Chương mười hai MẸ, MẸ
Một buổi tối giữa tiết trời tháng Ba se lạnh, Marsha Colbey cùng chồng dạo bước trên những con phố của New York trong bộ váy màu xanh dương thanh lịch. Bao lâu nay chị đã mơ về khoảnh khắc này. Chị háo hức đón nhận cảnh vật và âm thanh xung quanh khi cùng chồng dạo bước trên vỉa hè đông đúc. Những tòa nhà khổng lồ lừng lững vươn thẳng lên bầu trời, trong khi xe cộ lướt đi như mắc cửi trên các con phố của khu Greenwich Village. Những nhóm sinh viên và thợ thủ công New York chẳng buồn để tâm chú ý khi họ băng qua Công viên Quảng trường Washington. Marsha trông thấy một nhóm tam tấu jazz nghiệp dư đang say sưa chơi nhạc ở một góc công viên. Tất cả trông như một cảnh phim.
Là một phụ nữ da trắng đến từ một miền quê nghèo ở Alabama, Marsha chưa từng một lần đặt chân tới New York, vậy mà giờ đây chị lại sắp được vinh danh trong một dạ tiệc có hai trăm khách mời. Dù háo hức nhưng chị vẫn cảm thấy một điều gì đó thật lạ lùng khi bước trên con đường tới bữa tiệc. Chị sớm gọi tên được cảm giác của mình. Tự do. Chị đang rảo bước trên những con đường của thành phố hào nhoáng bậc nhất thế giới cùng với chồng mình, và chị được tự do. Đó là một cảm giác vinh quang. Tất cả mọi điều xảy đến trong ba tháng qua kể từ khi chị được ra tù đều kỳ diệu. Nó vượt quá sức tưởng tượng của chị, kể cả trước khi chị bị kết án tù chung thân không ân xá tại nhà tù nữ Julia Tutwiler.
Khi cơn bão Ivan đổ bộ vào bờ biển Alabama, thổi hỗn loạn và tai ương vào cuộc đời Marsha, chị đã tưởng mọi thứ không thể tồi tệ hơn được nữa. Bão Ivan đẻ ra 119 cái vòi rồng và gây thiệt hại hơn 18 tỉ đô-la. Với sáu đứa trẻ cần phải bảo vệ, chị không có thời gian để hoảng loạn về việc mất nhà hay về sự hoang tàn của mọi thứ xung quanh. Chính sự bấp bênh mới là điều làm Marsha lo lắng hơn cả. Hai vợ chồng sẽ phải tìm việc ở đâu? Bọn trẻ sẽ phải nghỉ học bao lâu? Họ phải làm gì để ra tiền? Họ phải làm gì để có thức ăn? Ai ai ở miền duyên hải Vịnh Mexico cũng cảm thấy chới với trước một tương lai bấp bênh như vậy. Một loạt các cơn bão nhiệt đới liên tục uy hiếp bờ biển Louisiana, Alabama, Mississipi, và Florida mùa hè năm 2004 đã biến cuộc sống thư thả ở vùng duyên hải miền Nam của họ thành một cuộc đấu tranh sinh tồn dữ dội.
Marsha và Glen Colbey sống cùng các con trong một căn nhà lưu động chật chội, và họ biết mình rơi vào tình cảnh nguy cấp khi cảnh báo về cơn bão xuất hiện. Họ không đơn độc; rất nhiều gia đình khác cũng chia sẻ tình cảnh ấy, khiến họ được an ủi phần nào. Nhưng khi bão Ivan phá tan căn nhà của gia đình vào tháng Chín, Marsha chẳng thấy dễ chịu chút nào khi phải xếp hàng cùng hàng nghìn người khác trông chờ sự cứu trợ từ Cơ quan ứng phó Khẩn cấp Liên bang (FEMA). Cứu trợ cuối cùng cũng tới. Nhà Colbey được FEMA cấp cho một chiếc xe nhà kéo di động để ở tạm, và họ đậu nó trên mảnh đất cũ để bọn trẻ có thể tiếp tục đi học tại những ngôi trường gần đó. Hồi đầu hè, Marsha và Glen đã tìm được công việc xây dựng và lợp mái, nhưng giờ họ sẽ phải chờ hàng tuần nữa thì mới có việc làm trở lại.
Đúng lúc ấy Marsha nhận ra mình có thai. Chị đã 43 tuổi và không hề dự định sinh thêm con. Tất cả những gì chị có thể nghĩ được là chỉ mấy tháng nữa thôi, cái bụng bầu này sẽ cản trở chị làm công việc xây dựng. Mối lo lắng này đôi khi chuyển thành nỗi khắc khoải sâu sắc hơn, kích thích một cơn nghiện cũ: ma túy. Nhưng có quá nhiều người đang dựa vào chị, và có quá nhiều thứ để có thể buông xuôi. Năm năm trước, người ta đã gọi cảnh sát tới sau khi các y tá phát hiện ra cocaine trong cơ thể Marsha khi chị mang bầu cậu con trai Joshua, và nhà chức trách đã làm chị hoảng sợ bằng những lời buộc tội và đe dọa truy tố hình sự, tống giam và tước quyền nuôi con. Chị không định mạo hiểm một lần nữa.
Vợ chồng Marsha rất túng quẫn, nhưng chị luôn bù đắp sự thiếu hụt cho bọn trẻ bằng cách yêu thương chúng hết mực. Chị đọc truyện cho chúng nghe, trò chuyện với chúng, chơi cùng chúng, thường xuyên ôm hôn chúng, và lúc nào cũng giữ chúng quấn quýt không rời. Bất chấp mọi khó khăn, Marsha đã nuôi dưỡng một gia đình quý giá, gắn bó với nhau bằng tình yêu thương mãnh liệt. Các con trai lớn của chị, kể cả thằng lớn 19 tuổi, vẫn thích loanh quanh bên mẹ mỗi khi ở nhà, mặc cho nhiều điều xao lãng xuất hiện trong năm cuối phổ thông. Marsha thích làm mẹ. Đó là lý do tại sao chị không bận tâm chuyện có quá nhiều con. Mang thai đứa thứ bảy không phải là dự định hay mong muốn của chị, nhưng chị vẫn sẽ yêu thương đứa trẻ này như đã yêu thương những đứa trước.
Đến mùa đông, tình hình ở hạt Baldwin dần ổn định. Việc làm đã trở lại, và Glen cuối cùng cũng tìm được những công việc đều đặn hơn. Gia đình vẫn chật vật về tài chính, nhưng lũ trẻ đã đi học trở lại gần hết và có vẻ như họ đã qua được thời kỳ tồi tệ nhất.
Marsha biết rằng mang thai ở tuổi của mình là rất rủi ro, nhưng chị không đủ tiền để đi khám bác sĩ. Đơn giản, chị không để ra được đồng nào. Từng trải qua sáu lần vượt cạn, chị biết điều gì sẽ đến và tin rằng mình sẽ làm tốt nhất có thể mà không cần chăm sóc tiền sản. Marsha cố không lo lắng khi trải qua một số cơn đau và thai kỳ gặp phải vấn đề mà những lần trước chị chưa từng gặp phải. Chị còn bị chảy máu. Nếu chị có đủ tiền để đi kiểm tra, hẳn bác sĩ sẽ tìm ra dấu hiệu nhau bong non.
Căn nhà lưu động cũ của họ được đặt cạnh chiếc xe nhà kéo FEMA mới và hầu như không thể ở được nữa, nhưng nó vẫn có nước và bồn tắm, cho phép Marsha thỉnh thoảng được nghỉ ngơi yên tĩnh. Một hôm, chị cảm thấy không khỏe và nghĩ rằng ngâm mình lâu lâu trong bồn nước nóng sẽ làm mình dễ chịu hơn. Vài phút sau khi chị yên vị trong bồn tắm, một cơn đau đẻ dữ dội bắt đầu. Mọi sự xảy đến quá nhanh, và chị chưa kịp định thần thì đã sinh non ra một bé trai. Chị cố gắng hồi sinh đứa trẻ trong tuyệt vọng, nhưng bé đã không bao giờ cất được một hơi thở.
Mặc cho những lo ngại ban đầu lúc mói có thai, Marsha không khỏi đau lòng thương tiếc đứa con đã mất, chị kiên quyết đặt tên và tổ chức chôn cất bé. Họ đặt tên bé là Timothy và chôn bé trong một ngôi mộ có bia bên cạnh nhà. Đứa con chết non có lẽ vẫn chỉ là bi kịch riêng của Marsha và gia đình, nếu như không phải vì một người hàng xóm tọc mạch từ lâu vẫn luôn nghi ngờ nhà Colbey.
Việc Marsha Colbey không còn mang thai nhưng cũng chẳng sinh ra em bé đã khơi gợi sự quan tâm của Debbie Cook đến chi tiết của cuộc sinh non. Marsha không tin tưởng người phụ nữ này và lảng tránh khi chị ta hỏi chuyện. Cook, làm việc tại trường tiểu học [1] nơi đám trẻ nhà Colbey đang theo học, cuối cùng đã nhờ một nhân viên phục vụ trong căng tin trường gọi báo cảnh sát về đứa trẻ sơ sinh mất tích. Sĩ quan cảnh sát Kenneth Lewellen nói chuyện với Cook rồi đến nhà Colbey. Đau buồn vì mất con và mệt mỏi vì bị quấy rầy, Marsha đã phản ứng tiêu cực trước những câu hỏi của cảnh sát. Ban đầu, chị cố gắng đánh lạc hướng cảnh sát và các điều tra viên để bảo vệ sự riêng tư của mình. Đó không phải là một hành động sáng suốt, nhưng chị tức giận trước sự dồn ép của họ. Khi Lewellen trông thấy bia mộ cạnh nhà Colbey, Marsha thừa nhận đó là nơi chôn cất đứa con mới bị sinh non của mình.
Kathleen Enstice, một nhà bệnh lý học pháp y làm việc cho tiểu bang, được triệu tập để khai quật thi thể đứa bé. Marsha bị sốc khi thấy nhà chấp pháp có thể làm một chuyện đau lòng như thế mà không vì một lý do chính đáng nào. Ngay khi xác em bé được đào lên, dù chưa chính thức khám nghiệm tử thi, Enstice đã nói với một điều tra viên rằng cô ta tin lúc chào đời, đứa bé vẫn còn sống. Về sau cô ta thừa nhận rằng ý kiến đó là không có cơ sở, và rằng nếu không khám nghiệm tử thi và thực hiện các xét nghiệm, cô ta sẽ không thể biết được liệu khi sinh ra đứa bé có còn sống hay không. Hóa ra, Enstice đã có tiền sử [2] kết luận vội vã và sai lệch rằng các vụ tử vong là do bị giết khi không có đủ chứng cứ.
Nhà bệnh lý học này sau đó đã tiến hành khám nghiệm tử thi [3] tại phòng thí nghiệm của Cục Khoa học Pháp y ở Mobile. Cô ta không chỉ kết luận [4] rằng con của Marsha Colbey khi sinh ra vẫn còn sống, mà còn khẳng định rằng đứa trẻ có thể sẽ sống được nếu được chăm sóc y tế. Mặc dù đa số các chuyên gia đều đồng tình rằng những nhà bệnh học pháp y - những người chủ yếu làm việc với tử thi - không thể ước đoán cơ hội sống sót, nhưng Nhà nước lại cho phép các công tố viên tiến hành khởi tố hình sự.
Không ai ngờ được Marsha Colbey - chỉ vài tuần sau khi sinh non - bị bắt giữ và buộc tội giết người. Alabama nằm trong danh sách ngày một dài các tiểu bang coi hành vi giết người dưới 14 tuổi là một trọng tội có thể bị trừng phạt bằng án tử hình. Phân nhóm nạn nhân là trẻ em đã khiến số lượng những bà mẹ trẻ và người vị thành niên bị kết án tử hình tăng vọt. Cả năm nữ tử tù ở Alabama đều bị kết án vì những cái chết không rõ nguyên nhân của con họ, hoặc vì cái chết của những người chồng hay bạn trai vũ phu. Thực tế là trên cả nước, hầu hết các nữ tử tù [5] đều đang chờ ngày chết vì các vụ phạm tội trong gia đình có liên quan đến cáo buộc ngược đãi trẻ em, hoặc bạo lực gia đình liên quan đến bạn tình nam.
Tại tòa, Kathleen Enstice làm chứng rằng Timothy sinh ra còn sống và chết vì đuối nước. Cô ta cũng xác nhận kết luận của mình [6] về việc đứa trẻ sinh ra còn sống là một “phép chẩn đoán loại trừ”- nghĩa là cô ta không thể tìm thấy bằng chứng cho thấy đứa bé chết non và không có cách giải thích nào khác cho cái chết của bé. Lời khai của cô ta bị nhân chứng của Nhà nước, Bác sĩ Dennis McNally, bác sĩ sản phụ khoa đã khám cho chị Colbey hai tuần sau khi sinh non, vạch trần là không đáng tin cậy. Bác sĩ McNaily đã làm chứng rằng cái thai của chị Colbey [7] có nguy cơ cao “chết không rõ nguyên nhân” phần vì tuổi tác của chị, phần vì cả mẹ lẫn con không được chăm sóc tiền sản. Kết luận của Enstice [8] cũng bị Bác sĩ Werner Spitz, tác giả của một luận thuyết y học mà Enstice dựa vào trong quá trình theo học bệnh lý học pháp y, đặt dấu hỏi. Bác sĩ Spitz làm chứng cho bên bị rằng trong trường hợp này, ông sẽ “không bao giờ” kết luận đứa bé sinh ra còn sống, huống chi coi đây là một vụ giết người.
Không có bằng chứng khoa học đáng tin cậy nào cho thấy tội ác đã xảy ra, Nhà nước liền đưa ra chứng cứ rất kích động rằng Marsha nghèo túng, từng sử dụng ma túy, và rõ ràng là một người mẹ tồi vì đã không đi chăm sóc tiền sản. Các cảnh sát điều tra đã vào nhà chị [9] , chụp ảnh bồn cầu chưa giật nước cùng một lon bia trên sàn nhà. Những tấm ảnh này sau đó được đưa ra trước bồi thẩm đoàn như một bằng chứng cho thấy chị là một bà mẹ tồi tệ và cẩu thả.
Chị Colbey nhất nhất khẳng định [10] qua nhiều cuộc thẩm vấn rằng đứa bé đã chết non. Chị nói với các điều tra viên rằng con trai mình sinh ra đã chết và chưa từng có lấy một hơi thở, dù chị đã cố gắng cứu sống bé. Khẳng định mình không làm gì sai, chị từ chối đề nghị thương lượng nhận tội [11] của Nhà nước, theo đó, nếu nhận tội, chị sẽ chỉ phải đi tù mười tám năm.
Vụ truy tố Marsha Colbey cuối cùng cũng thu hút sự chú ý của báo giới, giới này lại bị kích động bởi một câu chuyện nữa về kiểu “bà mẹ nguy hiểm”. Sự việc bị truyền thông địa phương thổi phồng, trong đó cảnh sát và công tố viên được ca ngợi vì đã giúp đỡ một đứa trẻ sơ sinh không có khả năng tự vệ. Việc ác quỷ hóa những bà mẹ vô trách nhiệm đã trở thành cơn sốt của giới truyền thông vào thời điểm phiên tòa xử Marsha được lên lịch. Cả đất nước say sưa với những câu chuyện bi thảm mẹ giết con. Khi Andrea Yates dìm chết năm đứa con của mình ở Texas năm 2001, bi kịch đó trở thành câu chuyện quốc gia. Những cố gắng của Susan Smith khi đổ lỗi bừa cho những người đàn ông da đen về cái chết của các con mình ở South Carolina trước khi thú nhận đã giết chúng cuốn hút những người Mỹ vốn đã ám ảnh về tội phạm. Cuối cùng, sự hứng thú của giới truyền thông đối với những câu chuyện kiểu này trở thành mối quan tâm lên đến tầm quốc gia. Tạp chí Time gọi vụ khởi tố [12] Casey Anthony, một bà mẹ trẻ ở Florida sau cùng đã được xử trắng án trước cái chết của cô con gái hai tuổi, là “phiên tòa truyền thông xã hội của thế kỷ” sau khi câu chuyện xuất hiện liên tục trên các kênh truyền hình cáp.
Việc cha mẹ giết con là rất kinh khủng và thường bị các chứng bệnh tâm thần nghiêm trọng làm cho thêm phần phức tạp như trong trường hợp của Yates và Smith. Nhưng những vụ việc này cũng có xu hướng tạo ra sự méo mó và định kiến. Cảnh sát và các công tố viên bị tác động bởi tin tức báo chí, và một giả định có tội mặc nhiên giáng xuống hàng nghìn phụ nữ có con chết đột ngột, đặc biệt là những phụ nữ nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù nắm giữ vị trí nổi bật trong số các nước phát triển, song nước Mỹ vẫn luôn phải vật lộn với tỷ lệ tử vong cao ở trẻ sơ sinh - cao hơn rất nhiều so với hầu hết các nước phát triển khác. Tình trạng nhiều phụ nữ nghèo không được chăm sóc y tế đầy đủ, bao gồm cả chăm sóc trước và sau khi sinh, đã là một vấn đề nghiêm trọng ở đất nước này suốt nhiều thập kỷ. Ngay cả với những chuyển biến gần đây, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh vẫn tiếp tục là nỗi hổ thẹn đối với một quốc gia chi tiêu cho y tế nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Việc hình sự hóa cái chết của trẻ sơ sinh [13] và bắt bớ những phụ nữ nghèo mất con đã mang những chiều kích mới ở nước Mỹ thế kỷ 21, và các nhà tù trên khắp cả nước bắt đầu làm chứng cho điều này.
Các cộng đồng truy quét những bà mẹ tồi tệ đáng phải ngồi tù. Cùng khoảng thời gian Marsha bị khởi tố, Bridget Lee hạ sinh một đứa bé chết non ở hạt Pickens, Alabama. Cô bị buộc tội giết người và bị tù oan. Lee, một nghệ sĩ piano của nhà thờ, bà mẹ hai con, và là một nhân viên kế toán ngân hàng, đã dính bầu sau một vụ ngoại tình. Sợ hãi và buồn phiền, người phụ nữ 34 tuổi che giấu việc mang thai của mình và hy vọng có thể bí mật cho đứa trẻ đi làm con nuôi. Nhưng cô lại chuyển dạ năm tuần trước ngày dự sinh, và em bé bị chết non. Cô không kể với chồng về vụ sinh non, và điều này đã làm dấy lên những nghi ngờ. Hoàn cảnh mang thai tai tiếng của Lee cũng đủ để khiến nhà bệnh học thực hiện khám nghiệm tử thi kết luận rằng đứa bé vẫn sống khi sinh ra nhưng đã bị Lee bóp chết. Nhiều tháng sau khi Lee bị bắt và buộc tội giết người, sáu nhà bệnh học đã khám nghiệm tử thi đứa trẻ và nhất trí kết luận đứa bé chết vì bệnh viêm phổi ở trẻ sơ sinh - đó là một ca chết non điển hình với những đặc điểm rất phổ biến. Thông tin mới này đã buộc công tố viên [14] phải bãi bỏ mọi cáo buộc, nhờ đó Lee thoát án tử hình. Nhà bệnh học mất uy tín kia chuyển khỏi Alabama nhưng vẫn tiếp tục thực hiện các giám định y khoa ở Texas.
Trong hàng trăm trường hợp khác, những người phụ nữ bị kết tội oan không bao giờ nhận được sự hỗ trợ pháp y mà họ cần để tránh được các bản án oan sai. Một vài năm trước đó, trước khi đại diện cho Marsha Colbey, chúng tôi đã đảm nhận vụ việc của Diane Tucker và Victoria Banks. Là một phụ nữ da đen chậm trí ở hạt Choctaw, Alabama, cô Banks đã bị buộc tội giết đứa con sơ sinh của mình dù cảnh sát không có cơ sở đáng tin cậy nào để khẳng định cô từng mang thai. Cô Banks được cho là đã nói với một phó cảnh sát trưởng rằng mình mang bầu để tránh phải ngồi tù vì một vấn đề không liên quan. Nhiều tháng sau khi vẫn không thấy cô có con, cảnh sát buộc cô tội giết con. Khù khờ và không được hỗ trợ đầy đủ về mặt pháp lý, cô Banks bị ép phải nhận tội giết một đứa trẻ chưa từng tồn tại với sự thông đồng của em gái mình là cô Tucker. Vì phải đối mặt với cáo buộc giết người và mức án tử hình, cô đã đồng ý thương lượng và chấp nhận bản án hai mươi năm tù giam. Nhà chấp pháp từ chối điều tra lời khiếu oan của cô trước khi đưa cô tới nhà tù. Chúng tôi đã giành lại tự do cho cô Banks [15] sau khi xác định rằng cô đã thắt ống dẫn trứng năm năm trước khi bị bắt, vì vậy về mặt sinh học cô không thể thụ thai, huống chi là sinh con.
Bên cạnh những cái chết không rõ nguyên nhân của trẻ sơ sinh có mẹ là những phụ nữ nghèo, các hình thức “làm cha mẹ tồi” khác cũng bị hình sự hóa. Năm 2000, Alabama thông qua một đạo luật mà theo đó, việc để trẻ em tiếp xúc với một “môi trường nguy hiểm,” nơi các em có thể dính phải ma túy, là một tội đại hình. Đạo luật về “mối nguy hiểm hóa học đối với trẻ” này rõ ràng được thông qua để bảo vệ những em nhỏ sống trong các gia đình có hoạt động điều chế hoặc buôn bán ma túy. Tuy nhiên, đạo luật này lại được áp dụng rộng rãi hơn, và không lâu sau hàng nghìn bà mẹ sống trong những cộng đồng nghèo khó bên lề xã hội, nơi ma túy và tình trạng nghiện ngập diễn ra tràn lan, cũng phải đối mặt với nguy cơ bị truy tố.
Cuối cùng, Tòa án Tối cao Alabama [16] diễn giải thuật ngữ môi trường bao gồm cả tử cung và thuật ngữ đứa trẻ bao gồm cả thai nhi. Phụ nữ mang thai giờ có thể bị truy tố hình sự và phải ngồi tù hàng chục năm nếu có bằng chứng cho thấy họ đã sử dụng ma túy vào bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ. Trong những năm trở lại đây, có hàng chục phụ nữ đã bị tống giam theo luật này, thay vì nhận được sự giúp đỡ cần thiết.
Cơn kích động quanh những bà mẹ tồi đã khiến một phiên xử công bằng dành cho Marsha Colbey trở nên khó khăn. Trong quá trình tuyển chọn bồi thẩm đoàn, nhiều bồi thẩm viên tuyên bố họ không thể nhìn nhận khách quan về chị Colbey. Một số bồi thẩm viên cho biết họ cảm thấy [17] cáo buộc giết con ghê rợn đến nỗi họ không thể tôn trọng giả thuyết vô tội. Một số người tiết lộ rằng [18] họ có quan hệ thân thiết với một điều tra viên của bang - một nhân chứng quan trọng của Nhà nước đặc biệt lớn tiếng khi nhận diện các bà mẹ tồi - đến mức họ “tin tưởng anh ta ngay lập tức” và sẽ “tin bất cứ điều gì anh ta nói là thật”. Một bồi thẩm viên khác thì thừa nhận [19] ông ta tin tưởng các nhân chứng của cơ quan chấp pháp đến mức ông sẽ “tin bất kỳ điều gì họ nói”.
Tòa sơ thẩm cho phép hầu hết những bồi thẩm viên này tham gia hội thẩm, bất chấp phản đối của bên bị. Cuối cùng, một bồi thẩm đoàn mang nhiều giả định và định kiến vào cuộc xét xử Marsha Colbey đã được lựa chọn để quyết định số phận của chị.
Bồi thẩm đoàn quyết định Colbey đã phạm tội giết người. Trước khi đưa ra phán quyết này, các bồi thẩm viên bày tỏ lo ngại về khả năng Colbey sẽ phải chịu mức án tử hình, vì vậy Nhà nước đồng ý không theo đuổi bản án tử hình nếu chị bị buộc tội. Sự nhượng bộ này đã khiến tòa kết án lập tức. Tòa sơ thẩm kết án tù chung thân không ân xá đối với Colbey, và rất chóng vánh, chị bị cùm chân trên một chiếc xe tù, lên đường tới nhà tù nữ Julia Tutwiler.
Được xây dựng từ những năm 1940, nhà tù Tutwiler nằm ở Wetumpka, Alabama. Được đặt theo tên người phụ nữ đã thúc đẩy hoạt động giáo dục tù nhân và đấu tranh vì điều kiện giam giữ nhân đạo, Tutwiler đã trở thành một nhà tù chật chội, cơn ác mộng đáng sợ đối với những phụ nữ bị mắc kẹt ở đó. Các tòa án đã nhiều lần phát hiện ra nhà tù này vi hiến khi giam giữ quá tải, với số lượng nữ tù nhân cao gần gấp đôi quân số mà nó có thể chứa. Tại Mỹ, số phụ nữ bị tù giam năm 2010 đã tăng 646% so với năm 1980, cao gấp 1,5 lần tỷ lệ tăng ở nam giới. Với gần 200.000 phụ nữ bị giam trong các trại tạm giam và nhà tù, và hơn một triệu phụ nữ nằm trong tầm giám sát hoặc kiểm soát của hệ thống tư pháp hình sự, tình trạng giam giữ phụ nữ ở Mỹ đã đạt đến mức kỷ lục.
Tại Tutwiler, phụ nữ bị dồn vào các buồng giam tập thể và những không gian sống tạm bợ. Marsha bị sốc vì sự quá tải ở đây. Là nhà tù nữ duy nhất của bang, Tutwiler không có cách nào để phân loại và sắp xếp nữ tù nhân vào những buồng giam chung phù hợp. Những phụ nữ phải chiến đấu với bệnh tâm thần nặng hoặc những vấn đề nghiêm trọng về cảm xúc bị ném vào chung buồng với các phụ nữ khác, khiến cuộc sống trong các buồng giam tập thể trở nên hỗn loạn và căng thẳng đối với tất cả mọi người. Marsha không bao giờ có thể quen với tiếng la hét vô cớ suốt đêm của các bạn tù trong buồng giam đông đúc.
Hầu hết — gần hai phần ba — những phụ nữ bị giam giữ phải ngồi tù vì các tội phi bạo lực, tội nhẹ liên quan đến ma túy hoặc tội về tài sản. Đặc biệt, những đạo luật về ma túy có ảnh hưởng rất lớn đến số lượng phụ nữ bị cầm tù. Các đạo luật “bất quá tam” cũng giữ một vai trò đáng kể. Tôi bắt đầu phản đối các điều kiện giam giữ ở Tutwiler từ giữa những năm 1980 khi còn là một luật sư trẻ của Ủy ban Bảo vệ Tù nhân miền Nam. Tại thời điểm đó, tôi đã sốc khi thấy những phụ nữ bị giam cầm vì những tội nhẹ như vậy. Một trong những nữ tù nhân đầu tiên tôi gặp là một người mẹ trẻ bị kết án tù dài hạn vì đã viết séc mua cho ba đứa con nhỏ của mình quà Giáng sinh trong khi không có đủ tiền trong tài khoản. Như một nhân vật trong tiểu thuyết của Victor Hugo, cô vừa khóc vừa giải thích cho tôi về câu chuyện đau lòng của mình. Tôi không thể tin nổi những điều tai nghe cho đến khi kiểm tra hồ sơ và phát hiện ra rằng cô quả thực bị kết tội và kết án hơn 10 năm tù vì đã viết năm tấm séc, trong đó có ba tấm cho cửa hàng đồ chơi Toys “R” Us; không tấm nào quá 150 đô-la. Cô không phải là ngoại lệ. Hàng nghìn phụ nữ khác đã bị kết án tù dài hạn vì viết séc khống hoặc vì những tội nhẹ liên quan đến tài sản, trong đó những mức án tối thiểu bắt buộc đã được áp dụng.
Hậu quả gián tiếp của việc giam giữ phụ nữ cũng rất nghiêm trọng. Khoảng 75 đến 80% [20] những phụ nữ bị giam giữ đang có con nhỏ. Gần 65% đang sống cùng con nhỏ tại thời điểm bị bắt giữ - hậu quả là những đứa trẻ này trở nên dễ tổn thương và gặp nhiều rủi ro hơn khi người mẹ bị giam giữ, và tình trạng ấy sẽ kéo dài suốt quãng đời còn lại của các em, kể cả sau khi người mẹ ra tù. Năm 1996, Quốc hội thông qua luật cải cách phúc lợi, trong đó có một điều khoản rất vô lý cho phép các bang cấm những người bị kết án liên quan đến ma túy hưởng phúc lợi xã hội. Nhóm dân số chịu ảnh hưởng nhiều nhất của đạo luật sai lầm này là những bà mẹ từng bị giam giữ, đa số bị bỏ tù vì các tội liên quan đến ma túy. Những phụ nữ này và con cái họ không còn được sống trong các khu nhà ở xã hội, nhận tem phiếu thực phẩm, hay tiếp cận các dịch vụ cơ bản nữa. Trong hai mươi năm qua, chúng ta đã tạo ra một tầng lớp “tiện dân” mới trong xã hội Mỹ, góp mặt trong số đó là những người mẹ dễ bị tổn thương nhất và những đứa con của họ.
Marsha trải qua những ngày đầu tiên ở Tutwiler mà không thể tin nổi những gì diễn ra. Chị gặp những phụ nữ khác cũng phải vào tù sau khi sinh non giống như mình. Efernia McClendon, một thiếu nữ da đen ở Opelika, Alabama, mang thai khi còn học phổ thông và không nói cho bố mẹ biết. Cô chuyển dạ khi cái thai mới được hơn năm tháng, và bỏ xác đứa trẻ sinh non trong một rãnh thoát nước. Khi thi thể đứa bé bị phát hiện, cô bị cảnh sát thẩm vấn cho đến khi cô phải thừa nhận rằng mình không dám bảo đảm 100% rằng đứa trẻ sơ sinh đã không cử động chút nào trước khi chết, dù khả năng ấy cực kỳ khó xảy ra trong trường hợp sinh non. Bị đe dọa kết án tử hình, cô gia nhập một cộng đồng ngày càng đông những phụ nữ bị bỏ tù vì mang thai ngoài ý muốn và có những quyết định sai lầm.
Cuộc đời và nỗi đau của những phụ nữ này quấn vào nhau tại Tutwiler. Marsha không thể không để ý thấy một số phụ nữ chẳng bao giờ có người đến thăm. Dù đã thử nhưng chị không thể nào thờ ơ với những người dường như đang đau khổ cùng cực quanh mình - những người khóc nhiều hơn bình thường, những người luôn canh cánh về những đứa con hay bậc sinh thành mà họ phải bỏ lại, hay những người đặc biệt buồn phiền và tuyệt vọng. Họ gắn bó với nhau, và một ngày tồi tệ đối với một người chắc chắn sẽ trở thành một ngày tồi tệ đối với tất cả mọi người. Niềm an ủi duy nhất trong tình cảnh đó là những khoảnh khắc vui tươi cũng được san sẻ. Một lệnh ân xá, một lá thư được mong chờ, hay chuyến thăm của một người thân lâu ngày không gặp đều vực dậy tinh thần của tất cả mọi người.
Nếu nỗi đau của những phụ nữ khác là thách thức lớn nhất của Marsha ở Tutwiler, thì những năm tháng của chị ở đó có khó khăn nhưng vẫn trong tầm kiểm soát của chị. Nhưng còn có những vấn đề lớn hơn thế, xuất phát từ chính những cán bộ cải huấn. Phụ nữ ở Tutwiler bị cai tù cưỡng hiếp. Họ bị các cán bộ nam quấy rối, bóc lột, lạm dụng và tấn công tình dục bằng vô số cách khác nhau. Giám đốc nhà tù cho phép quản giáo nam vào buồng tắm điểm danh tù nhân. Bọn họ nhìn trộm phụ nữ khỏa thân, buông những lời nhận xét tục tĩu và đe dọa đầy ẩn ý. Nữ tù nhân không có sự riêng tư trong phòng tắm khi các cán bộ nam có thể đứng xem họ sử dụng nhà vệ sinh. Có những hàng lang và góc tối đáng sợ ở Tutwiler, nơi phụ nữ có thể bị đánh đập hoặc cưỡng hiếp. EJI đã yêu cầu Sở Cải huấn lắp đặt camera an ninh trong các buồng giam, nhưng yêu cầu này bị từ chối. Văn hóa bạo lực tình dục tràn lan đến mức ngay cả cha tuyên úy của nhà tù cũng tấn công tình dục nữ tù nhân khi họ tới nhà nguyện.
Một thời gian ngắn sau khi Marsha đến Tutwiler, chúng tôi đã giành lại được tự do cho Diane Jones, một người bị buộc tội oan và kết án tù chung thân vì một tội mà cô không hề phạm phải. Diane bị cho là có dính líu tới hoạt động buôn bán ma túy liên quan đến người bạn trai cũ. Cô bị kết án với nhiều cáo buộc mà hệ quả là một bản án tù chung thân không ân xá bắt buộc. Chúng tôi phản đối bản án này và cuối cùng đã giành lại được tự do cho cô. Sự kiện Diane Jones, một người bị kết án chung thân, được trả tự do đã mang lại hy vọng cho tất cả những tù nhân chung thân khác ở Tutwiler. Tôi nhận được thư từ những phụ nữ mà tôi chưa một lần gặp mặt cảm ơn tôi vì đã giúp đỡ Diane. Trong thời gian xử lý vụ việc, tôi đã tới Tutwiler để gặp Diane, cô kể với tôi rằng các bạn tù của cô đang khẩn thiết mong chờ sự giúp đỡ như thế nào.
“Anh Bryan, tôi có khoảng chín mảnh giấy nhắn mà mọi người muốn nhờ tôi chuyển cho anh. Như thế là quá nhiều để có thể qua mặt giám thị nên tôi không mang chúng theo được, nhưng những phụ nữ này muốn được anh giúp đỡ.”
“Này, đừng cố đưa lén giấy nhắn đấy. Họ có thể viết thư cho chúng tôi mà.”
“Vâng, mấy người nói rằng họ đã viết.”
“Chúng tôi đang ngập lụt trong công việc, Diane à. Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi sẽ cố gắng trả lời họ.”
“Tôi chủ yếu lo cho những người bị tù chung thân. Họ là những người sẽ chết ở đây.”
“Chúng tôi đang cố gắng - chúng tôi chỉ có thể làm đến vậy.”
“Tôi sẽ nói lại với họ, tôi biết mà. Họ chỉ đang tuyệt vọng quá thôi, giống như tôi đã tuyệt vọng trước khi các anh tới giúp tôi. Marsha, Ashley, Monica, Patricia đang hối thúc tôi bảo anh cử ai đó đến giúp họ đấy.”
Chúng tôi gặp Marsha Colbey không lâu sau đó và bắt đầu nghiên cứu cách kháng cáo cho chị. Chúng tôi quyết định phản bác cáo buộc của Nhà nước cũng như cách thức lựa chọn bồi thẩm đoàn. Charlotte Morrison, một học giả Rhodes và là học trò cũ của tôi, hiện là luật sư cao cấp tại EJI. Cô và luật sư Kristen Nelson - một cựu sinh viên Luật Harvard từng làm việc cho Cục Bào chữa Công của Đặc khu Columbia, văn phòng bào chữa công hàng đầu nước Mỹ, đã gặp Marsha nhiều lần. Chị kể về vụ việc của mình, những khó khăn trong việc giữ êm gia đình trong khi chị ở tù, và hàng loạt vấn đề khác. Nhưng bạo lực tình dục ở Tutwiler là chủ đề được nhắc đến nhiều hơn cả trong những chuyến thăm này.
Charlotte và tôi đảm nhận vụ việc của một phụ nữ đã đệ đơn kiện dân sự liên bang sau khi cô bị cưỡng hiếp ở Tutwiler. Cô không được trợ giúp pháp lý. Do những thiếu sót của biên bản bào chữa và các lý lẽ cô đưa ra trong đơn khiếu nại, chúng tôi chỉ có thể đảm bảo một phán quyết hòa giải nhỏ cho cô. Nhưng những chi tiết về trải nghiệm của cô đau đớn đến nỗi chúng tôi không thể bỏ qua vấn đề bạo lực ấy. Chúng tôi bắt đầu một cuộc điều tra. Chúng tôi phỏng vấn hơn 50 phụ nữ. Chúng tôi thật sự sốc khi thấy tình trạng bạo lực tình dục đã lan rộng đến mức nào. Một số phụ nữ bị cưỡng hiếp và mang thai. Ngay cả khi xét nghiệm ADN xác nhận các nam quản giáo là cha của đứa trẻ, sự việc cũng không được xử lý. Những viên quản giáo bị khiếu nại tấn công tình dục nhiều lần thường được tạm thời điều chuyển làm các công việc khác hoặc chuyển sang các nhà tù khác, để rồi cuối cùng họ lại trở về Tutwiler và tiếp tục săn lùng phụ nữ. Cuối cùng chúng tôi gửi khiếu nại lên Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và công bố một số báo cáo công khai về vấn đề này, được truyền thông đưa tin rộng rãi. Tutwiler bị đưa vào danh sách một trong mười nhà tù tệ nhất nước Mỹ theo tổng hợp của Mother Jones ; đó là nhà tù nữ duy nhất nhơ nhuốc đến thế. Theo sau đó là các phiên tòa bàn về nội quy và những thay đổi chính sách tại nhà tù. Những quản giáo nam giờ đã bị cấm vào khu vực nhà tắm và nhà vệ sinh, và nhà tù được giao cho một giám đốc mới phụ trách.
Bất chấp khó khăn, Marsha vẫn kiên trì và bắt đầu vận động cho một số phụ nữ trẻ tuổi hơn. Chúng tôi vô cùng thất vọng khi Tòa Phúc thẩm Hình sự ra phán quyết y án đối với Marsha. Chúng tôi kiến nghị Tòa án Tối cao Alabama xem xét lại và giành được một phiên xử mới với lý do thẩm phán sơ thẩm đã để những người có thành kiến và không thể giữ thái độ khách quan thực hiện nghĩa vụ bồi thẩm. Marsha và nhóm chúng tôi rất mừng, nhưng những quan chức của hạt Baldwin thì không. Họ dọa sẽ tái truy tố. Chúng tôi mời các chuyên gia bệnh học cùng tham gia thuyết phục nhà chức trách địa phương rằng không có cơ sở để buộc tội Marsha giết người. Chúng tôi đã mất hai năm giải quyết vụ việc và thêm một năm nữa tranh cãi với Sở Cải huấn để họ hoàn toàn công nhận quãng thời gian Marsha đã thi hành án, trước khi chị được trả tự do vào tháng Mười hai năm 2012 sau mười năm ngồi tù oan.
Từ lâu, chúng tôi đã bắt đầu tổ chức dạ tiệc gây quỹ vào tháng Ba hàng năm ở thành phố New York để gây quỹ cho EJI. Mỗi năm chúng tôi lại vinh danh một người nổi bật trong lĩnh vực dịch vụ công và một thân chủ. Những năm trước, chúng tôi đã vinh danh Marian Wright Edelman, một luật sư dân quyền quả cảm và là nhà sáng lập Quỹ Bảo vệ Trẻ em. Năm 2011, chúng tôi vinh danh cựu thẩm phán Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ John Paul Stevens. Tôi từng gặp Thẩm phán Stevens tại một hội thảo nhỏ khi còn là một luật sư trẻ, và ông đối đãi với tôi rất mực tử tế. Tới lúc nghỉ hưu, ông đã trở thành nhà phê bình mạnh mẽ nhất trong Pháp viện, sẵn sàng lên tiếng phản bác những hình phạt thái quá và tệ giam giữ hàng loạt. Năm 2013, cùng với Marsha Colbey, chúng tôi quyết định vinh danh cựu giám đốc Quỹ Bảo vệ Pháp lý NAACP, Elaine Jones, và các nhà sáng lập hãng kem Ben & Jerry’s, đồng thời cũng là những nhà hoạt động xã hội cấp tiến Ben Cohen và Jerry Greenfield. Ca sĩ, nhạc sĩ huyền thoại Roberta Flack nhận lời mời biểu diễn. Bà đã hát bài “Isn’t It a Pity” (Đó chẳng phải là điều đáng tiếc hay sao) của George Harrison trước khi chúng tôi trao giải cho Marsha.
Trong phần giới thiệu của mình, tôi đã kể với khán giả chuyện Marsha đến văn phòng EJI để cảm ơn mọi người hôm chị được trả tự do khỏi Tutwiler. Chồng và hai con gái của chị đã đến đón chị tại Tutrwiler. Con gái út của Marsha, lúc đó khoảng mười hai tuổi, khiến gần như tất cả chúng tôi phải rơi nước mắt khi không chịu rời mẹ trong suốt quãng thời gian họ ở EJI. Cô bé quấn lấy mẹ, giữ lấy cánh tay mẹ và dựa vào mẹ như thể em định không bao giờ để ai chia tách hai mẹ con nữa. Chúng tôi chụp ảnh cùng Marsha và một số nhân viên, và con gái chị xuất hiện trong tất cả các bức hình vì em không chịu xa mẹ một giây. Nội điều đó thôi cũng cho thấy rõ Marsha Colbey là một người mẹ như thế nào. Marsha bước lên bục phát biểu trong bộ đầm xanh duyên dáng.
“Tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn vì đã thừa nhận tôi và những điều tôi từng trải qua. Các bạn đã đối xử với tôi thật tốt. Tôi vô cùng hạnh phúc vì được tự do.” Chị bình thản nói với đông đảo khán giả. Chị nói rất rõ ràng, cuốn hút, và chỉ trở nên xúc động khi nói về những người bạn tù mà chị phải để lại phía sau.
“Tôi rất may mắn. Tôi nhận được sự giúp đỡ mà phần lớn những người phụ nữ khác không có. Lúc này, đây là điều làm tôi áy náy nhất, khi biết họ vẫn đang ở đó còn mình đã được về nhà. Tôi hy vọng chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để giúp đỡ nhiều người hơn nữa.” Bộ váy của chị lấp lánh dưới ánh đèn, và khán giả đứng dậy vỗ tay trong khi Marsha khóc cho những người bạn tù mà chị phải bỏ lại.
Sau lời phát biểu của chị, tôi chẳng thể nghĩ nổi điều gì để nói. “Chúng ta cần thêm hy vọng, chúng ta cần thêm tình thương. Chúng ta cần thêm công lý.”
Rồi tôi giới thiệu Elaine Jones, bà mở lời: “Marsha Colbey - không phải cô ấy thật đẹp hay sao?”