vai trò duy trì và bảo vệ hệ thống, ông ta sẽ không đời nào lật lại phán quyết trước đó, kể cả khi có bằng chứng thuyết phục về sự vô tội của phạm nhân.

Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên là lệnh tòa dài hai trang rưỡi đọc rất nông cạn, hời hợt và thiếu lập luận vững chắc. Thẩm phán chỉ đề cập đến lời khai của Ralph Myers, bỏ qua tất cả những luận cứ pháp lý chúng tôi đã trình bày và lời khai của mười mấy nhân chứng khác. Toàn bộ lệnh tòa cũng không trích dẫn án lệ nào:

Ông Ralph Meyers cung cấp lời khai trước tòa, thề sẽ nói sự thật rồi rút lại hầu hết, nếu như không nói là toàn bộ, những ý liên quan trong lời khai của ông ta tại phiên tòa sơ thẩm. Rõ ràng ông Ralph Myers đã khai man trong phiên sơ thẩm, hoặc khai man trong phiên tòa này.

Để đi tới quyết định này, chúng tôi đã xem xét những vấn đề sau đây: Hành xử của nhân chứng; khả năng nhân chứng biết về những sự việc mà ông ta khai ở phiên sơ thẩm; cơ sở cho lời khai của nhân chứng trong phiên xử đầu tiên, theo như lời trình bày của ông ta; cơ sở của việc ông ta rút lại lời khai, theo như trình bày của phía bị cáo; bằng chứng cho thấy nhân chứng phải chịu sức ép từ bên ngoài trước và sau phiên sơ thẩm cũng như khi rút lại lời khai; những hành động làm tăng tính xác tín trong lời khai của nhân chứng ở phiên sơ thẩm và những hành động làm tăng tính xác tín cho việc rút lại lời khai của nhân chứng; bằng chứng được viện dẫn trong phiên sơ thẩm trái ngược với lời khai chi tiết của nhân chứng; và do bản chất của vụ việc này, bất cứ bằng chứng nào từ bất cứ nguồn nào liên quan đến khả năng nhân chứng không biết những chi tiết mà ông ta khai ở phiên sơ thẩm.

Vì phiên tòa sơ thẩm diễn ra trước khi Quý Thẩm phán tiểu bang R. E. L. Key nghỉ hưu, tòa không có cơ hội so sánh thái độ của nhân chứng khi làm chứng trong phiên sơ thẩm và lời khai rút lại của ông ta.

Quá trình xem xét những yếu tố kể trên không cho thấy bằng chứng kết luận rằng nhân chứng Ralph Myers đã khai man trong phiên sơ thẩm. Có nhiều bằng chứng cho thấy Ralph Myers đã phải chịu sức ép kể từ khi cung cấp lời khai tại phiên sơ thẩm, gây nghi ngờ đối với việc ông ta rút lại lời khai. Hoàn toàn không có bằng chứng trong biên bản xét xử hay trong lời khai rút lại cho thấy Myers đã ở một nơi nào khác ngoại trừ hiện trường vụ án vào thời điểm vụ án xảy ra.

Tòa án đã được đề nghị xem xét đưa ra quyết định liệu có bằng chứng ủng hộ giả thuyết rằng Ralph Myers đã khai man tại phiên sơ thẩm hay không và tòa kết luận rằng không có đủ bằng chứng ủng hộ giả thuyết đó, vì vậy tòa RA LỆNH, PHÂN XỬ và QUYẾT ĐỊNH rằng lời khai của Ralph Myers trong phiên sơ thẩm không phải là khai man.

Ngày 19 tháng 5 năm 1992.

THOMASB. NORTON, JR.

Thẩm phán tòa sơ thẩm tiểu bang

Quyết định của thẩm phán rất khó hiểu vì mặc dù công tố viên Chapman cho rằng Myers đã bị ép rút lại lời khai, ông ta không trình bày được bằng chứng thực tế nào ủng hộ cho lập luận đó. Tôi đã báo trước với Walter và gia đình anh rằng dù mọi người nghĩ về phiên xử tích cực như thế nào, chúng tôi có thể sẽ phải kiện lên một tòa phúc thẩm thì mới có cơ may giải oan cho anh.

Tôi lạc quan về kết quả mà chúng tôi có thể thu được tại Tòa Phúc thẩm Hình sự Alabama với những bằng chứng hiện có. Chúng tôi thường xuyên biện hộ cho các vụ việc tại tòa án này. Sau đợt bào chữa đầu tiên cho McMillian, chúng tôi đã đệ trình hơn hai mươi đơn kháng án tử hình, và tòa án bắt đầu có phản hồi với cuộc vận động của chúng tôi. Chúng tôi đã đảo ngược được bốn bản án tử hình vào năm 1990, thêm bốn bản án nữa vào năm 1991, và tới cuối năm 1992, chúng tôi đã giúp thêm tám tử tù nữa được giảm án. Mặc dù liên tục phàn nàn vì bị buộc phải ra lệnh xét xử lại hoặc giảm án, nhưng tòa vẫn đưa ra những phán quyết có lợi cho chúng tôi. Trong những năm sau đó, một số thẩm phán của tòa thường xuyên bị công kích hoặc thua cuộc trong những cuộc bầu cử tư pháp có tính chất đảng phái trước những ứng viên phê phán quyết định của tòa trong các vụ án tử hình. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn kiên trì vạch ra những sai sót có thể sửa chữa trong các bản án tử hình. Chúng tôi buộc tòa phải thực thi pháp luật trong những vụ việc đó, và khi họ từ chối, chúng tôi lại giành được lệnh giảm án từ Tòa án Tối cao Alabama và các tòa án liên bang.

Căn cứ vào những kinh nghiệm đó, tôi cho rằng chúng tôi có thể cứu được McMillian khi kháng cáo. Kể cả khi tòa không muốn phán quyết rằng Walter vô tội và phải được tha bổng, nội việc bằng chứng giải tội bị che giấu cũng đã đủ nghiêm trọng để tòa khó có thể né tránh án lệ yêu cầu xét xử lại. Dù chưa thể khẳng định điều gì, nhưng tôi giải thích với Walter rằng chúng tôi mới chỉ chớm tiếp cận một tòa án sẽ xem xét nghiệm túc các luận điểm của chúng tôi.

Michael đã tận tụy làm việc cùng chúng tôi suốt hơn hai năm. Tuy nhiên, cậu đã có kế hoạch chuyển tới San Diego để đảm nhận vai trò luật sư công cấp liên bang. Cậu không nghĩ ngợi nhiều về việc chuyển khỏi Alabama, song cậu áy náy vì rời bỏ văn phòng.

Tôi phân công một trong số các luật sư mới, Bernard Harcourt, thay thế Michael xử lý vụ Walter. Bernard giống Michael ở điểm cậu cũng thông minh, quyết tâm và cực kỳ mẫn cán. Cậu làm việc cùng tôi lần đầu khi còn là sinh viên trường Luật Harvard. Cậu ham mê công việc này đến mức cậu đã xin vị thẩm phán liên bang mà cậu phụ tá sau khi tốt nghiệp cho phép cậu rút ngắn nhiệm kỳ lục sự hai năm để nhập hội với chúng tôi ở Alabama. Vị thẩm phán đồng ý, và Bernard đến ngay trước khi Michael đi. Lớn lên ở thành phố New York trong một gia đình cha mẹ là người Pháp, cậu học trường Lycée Français de New York ở Manhattan, một trường trung học rất tự tin về triết lý giáo dục kiểu châu Âu. Sau khi tốt nghiệp Princeton, Bernard làm việc trong ngành ngân hàng một thời gian rồi mới theo học ngành luật. Cậu đã chuẩn bị cho một sự nghiệp luật sư truyền thống cho đến khi tới làm việc cùng chúng tôi vào một mùa hè và trở nên say mê những vấn đề được đặt ra trong các vụ án tử hình. Cậu và cô bạn gái Mia chuyển tới Montgomery và bị cuộc sống ở Alabama mời gọi. Sự bắt nhịp nhanh chóng vào vụ McMillian làm chuyến phiêu lưu văn hóa của Bernard trở nên lý thú ngoài sức tưởng tượng của chính cậu.

Vì được tham dự phiên tòa, mọi người trong cộng đồng bắt đầu thảo luận về những điều chúng tôi trình bày trước tòa, và cũng nhờ nó, thêm nhiều người dám đứng lên cung cấp những thông tin hữu ích. Nhiều người liên hệ với chúng tôi, tiết lộ đủ điều về tình trạng tham nhũng và các sai phạm. Chỉ số ít thông tin trong đó có ích cho nỗ lực giải cứu Walter, nhưng tất cả đều thú vị. Bernard và tôi tiếp tục lần theo các manh mối và phỏng vấn những người am tường cuộc sống ở hạt Monroe.

Những lời đe dọa nhằm vào chúng tôi khiến tôi lo lắng về sự thù ghét mà Walter sẽ phải hứng chịu nếu anh được phóng thích. Tôi không khỏi băn khoăn liệu anh có thể sống an toàn trong một cộng đồng nơi mọi người đều tin rằng anh là một tên sát nhân nguy hiểm. Chúng tôi bắt đầu thảo luận ý tưởng tiếp cận một số người có thể giúp chúng tôi gây tiếng vang cho bản án oan đầy bất công của McMillian như một cách để chuẩn bị cho việc anh được tha bổng. Nếu công chúng biết những điều chúng tôi biết, con đường trở về với tự do của anh sẽ bớt trắc trở hơn. Chúng tôi muốn họ hiểu một sự thật đơn giản: Walter không gây ra vụ giết người đó. Anh không cần phải sử dụng kẽ hở luật pháp hay mánh lới gì để được trả tự do. Chỉ một thứ công lý giản dị thôi cũng có thể đem lại tự do cho anh - anh là người vô tội.

Một mặt thì như vậy, song mặt khác tôi không chắc sự chú ý của giới truyền thông sẽ giúp chúng tôi giành chiến thắng trong vụ kiện đang chờ xử ở Tòa Phúc thẩm Hình sự. Trên thực tế, hồi còn là thống đốc bang Alabama, vị chánh án của tòa này, John Patterson, đã kiện tờ New York Times khi tờ này đưa tin về Phong trào Dân quyền. Đó là chiến thuật mà các chính khách miền Nam thường áp dụng trong thời kỳ diễn ra những cuộc biểu tình dân quyền: Họ kiện các đơn vị truyền thông trong nước tội vu khống nếu các đơn vị này đưa tin có thiện cảm về các nhà hoạt động, hoặc miêu tả tiêu cực về các chính khách và nhà thực thi pháp luật miền Nam. Các thẩm phán và bồi thẩm đoàn da trắng của các tòa án ở các bang miền Nam luôn trong tư thế sẵn sàng ra phán quyết có lợi cho những quan chức địa phương bị “vu khống”, giúp nhà chức trách thắng kiện hàng triệu đô-la. Nghiêm trọng hơn, những vụ kiện tội vu khống đã làm chùn bước những tờ báo đưa tin ủng hộ phong trào dân quyền.

Năm 1960, New York Times đăng một mẫu quảng cáo với tựa đề “Hãy nghe họ lên tiếng” để gây quỹ ủng hộ Tiến sĩ Martin Luther King Jr. trước cáo buộc khai man nhằm vào ông ở Alabama. Các quan chức miền Nam phản ứng bằng cách công kích và kiện tờ báo. Ủy viên An ninh Công cộng L. B. Sullivan và Thống đốc Patterson cho rằng mình bị tờ báo vu khống. Bồi thẩm đoàn địa phương xử họ thắng kiện nửa triệu đô-la, và vụ việc được kháng cáo lên tận Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.

Trong một phán quyết mang tính chất bước ngoặt [1] , vụ New York Times v. Sullivan đã làm thay đổi tiêu chí kết tội vu khống và bôi nhọ bằng cách yêu cầu nguyên đơn chứng minh sự ác ý của bị đơn - nghĩa là nguyên đơn phải đưa ra được bằng chứng cho thấy tạp chí thực sự biết rằng tuyên bố của họ là sai. Phán quyết này đánh dấu chiến thắng trọng đại của tự do báo chí, khích lệ các đơn vị truyền thông và xuất bản đưa tin chân thực về các cuộc biểu tình và vận động dân quyền. Nhưng ở miền Nam, nó khiến báo chí quốc gia bị khinh miệt thêm, và sự thù ghét đó còn kéo dài đến mãi sau Thời kỳ Dân quyền. Tôi đoan chắc, việc báo chí quốc gia đưa tin về Walter sẽ không giúp ích gì cho vụ kiện của chúng tôi tại Tòa Phúc thẩm Hình sự.

Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ nếu công chúng hiểu rõ hơn về vụ giết người và bản án mà Walter phải mang, cuộc sống của anh sau khi ra tù - giả sử chúng tôi có thể lật ngược bản án - sẽ đỡ rủi ro hơn. Chúng tôi cảm thấy mình phải nắm bắt cơ hội và đưa câu chuyện ra ánh sáng. Tôi lo cộng đồng địa phương không có được bức tranh toàn cảnh về những điều đang diễn ra. Ngoài sự thù hằn mà chúng tôi e rằng Walter sẽ phải đối mặt nếu được thả, chúng tôi cũng lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tòa ra lệnh xét xử lại. Những tin tức đầy định kiến sẽ khiến một phiên xử công bằng gần như là bất khả. Báo chí địa phương ở hạt Monroe và Mobile đã xây dựng hình ảnh Walter như ác quỷ và ngang nhiên khẳng định bản án dành cho anh là đáng tin cậy và hình phạt xử tử đối với anh là thích đáng.

Các tờ báo này dựng nên hình tượng Walter như một tay buôn ma túy nguy hiểm có thể từng giết một vài thanh thiếu niên vô tội. Những tờ báo ở Monroeville và Mobile vô tư khẳng định Walter là “trùm ma túy”, “gã thú tính”, và “trùm băng đảng”. Khi anh mới bị bắt [2] , tựa đề nhiều bài báo địa phương nhấn mạnh cáo buộc Walter có hành vi xâm hại tình dục bệnh hoạn đối với Ralph Myers. “McMillian bị buộc tội kê gian” là một tựa báo thu hút đông đảo sự chú ý. Khi đưa tin về các phiên tòa, tờ Monroe Journal tập trung vào sự nguy hiểm của Walter: “Đã thành lệ trong tất cả các phiên tố tụng đối với McMillian, những người tới phòng xử phải đi qua máy dò kim loại [3] , và các nhân viên an ninh đứng canh đầy trong phòng.” Mặc dù tất cả những bằng chứng được trình bày trong phiên tòa [4] đều cho thấy Walter không hề liên can đến vụ sát hại Pittman, báo chí địa phương vẫn lôi vụ này ra để thổi phồng nỗi khiếp sợ đối với Walter. “Truy nã tên sát nhân bị buộc tội trong vụ giết người ở East Brewton” [5] là một tựa báo buổi sớm của tờ báo thành phố Brewton. “Ronda không phải là cô gái duy nhất bị sát hại” là tít đầu của tờ Mobile Press Register sau phiên tòa của chúng tôi. Tờ báo của hạt Mobile đưa tin sau phiên tòa: “Theo các nhà thực thi pháp luật, Myers và McMillian [6] là những mắt xích trong một đường dây trộm cắp, giả mạo giấy tờ và buôn lậu ma túy hoạt động tại một số hạt ở Nam Alabama. McMillian là kẻ cầm đầu băng đảng.” Với việc tập trung đưa tin từ chuyện Walter bị giam ở trại tử tù trước khi xét xử cho tới chuyện an ninh được siết chặt tại các buổi hầu tòa của anh, báo chí đã đưa ra một thông điệp rõ ràng: Con người này cực kỳ nguy hiểm.

Tới thời điểm này, dân tình hầu như không còn quan tâm đến sự thật xung quanh tội ác nữa. Tại phiên tòa mới nhất ở hạt Baldwin, những người ủng hộ Nhà nước đã ra về sớm thay vì ở lại nghe bằng chứng vô tội của Walter. Tuy rủi ro, nhưng chúng tôi hy vọng sự kiện báo chí trong nước đưa tin về câu chuyện từ góc nhìn của chúng tôi sẽ làm thay đổi ấn tượng của công chúng.

Một năm trước, Walt Harrington, một phóng viên của tờ Washington Post, đã tới Alabama để viết bài về công việc của chúng tôi và được nghe tôi kể về vụ án McMillian. Anh chuyển thông tin đó cho một người đồng nghiệp tên là Pete Early, anh này liên hệ với tôi và lập tức tỏ ra hứng thú với câu chuyện. Sau khi đọc các biên bản và hồ sơ do chúng tôi cung cấp, anh lao vào vụ việc, dành thời gian nói chuyện với một số người liên quan và nhanh chóng chia sẻ với chúng tôi sự kinh ngạc trước chuyện Walter bị kết án chỉ vì những bằng chứng vô lý như vậy.

Trong năm đó, tôi có một bài diễn thuyết ở trường Luật Yale; một nhà sản xuất của chương trình 60 Phút, một chương trình điều tra rất được ưa chuộng trên đài CBS, đã tới dự buổi nói chuyện, rồi gọi điện cho tôi. Từ mấy năm trước, nhiều chương trình bình luận thời sự đã gọi điện bày tỏ mong muốn đưa tin về công việc của chúng tôi, nhưng tôi khá thận trọng. Cảm nhận chung của tôi là việc báo chí đưa tin hiếm khi giúp được các thân chủ. Ngoài tâm lý ghét truyền thông nói chung ở miền Nam, quan điểm về án tử hình cũng phân cực. Đó là một chủ đề nhạy cảm chính trị đến nỗi những bài báo tỏ thái độ cảm thông với tử tù luôn luôn vấp phải phản ứng của độc giả địa phương, gây rắc rối thêm cho thân chủ và vụ việc. Dù đôi khi các thân chủ muốn được truyền thông chú ý, song tôi vẫn hết sức dè dặt trong việc trả lời phỏng vấn về những vụ việc chưa ngã ngũ. Tôi biết quá nhiều trường hợp trong đó một hồ sơ đẹp trên truyền thông lại vô tình gây hấn, đẩy nhanh ngày xử tử hoặc dẫn tới những hành động trả đũa, khiến tình hình tồi tệ hơn nhiều.

Mùa hè năm đó, chúng tôi gửi đơn kháng nghị lên Tòa Phúc thẩm Hình sự. Không còn chút băn khoăn nào về sự thật nữa, tôi quyết định tham gia chương trình 60 Phút. Phóng viên kỳ cựu Ed Bradley và nhà sản xuất David Gelber từ thành phố New York tới Monroeville vào một ngày tháng Bảy nóng gần 38 độ C, phỏng vấn nhiều người mà lời khai của họ đã được chúng tôi trình bày tại tòa. Họ nói chuyện với Walter, Ralph Myers, Karen Kelly, Darnell Houston, Clay Kast, Jimmy Williams, gia đình Walter, và Woodrow Ikner. Họ đối chất với Bill Hooks ngay tại chỗ làm của anh ta và thực hiện một cuộc phỏng vấn chi tiết với Tommy Chapman. Tin đồn về sự xuất hiện của siêu sao thời sự Ed Bradley ở thị trấn lan đi nhanh chóng, làm các quan chức địa phương lo ngại. Tờ Monroe Journal viết:

Quá nhiều nhà báo từ nơi khác đến [7] ngang nhiên tỏ thái độ coi thường những người dân và cơ quan họ gặp ở đây trong một nỗ lực thiển cận nhằm thu thập chứng cứ. Tệ hơn nữa, một số chứng cứ đó đã được chứng minh là sai sự thật, chúng ta không cần thêm bất cứ tin tức nào thuộc thể loại “đại nhà báo tới chốn quê mùa” như vậy nữa.

Thậm chí trước khi chương trình được phát sóng, có vẻ như truyền thông địa phương cũng đã kêu gọi cộng đồng không tin bất cứ tin tức gì họ nghe được về vụ việc. Trong bài “CBS điều tra vụ giết người”, một phóng viên địa phương của tờ Monroe Journal viết, “Công tố viên hạt Monroe Tommy Chapman cho biết ông tin rằng các nhà điều tra của chương trình bình luận 60 Phút của đài CBS đã bị nhồi sọ trước khi đến đây.” Chapman còn tung ra một tấm ảnh chụp Walter với mái tóc bù xù và râu quai nón lúc mới bị bắt, hình ảnh mà Chapman nghĩ sẽ chứng tỏ anh là một tội phạm nguy hiểm. “Người mà họ phỏng vấn ở nhà tù Holman không phải là người bị Cảnh sát trưởng Tate bắt giữ vì tội ác giết người này,” Chapman giải thích. Tờ báo cũng nói thêm rằng Chapman đã cung cấp [8] cho CBS bức ảnh của McMillian “thật” chụp vào thời điểm anh bị bắt giữ, nhưng họ “không quan tâm”. Tù nhân ở Alabama buộc phải cạo nhẵn râu tóc, do đó đương nhiên Walter trước kia không giống với lúc anh được phỏng vấn trước máy quay.

Khi chương trình 60 Phút phát sóng nhiều tháng sau đó, các quan chức địa phương lập tức phủ nhận. Tít đầu trên tờ Mobile Press Register viết “Công tố viên bang: Chương trình truyền hình về bản án của McMillian là một sự ‘xúc phạm’”; bài báo dẫn lời Chapman: “Việc họ vỗ ngực tự nhận mình là một chương trình truyền hình danh tiếng là không thể tin được và vô trách nhiệm.” Sự công khai vụ việc trên truyền hình được cho là đã xoáy thêm vào nỗi đau của cha mẹ Ronda Morrison. Các nhà báo địa phương quan ngại [9] rằng gia đình Morrison đang phải lo lắng và đối phó với sức ép vì sự nổi tiếng của vụ việc “có thể khiến nhiều người tin McMillian vô tội”.

Truyền thông địa phương hăm hở hùa theo các công tố viên phê phán chương trình 60 Phút vì nó tác động đến việc đưa tin của họ, vốn chỉ trình bày giả thuyết và miêu tả Walter cùng vụ việc từ quan điểm của bên truy tố. Song nhiều người dân địa phương lại thích xem 60 Phút và thường tin tưởng chương trình này. Bất chấp phản ứng của truyền thông địa phương, chương trình của CBS đã cung cấp cho cộng đồng một bản tóm tắt những bằng chứng mà chúng tôi trình bày trước tòa, khơi gợi những câu hỏi và nghi vấn về tội trạng của Walter. Một số nhà lãnh đạo có ảnh hưởng trong các cộng đồng địa phương cho rằng sự việc này làm cho Monroeville trở nên lạc hậu và có vẻ phân biệt chủng tộc, ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh của cộng đồng và cản trở những nỗ lực thu hút đầu tư. Các chủ doanh nghiệp bắt đầu đặt những câu hỏi hóc búa cho Chapman và các nhà chấp pháp về diễn tiến của vụ việc.

Người dân da đen vô cùng phấn khởi khi được xem những tin tức chân thực về vụ án. Họ đã xì xào về bản án oan của Walter suốt nhiều năm. Vụ án ám ảnh cộng đồng người da đen đến nỗi nhiều người đã hồi hộp dõi theo từng diễn biến và phán quyết của tòa. Chúng tôi thường xuyên nhận được những cuộc gọi chỉ để xin cập nhật tình hình. Một số người thậm chí còn muốn xác minh một chi tiết mà họ đã tranh luận gay gắt trong hiệu cắt tóc hay tại một buổi tụ tập. Đối với nhiều người da đen trong vùng, được xem trên truyền hình quốc gia những bằng chứng chúng tôi trình bày trước tòa chẳng khác gì một cách trị liệu.

Trong cuộc phỏng vấn của 60 Phút với Chapman, ông ta phủ nhận, coi cáo buộc rằng quá trình truy tố Walter McMillian có sự phân biệt chủng tộc là ngớ ngẩn. Ông ta bình tĩnh khẳng định một cách tự tin và chắc chắn rằng McMillian có tội và nên bị xử tử càng sớm càng tốt. Ông ta bày tỏ sự khinh thị đối với các luật sư của Walter và “những người đang cố chỉ trích bồi thẩm đoàn”.

Về sau chúng tôi phát hiện ra mặc dù tuyên bố tự tin với truyền thông địa phương và chương trình 60 Phút, song trên thực tế, Chapman đã bắt đầu lo lắng về độ tin cậy của những bằng chứng chống lại Walter. Ông ta không thể phớt lờ những vấn đề được phơi bày trong phiên tòa. Vì chúng tôi đã thành công với các vụ án tử hình khác, ông ta hẳn phải quan ngại về khả năng hoàn toàn có thể xảy ra rằng tòa phúc thẩm sẽ lật ngược bản án của Walter. Là gương mặt công khai bảo vệ bản án, Chapman nhận ra rằng ông ta đã đặt cược chính uy tín của mình khi tin tưởng vào kết luận của các nhà điều tra địa phương - kết luận mà giờ đây đã bị lộ ra là sai lạc đến nực cười.

Không lâu sau phiên tòa, Chapman triệu tập Tate, Ikner, và Benson để chia sẻ nỗi lo của mình. Khi yêu cầu các điều tra viên địa phương giải thích về bằng chứng đối lập mà chúng tôi trình bày, ông ta không cảm thấy thuyết phục bởi những điều mình được nghe. Không lâu sau, ông ta chính thức đề nghị các nhân viên Sở Điều tra Alabama - ABI ở Montgomery điều tra lại vụ giết người để chứng thực một lần nữa tội trạng của McMillian.

Chapman chưa bao giờ trực tiếp thông báo cho chúng tôi về cuộc điều tra mới này, dù trong hơn hai năm đó, thứ chúng tôi tìm kiếm chỉ là một cuộc tái điều tra chứng cứ. Khi các điều tra viên mới của ABI, Tom Taylor và Greg Cole, gọi cho tôi, tôi sẵn lòng đồng ý chia sẻ thông tin và hồ sơ vụ án. Sau cuộc gặp với họ, tôi thậm chí còn lạc quan hơn về kết quả điều tra. Cả hai người đều tỏ ra là những điều tra viên nghiêm túc và dày dạn kinh nghiệm với mong muốn thực hiện công việc một cách chắc chắn và đáng tin cậy.

Sau vài tuần, Taylor và Cole bắt đầu nghi ngờ tội trạng của McMillian. Các điều tra viên này không có mối liên hệ với bất kỳ bên nào trong vụ án ở Nam Alabama. Chúng tôi đưa cho họ hồ sơ, biên bản và thậm chí cả một số bằng chứng gốc vì chúng tôi không có gì phải giấu giếm. Tôi có lo rằng nếu bản án được đảo ngược và vụ việc được xét xử lại, chúng tôi sẽ ở trong tình thế bất lợi vì đã tiết lộ quá nhiều thông tin cho các điều tra viên nhà nước - họ có thể tô vẽ hoặc phá hoại các bằng chứng của chúng tôi - nhưng tôi vẫn tự tin rằng bất cứ cuộc điều tra trung thực và hợp lý nào cũng sẽ phơi bày sự phi lý của bản án chống lại Walter.

Tới tháng Một, kể từ khi chúng tôi nộp đơn kháng cáo lên Tòa Phúc thẩm Hình sự đến lúc này đã sáu tháng trôi qua, và thời hạn tòa chuẩn bị ra phán quyết cũng cận kề. Đúng lúc đó Tom Taylor gọi điện nói anh ta và Cole muốn gặp lại chúng tôi. Chúng tôi đã nói chuyện mấy lần trong quá trình điều tra, nhưng lần này chúng tôi sẽ thảo luận về kết quả điều tra. Khi họ tới, Bernard và tôi tiếp họ tại văn phòng, và họ vào đề ngay.

“Không thể nào có chuyện Walter McMillian giết Ronda Morrison.” Tom Taylor nói chẻ hoe. “Chúng tôi sẽ báo cáo với tổng chưởng lý, công tố viên và bất cứ ai hỏi đến rằng McMillian không liên quan gì tới cả hai vụ giết người và hoàn toàn trong sạch.”

Tôi cố gắng kìm lại để không lộ sự phấn khích. Tôi không muốn làm hỏng tin tốt này. “Tốt quá,” tôi nói, cố tỏ vẻ bình thường. “Tôi rất mừng khi nghe điều này và phải nói rằng tôi cực kỳ biết ơn vì các anh đã điều tra kỹ lưỡng và trung thực về bằng chứng của vụ việc.”

“Vâng, việc xác nhận McMillian vô can có gì khó lắm đâu,” Taylor trả lời. “Làm sao một tên trùm ma túy lại sống trong hoàn cảnh như anh ta và làm việc mười lăm tiếng một ngày, chặt cây trên địa hình hiểm trở được? Thông tin mà cảnh sát địa phương cung cấp cho chúng tôi về McMillian chẳng hợp lý chút nào, và câu chuyện Myers kể trong phiên tòa lại càng không. Tôi vẫn không tin nổi là bồi thẩm đoàn lại kết tội anh ta.”

Cole lên tiếng. “Anh chắc sẽ bất ngờ nếu biết cả Hooks và Hightower đều đã thừa nhận rằng lời khai của họ trong phiên tòa là giả.”

“Thật sao?” Lần này tôi không thể giấu được sự ngạc nhiên.

“Vâng. Khi chúng tôi được đề nghị điều tra vụ này, họ bảo phải điều tra cả anh vì Hooks nói anh đã hứa cho hắn tiền và một căn hộ ở Mexico nếu hắn thay đổi lời khai.” Taylor nói rất nghiêm túc.

“Một căn hộ ở Mexico?”

“Bên bờ biển, chắc vậy.” Cole nói tỉnh bơ.

“Cái gì, tôi á? Tôi sẽ cho Bill Hooks một căn hộ bên bờ biển ở Mexico nếu hắn thay đổi lời khai chống lại Walter sao?” Tôi không kiềm nổi sự kinh ngạc.

“Vâng, tôi biết chuyện này nghe thật ngớ ngẩn đối với anh, nhưng tin tôi đi, có những người luôn sẵn sàng buộc tội anh. Nhưng khi chúng tôi nói chuyện với Hooks, chẳng mấy chốc hắn đã thừa nhận hắn chưa bao giờ nói chuyện với anh và anh cũng chưa bao giờ mua chuộc hắn, không những thế hắn còn thú nhận lời khai của hắn chống lại McMillian là hoàn toàn bịa đặt.”

“Ồ, chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ chuyện Hooks nói dối.”

Cole cười khúc khích. “Chúng tôi đã thực hiện các bài kiểm tra nói dối, và mọi chuyện sáng tỏ khá nhanh.”

Bernard hỏi toẹt: “Thế bây giờ thì thế nào đây?”

Taylor nhìn đồng nghiệp rồi nhìn chúng tôi. “À, vẫn chưa xong đâu. Chúng tôi muốn phá vụ án này, và chúng tôi đã tìm được một nghi phạm. Không biết các anh có sẵn lòng giúp chúng tôi không. Tôi biết các anh không định tìm cách tống ai đó vào trại tử tù, nhưng chúng tôi nghĩ có thể các anh ít nhất sẽ cân nhắc chuyện góp sức tìm ra hung thủ thực sự. Mọi người sẽ dễ chấp nhận sự vô can của McMillian hơn nếu họ biết ai là kẻ thực sự gây ra tội ác này.”

Mặc dù ý nghĩ rằng tự do của Walter phụ thuộc vào việc bắt giữ một người nào khác thật nhảm nhí, song quả thật tôi vẫn thường hình dung một cuộc điều tra thành công sẽ dẫn tới bước này - và có một điều hiển nhiên mà tôi không thể tranh cãi là ngay cả khi cuộc điều tra của ABI xóa tội cho Walter, mọi người vẫn sẽ nghĩ rằng anh trốn tội cho đến khi hung thủ thực sự được tìm thấy. Chúng tôi từ lâu đã kết luận rằng tìm ra kẻ sát nhân thực sự có thể là cách hiệu quả nhất để giành lại tự do cho Walter, nhưng vì không có quyền lực và thẩm quyền của các nhà chấp pháp, chúng tôi gặp phải hạn chế về những điều có thể phát hiện.

Chúng tôi cũng có một giả thuyết đáng tin cậy. Một số nhân chứng cho biết xung quanh thời điểm xảy ra án mạng, người ta đã trông thấy một người đàn ông da trắng rời khỏi hiệu giặt là. Chúng tôi được biết trước khi chết, Ronda Morrison đã nhận được các cuộc gọi hăm dọa và có một người đàn ông đã điên cuồng theo đuổi cô với những hành vi không phù hợp như bất thình lình xuất hiện ở hiệu giặt, hoặc thậm chí rình rập cô. Ban đầu chúng tôi chưa xác định được danh tính của kẻ lạ mặt này.

Tuy nhiên, chúng tôi có nghi ngờ. Chúng tôi đã nhận được các cuộc gọi từ một người đàn ông da trắng dường như cực kỳ quan tâm đến vụ việc. Anh ta gọi để nói chuyện lan man về những thứ chúng tôi đang điều tra. Anh ta còn nói bóng gió rằng anh ta có thông tin hữu ích cho chúng tôi, nhưng vẫn rụt rè và trì hoãn tiết lộ cụ thể. Anh ta liên tục bảo chúng tôi rằng anh ta biết McMillian vô tội và anh ta sẽ giúp chúng tôi chứng minh điều đó. Cuối cùng, sau vài cuộc gọi và hàng giờ đồng hồ nói chuyện, anh ta tuyên bố mình biết hung khí giết người, thứ chưa bao giờ được tìm thấy, có thể đang được giấu ở đâu.

Chúng tôi cố gắng lấy thông tin từ anh ta càng nhiều càng tốt. Chúng tôi cũng tìm hiểu nhân thân của anh ta. Anh ta nói mình có xích mích với một người đàn ông khác trong thị trấn, và càng nói, anh ta càng buộc tội người này đã bắn chết Morrison. Khi điều tra giả thuyết này, chúng tôi không cảm thấy ấn tượng. Người mà anh ta miêu tả không giống như người mà các nhân chứng trông thấy rời khỏi hiệu giặt là, trong khi chính anh ta lại có tiền sử bám đuôi và bạo hành phụ nữ, anh ta lại rất bận tâm về vụ sát hại Ronda Morrison. Chúng tôi bắt đầu ngờ rằng người gọi điện cho chúng tôi có thể chính là thủ phạm sát hại Ronda Morrison. Chúng tôi đã nói chuyện điện thoại hàng chục lần với anh ta và thậm chí còn gặp anh ta hai lần. Chúng tôi ngày càng nghi ngờ giả thuyết người bị anh ta tố cáo có liên can tới vụ án. Có lần chúng tôi hỏi thẳng anh ta đã ở đâu vào ngày xảy ra vụ giết người, câu hỏi này chắc hẳn đã đánh động anh ta vì từ đó anh ta không liên hệ với chúng tôi thường xuyên như trước nữa.

Tôi chưa kịp kể chuyện này cho các điều tra viên ABI, thì Taylor đã nói, “Chúng tôi nghĩ có thể anh đã phỏng vấn nghi phạm của chúng tôi và đã thu được kha khá thông tin từ người này. Chúng tôi hy vọng anh sẽ cho phép chúng tôi tiếp cận những thông tin và các cuộc phỏng vấn đó.” Anh nêu tên nghi phạm mà chúng tôi nghĩ đến.

Tôi đồng ý chia sẻ những thông tin mà chúng tôi thu thập được. Không có thông tin nào trong số đó thuộc phạm vi bảo vệ của nguyên tắc bảo mật thông tin giữa luật sư và thân chủ; chúng tôi chưa bao giờ đại diện cho người này hay bí mật thu thập thông tin từ anh ta. Tôi bảo Taylor và Cole cho chúng tôi vài ngày tổng hợp thông tin, rồi chúng tôi sẽ chuyển cho họ.

“Chúng tôi muốn Walter được trả tự do sớm nhất có thể,” tôi khẳng định.

“À, tôi nghĩ tổng chưởng lý và các luật sư muốn giữ nguyên hiện trạng này một vài tháng nữa, cho đến khi chúng tôi bắt được hung thủ thật sự.”

“Vâng, nhưng anh có hiểu rằng tình trạng hiện tại chính là vấn đề đối với chúng tôi không? Walter đã ở trại tử tù gần sáu năm vì một tội ác mà anh ta không hề gây ra.”

Taylor và Cole nhìn nhau ái ngại. Taylor trả lời, “Chúng tôi không phải là luật sư, nên tôi không hiểu lắm bên đó định làm gì. Nhưng đúng là nếu tôi phải ngồi tù vì một tội mà mình không gây ra và nếu anh là luật sư của tôi, tôi hẳn sẽ mong mỏi anh giải cứu tôi càng sớm càng tốt.”

Khi họ ra về, Bernard và tôi rất háo hức nhưng vẫn lo lắng về kế hoạch “giữ nguyên hiện trạng”. Tôi quyết định gọi điện tới văn phòng tổng chưởng lý để xem liệu họ có thừa nhận sai sót pháp lý trong vụ việc, bởi sự thừa nhận này sẽ đảm bảo tòa phúc thẩm ra lệnh tha bổng và có thể sẽ đẩy nhanh việc trả tự do cho Walter.

Một luật sư khác từ văn phòng tổng chưởng lý tên là Ken Nunnelly là người tiếp nhận đơn kháng cáo. Tôi đã làm việc với Nunnelly trong một vài vụ án tử hình khác. Tôi kể với anh ta rằng tôi đã gặp các điều tra viên của ABI và tôi biết một số diễn biến mới có lợi cho McMillian. Rõ ràng các luật sư của nhà nước đã thảo luận khá nhiều về vụ này.

“Bryan, mọi việc rồi sẽ được giải quyết, nhưng anh sẽ phải chờ thêm vài tháng nữa. Anh ta đã ở trại được mấy năm rồi, vì vậy ở thêm vài tháng cũng không sao lắm đâu.”

“Ken, một ngày cũng là vấn đề khi anh bị giam trong trại tử tù vì một bản án oan.”

Tôi cố ép anh ta cam kết nhưng không được. Tôi yêu cầu được gặp tổng chưởng lý hoặc bất cứ quan chức nào có thẩm quyền ra quyết định cuối cùng, và anh ta hứa sẽ xem mình có thể làm gì. Mấy ngày sau, Nhà nước gửi một thỉnh nguyện kỳ quặc lên Tòa Phúc thẩm Hình sự. Trong đơn thỉnh nguyện, tổng chưởng lý [10] đề nghị tòa tạm hoãn tố tụng và không ra phán quyết vì họ “có thể đã phát hiện ra bằng chứng giải tội có lợi cho ông McMillian, giúp ông ta được xét xử lại” nhưng họ cần thêm thời gian để hoàn thành cuộc điều tra.

Tôi bực mình vì Nhà nước đang cố trì hoãn việc tòa ra lệnh tha bổng Walter. Chuyện này nhất quán với tất cả những điều đã xảy ra trong vòng sáu năm qua, nhưng vẫn làm chúng tôi phát điên. Chúng tôi nhanh chóng gửi thư phản đối kiến nghị của Nhà nước. Chúng tôi nói với tòa rằng có bằng chứng rõ ràng cho thấy các quyền của anh McMillian đã bị xâm phạm, và anh cần phải được trả tự do ngay lập tức. Trì hoãn phóng thích sẽ gây thêm tổn thương cho một người đã bị kết án oan và bị giam trong trại tử tù vì một tội mà anh ta không hề gây ra. Chúng tôi kêu gọi tòa bác bỏ đề nghị của Nhà nước và sớm ra phán quyết.

Thời gian này, tôi nói chuyện với Minnie và gia đình hàng tuần, cập nhật cho mọi người về cuộc điều tra mới của nhà nước.

“Tôi cảm thấy tin tốt sắp đến, Bryan ạ,” Minnie nói. “Họ đã giam anh ấy mấy năm rồi. Giờ là lúc họ trả tự do cho anh ấy. Họ phải để anh ấy về.”

Tôi tôn trọng sự lạc quan của chị, nhưng vẫn lo lắng. Chúng tôi đã phải thất vọng không biết bao nhiêu lần. “Chúng ta phải hy vọng thôi, chị Minnie.”

“Tôi vẫn luôn nói với mọi người rằng ‘không lời nói dối nào có thể tồn tại mãi được’, và chuyện này đúng là một cú lừa lớn.”

Tôi không chắc nên đáp lại kỳ vọng của gia đình Walter như thế nào. Tôi cảm thấy mình phải là người cảnh báo, giúp gia đình anh chuẩn bị cho tình huống xấu nhất, kể cả khi tôi vẫn động viên họ trông đợi điều tốt đẹp nhất. Nhiệm vụ này ngày càng phức tạp hơn khi tôi phải xử lý thêm nhiều trường hợp và chứng kiến muôn hình vạn trạng các tình huống bất lợi. Nhưng tôi ngày một nhìn nhận thấu đáo hơn về sức mạnh của hy vọng trong việc tạo ra công lý.

Tôi bắt đầu đề cập đến chủ đề hy vọng trong các cuộc nói chuyện với những nhóm nhỏ. Tôi thích trích dẫn câu nói của Václav Havel, nhà lãnh đạo vĩ đại của Cộng hòa Séc, rằng “hy vọng” chính là thứ mà những người đấu tranh ở Đông Âu cần khi đất nước này chịu ảnh hưởng của Liên bang Xô-viết.

Theo lời Havel, những người đấu tranh vì độc lập muốn có tiền và sự công nhận từ các quốc gia khác; họ muốn phương Tây lên án mạnh hơn nữa và tạo thêm sức ép ngoại giao đối với Xô-viết. Nhưng Havel nói [11] đó là những thứ họ muốn, điều duy nhất họ cần là niềm hy vọng. Đó không phải là niềm an ủi khổ tận cam lai, không phải là sự đề cao lạc quan lên trước bi quan, mà là “một định hướng tinh thần”. Đó là niềm hy vọng giúp ta sẵn sàng đặt mình vào chốn vô vọng và làm chứng nhân, cho phép ta tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, kể cả khi phải đối mặt với bạo quyền. Đó là niềm hy vọng làm ta mạnh mẽ.

Havel đã miêu tả chính xác thứ mà có lẽ công việc của chúng tôi yêu cầu. Vụ việc của Walter cần hy vọng hơn tất thảy. Vì vậy, tôi không làm Minnie nản lòng. Chúng tôi cùng nhau hy vọng.

Ngày 23 tháng Hai, gần sáu tuần sau khi có báo cáo điều tra của ABI, tôi nhận được một cuộc gọi từ lục sự tòa án thông báo rằng Tòa Phúc thẩm Hình sự đã ra phán quyết về vụ McMillian và chúng tôi có thể tới nhận phán quyết.

“Anh sẽ mừng đấy,” cô tỏ ra bí ẩn.

Tôi chạy hộc tốc tới tòa án và thở không ra hơi lúc ngồi xuống đọc bản phán quyết dài ba mươi lăm trang. Lục sự nói đúng. Phán quyết đã vô hiệu hóa bản định tội và mức án tử hình của Walter. Tòa án không kết luận rằng anh vô tội và phải được trả tự do, nhưng tòa đã ra phán quyết có lợi cho chúng tôi đối với mọi yêu sách khác và ra lệnh xét xử lại. Chỉ đến khi cuối cùng cũng giành được chiến thắng, tôi mới nhận ra mình đã sợ thất bại tới mức nào.

Tôi lên xe và phóng như bay tới trại tử tù để thông báo trực tiếp cho Walter. Tôi thấy anh lắng nghe chăm chú. Anh ngả người ra phía sau và nở nụ cười khe khẽ quen thuộc.

“Ừ,” anh nói chậm rãi, “Thế là tốt rồi. Tốt rồi.”

“Tốt ư? Tuyệt chứ!”

“Ừ, rất tuyệt.” Nụ cười của anh lúc này ánh lên vẻ tự do mà tôi chưa từng thấy bao giờ. “Phù, tôi không thể tin được, không thể tin được... Phù!”

Nụ cười của anh tắt dần, rồi anh chợt lắc đầu nhè nhẹ.

“Sáu năm, sáu năm đã mất.” Anh nhìn xa xăm đau đớn. “Sáu năm qua cứ như năm mươi năm ấy. Sáu năm đã trôi qua rồi. Tôi đã sợ họ giết tôi, tôi thậm chí chả còn tâm trí đâu để nghĩ về khoảng thời gian đã mất.”

Vẻ ưu phiền của anh làm tôi chùng xuống. “Tôi biết, anh Walter, mọi chuyện vẫn chưa chắc chắn mà,” Tôi nói. “Phán quyết này mới chỉ đem lại cho anh một phiên xử mới thôi. Theo những gì ABI nói, tôi không nghĩ họ sẽ tìm cách truy tố anh lần nữa, nhưng với những quan chức này, chẳng bao giờ có gì đảm bảo họ sẽ hành xử hợp tình hợp lý. Tôi sẽ cố gắng đưa anh về nhà sớm nhất có thể.”

Nghĩ đến chuyện về nhà, tâm trạng của anh sáng lên và chúng tôi bắt đầu nói về những điều mình vẫn ngại đề cập tới kể từ khi biết nhau. Anh nói, “Tôi muốn gặp tất cả những người đã giúp tôi ở Montgomery. Và tôi muốn đi khắp nơi với cậu và nói với cả thế giới về điều mà họ đã gây ra cho tôi. Ở đây vẫn còn những người cũng vô tội như tôi.” Anh dừng lời và bắt đầu mỉm cười trở lại. “À, tôi cũng muốn ăn vài món ngon nữa. Lâu lắm rồi tôi không được ăn uống tử tế đến nỗi tôi thậm chí chẳng nhớ vị ngon là như thế nào.”

“Anh thèm ăn bất cứ món gì, tôi sẽ đãi anh.” Tôi tự hào nói.

“Theo những gì tôi biết, chắc cậu sẽ không đủ tiền chi trả cho bữa ăn tôi muốn đâu,” anh đùa. “Tôi thích bít tết, thịt gà, thịt lợn, và có thể cả gấu mèo loại ngon nữa.”

“Gấu mèo á?”

“Ồ, đừng có giả vờ. Cậu thích gấu mèo quay, đúng chưa? Làm ơn đừng ngồi đây và nói với tôi rằng cậu chưa bao giờ ăn gấu mèo nhé, tôi biết cậu lớn lên ở nông thôn giống như tôi mà. Nhiều khi tôi và cậu em họ đang lái xe thì thấy một con gấu mèo chạy băng qua đường, khi ấy nó sẽ rú lên, “Dừng xe, dừng xe!” Tôi dừng xe còn nó nhảy ra ngoài, phi thẳng vào rừng và mấy phút sau quay lại với một con gấu mèo mà nó bắt được. Chúng tôi sẽ mang con gấu mèo về nhà, lột da, rán hoặc nướng lên. Chẹp... Cậu nghĩ sao hả? Ăn ngon lắm đấy.”

“Anh đùa à? Tôi lớn lên ở nông thôn, nhưng chưa bao giờ đuổi con thú hoang nào vào tận rừng rồi bắt nó về làm thịt cả.”

Chúng tôi thư giãn và cười rất nhiều. Chúng tôi vẫn cười trước khi có ngày hôm nay - óc hài hước của Walter không suy suyển dù anh phải trải qua sáu năm ngồi tù. Và vụ án này đã cho anh rất nhiều chất liệu gây cười. Chúng tôi thường nói về những con người và những tình huống ngớ ngẩn liên quan tới vụ việc, mà dù gây ra tất cả những hậu quả tai hại, họ vẫn làm chúng tôi buồn cười. Nhưng tiếng cười của ngày hôm nay rất khác. Đó là tiếng cười của tự do.

Tôi lái xe về Montgomery và nghĩ làm thế nào để thúc đẩy việc phóng thích Walter. Tôi gọi cho Tommy Chapman và bảo ông ta rằng tôi dự định gửi kiến nghị xóa bỏ tất cả cáo buộc chống lại Walter trên cơ sở phán quyết của tòa phúc thẩm, và tôi hy vọng ông ta sẽ cân nhắc việc tham gia kiến nghị hoặc ít nhất là không phản đối nó. Ông ta thở dài. “Khi nào mọi việc xong hết, chúng ta nên nói chuyện. Khi nào anh gửi kiến nghị, tôi sẽ trả lời về việc có tham gia hay không. Tất nhiên chúng tôi sẽ không phản đối đâu.”

Một phiên tòa cho bản kiến nghị được định ngày. Quả thực, Nhà nước đã tham gia kiến nghị xóa bỏ cáo buộc cùng với chúng tôi, và tôi nghĩ phiên tòa cuối cùng sẽ không kéo dài quá vài phút. Đêm hôm trước, tôi đã lái xe tới nhà Minnie để lấy một bộ comple cho Walter mặc trước tòa, vì rồi cuối cùng anh sẽ có thể rời tòa với tư cách một người tự do. Khi tôi đến nơi, chị ôm tôi thật chặt. Dường như chị đã khóc nhiều và không ngủ được. Chúng tôi ngồi xuống, và chị nói chị mừng biết bao khi thấy anh sắp được thả. Nhưng trông chị cũng rất muộn phiền. Cuối cùng, chị quay sang tôi.

“Bryan, tôi nghĩ cậu nên nói với anh ấy rằng có lẽ anh ấy không nên quay về đây. Đã quá đủ rồi. Sức ép, những lời xì xào, sự dối trá, tất cả. Anh ấy không đáng phải chịu đựng những chuyện đó. Tôi, tất cả chúng tôi, đều đau đớn đến hết phần đời còn lại về những gì họ gây ra cho anh ấy. Nhưng tôi không nghĩ mình có thể quay lại sống như trước kia.”

“Ừm, khi nào anh ấy về, anh chị nên nói chuyện.”

“Chúng tôi muốn tụ họp mọi người khi anh ấy về. Chúng tôi muốn nấu một bữa ngon để đón mừng anh ấy. Nhưng sau đó, có lẽ anh ấy nên đi Montgomery cùng cậu.”

Tôi đã khuyên Walter tránh ở Monroeville trong mấy đêm đầu tiên vì lý do an toàn. Chúng tôi đã bàn bạc rằng anh sẽ ở với người thân ở Florida trong khi chúng tôi theo dõi phản ứng của người dân địa phương về việc anh được tha bổng. Nhưng tôi chưa thảo luận gì về tương lai của anh với Minnie.

Tôi cố thuyết phục Minnie nói chuyện với Walter khi anh trở về, nhưng rõ ràng chị không nỡ làm điều đó. Tôi lái xe quay lại Montgomery, lòng nặng trĩu khi nhận ra rằng mặc dù chúng tôi sắp chiến thắng và đó sẽ là một cuộc phóng thích đầy vinh quang đối với Walter và gia đình anh, cơn ác mộng này sẽ không bao giờ chấm dứt hoàn toàn. Lần đầu tiên tôi hiểu thấu sự thật rằng bản kết tội, mức án tử hình, cùng nỗi đau và sự tàn phá do thất bại của công lý gây ra đã để lại những vết thương vĩnh viễn.

Sáng hôm sau khi tôi tới nơi, các cơ quan thông tấn quốc gia, địa phương và nhà nước đã có mặt rất đông bên ngoài tòa án. Hàng chục người thân và bạn bè của Walter ở quê cũng tới đón anh. Tôi rất bất ngờ khi họ mang theo cả bảng hiệu và biểu ngữ. Dù chỉ là những cử chỉ giản dị nhưng chúng lại làm tôi cảm động sâu sắc. Những tấm biểu ngữ đã lên tiếng thay cho mọi người: “Mừng anh về nhà, Johnny D”, “Chúa không bao giờ bỏ ta”, “Cuối cùng cũng được tự do, Tạ ơn Chúa Quyền năng, Chúng con cuối cùng cũng được tự do.”

Tôi đi xuống buồng giam đưa cho Walter bộ comple. Tôi báo với anh rằng một buổi tiệc mừng đã được chuẩn bị tại nhà anh sau phiên tòa. Từ chối công nhận Walter sắp được thả, nhà tù không cho phép anh mang theo vật dụng cá nhân tới tòa án, vì vậy chúng tôi sẽ phải quay lại Nhà tù Holman để lấy các thứ trước khi tới bữa tiệc. Tôi cũng cho anh hay tôi đã đặt cho anh một phòng khách sạn ở Montgomery và có lẽ để an toàn nhất thì anh nên ở đó trong mấy đêm tới.

Tôi ngần ngại kể cho anh về cuộc nói chuyện của tôi với Minnie. Anh có vẻ bất ngờ và đau lòng nhưng không quá day dứt.

“Hôm nay thật sự là một ngày vui đối với tôi. Không gì có thể phá hỏng cảm giác được tự do trở lại.”

“Ừm, lúc nào đó anh chị nên nói chuyện với nhau.” Tôi gợi ý.

Tôi lên tầng trên gặp Tommy Chapman, ông ta đang đợi tôi ở phòng xử. “Khi nào xong, tôi muốn bắt tay anh ta,” ông nói. “Như thế có được không?”

“Tôi nghĩ anh ấy sẽ trân trọng điều đó.”

“Vụ việc này đã dạy tôi những điều mà tôi thậm chí còn không biết mình cần phải học.”

“Chúng ta đều học được rất nhiều, Tommy ạ.”

Các phó cảnh sát trưởng đứng rải rác khắp nơi. Khi Bernard tới, chúng tôi hội ý nhanh tại bàn bào chữa cho đến khi chấp hành viên yêu cầu chúng tôi quay lại văn phòng thẩm phán. Thẩm phán Norton đã nghỉ hưu nhiều tuần trước khi Tòa Phúc thẩm Hình sự ra phán quyết. Vị thẩm phán mới, Pamela Baschab, hồ hởi chào tôi. Chúng tôi nói chuyện xã giao rồi thảo luận về trình tự phiên tòa. Mọi người đều tươi tắn lạ thường.

“Anh Stevenson, nếu anh chỉ trình bày kiến nghị và cung cấp một bản tóm tắt ngắn gọn, tôi sẽ không cần thêm lập luận hay tuyên bố nào nữa, tôi định chấp thuận kiến nghị ngay lập tức để các anh có thể về nhà. Chúng ta có thể xử lý nhanh việc này.”

Chúng tôi bước vào phòng xử. Dường như phiên tòa này có mặt nhiều viên chức da đen hơn bất cứ buổi hầu tòa nào khác của tôi ở tòa án này. Không có máy dò kim loại, không có con chó hung dữ. Gia đình và người ủng hộ Walter ngồi kín phòng xử. Còn có những người da đen đứng cổ vũ bên ngoài tòa án vì không vào được bên trong. Một đội quân đông đảo các nhà báo và máy quay truyền hình đứng tràn cả ra ngoài phòng xử án đông đúc.

Cuối cùng, Walter được đưa vào phòng xử, anh mặc bộ comple đen với áo sơ mi trắng mà tôi đã mang cho anh. Trông anh đẹp trai và khỏe mạnh như một con người khác. Các sĩ quan không còng tay hay cùm chân Walter, vì vậy anh vừa bước vào vừa vẫy tay chào gia đình và bạn bè. Kể từ phiên xử sáu năm trước, người nhà chưa bao giờ thấy anh mặc gì ngoài bộ đồng phục tù nhân màu trắng, nay nhiều người xuýt xoa khi anh bước vào phòng xử trong bộ comple. Hàng năm trời, gia đình và những người ủng hộ Walter đã phải hứng chịu ánh mắt thù hằn và những lời đe dọa đuổi cổ bất cứ khi nào họ tình cờ thể hiện ý kiến trong các phiên tố tụng, nhưng hôm nay, các viên chức chỉ lặng lẽ chấp nhận cách bày tỏ niềm hứng khởi của họ.

Thẩm phán ngồi xuống ghế chủ tọa, còn tôi bước lên phía trước để phát biểu. Tôi trình bày tóm tắt diễn biến của vụ việc và thông báo với tòa rằng cả phía bị cáo và Nhà nước đều đề nghị tòa xóa bỏ tất cả cáo buộc. Thẩm phán lập tức chấp thuận kiến nghị và hỏi liệu chúng tôi còn vấn đề gì nữa không. Bỗng nhiên tôi cảm thấy tức giận lạ lùng. Tôi cứ tưởng mình sẽ phấn khởi lắm. Mọi người đều đang hân hoan, thẩm phán và công tố viên tự nhiên lại rộng lượng và xuề xòa, cứ như tất cả đều muốn bảo đảm rằng sẽ không còn cảm xúc khó chịu hay hờn oán gì nữa.

Walter đang ngây ngất tận hưởng niềm vui sướng chính đáng, nhưng tôi lại bối rối trước nỗi tức giận sục sôi bột phát của mình. Chúng tôi chuẩn bị rời tòa lần cuối, và tôi chợt nghĩ đến nỗi đau đã giáng xuống Walter, gia đình anh và cả cộng đồng. Tôi nghĩ nếu Thẩm phán Robert E. Lee Key không phủ quyết bản án chung thân không ân xá của bồi thẩm đoàn và áp dụng mức án tử hình, khiến vụ việc được chúng tôi để ý đến, Walter có thể sẽ phải sống cả đời trong cảnh tù tội và rồi chết trong buồng giam. Tôi nghĩ tới khả năng có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người cũng vô tội như Walter nhưng không bao giờ nhận được sự giúp đỡ mà họ cần. Tôi biết đây không phải là nơi chốn hay là thời điểm thích hợp để diễn thuyết hay phê phán thực trạng này, nhưng tôi không thể ngăn mình đưa ra một lời bình luận cuối cùng.

“Thưa Quý tòa, tôi chỉ muốn nói điều này trước khi tòa kết thúc. Thật quá dễ dàng để chúng ta gán cho người đàn ông này tội giết người và giam ông ấy vào trại tử tù vì một tội ác mà ông ấy không hề phạm phải, nhưng lại quá khó để chúng ta giành lại tự do cho ông ấy sau khi chứng minh được ông ấy vô tội. Chúng ta có những vấn đề nghiêm trọng cần giải quyết và một nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện ở bang này.”

Tôi ngồi xuống và thẩm phán tuyên bố Walter được tự do ra về - đúng như một người tự do.

Walter ôm tôi thật chặt, còn tôi đưa cho anh một chiếc khăn tay để lau nước mắt. Tôi dẫn anh tới chỗ Chapman, và họ bắt tay nhau. Những viên chức người da đen đứng quanh đó đưa chúng tôi ra phía cửa sau dẫn xuống tầng dưới, có rất đông phóng viên đang đợi ở đó. Một trong các viên chức vỗ vào lưng tôi, khen ngợi, “Tuyệt quá anh à. Tuyệt quá.” Tôi nhờ Bernard bảo gia đình và những người ủng hộ Walter rằng chúng tôi sẽ gặp họ ngoài cổng trước.

Walter đứng sát bên tôi khi chúng tôi trả lời các câu hỏi của báo chí. Tôi biết anh đang cảm thấy ngợp, vì vậy tôi cắt cuộc phỏng vấn sau vài phút, rồi chúng tôi đi ra cổng trước của tòa án. Các đoàn quay phim chạy theo sau. Khi chúng tôi ra ngoài, hàng chục người vẫy chào và giương biểu ngữ. Người thân của Walter chạy tới ôm anh và ôm cả tôi. Các cháu của Walter n?