Chương mười ba PHỤC HỒI
Khoảng thời gian sau khi Walter được trả tự do đã xảy ra những sự kiện hoàn toàn bất ngờ. Tờ New York Times có bài trên trang nhất về cuộc giải oan và ra tù của Walter. Chúng tôi ngập trong những lời mời của giới truyền thông, Walter và tôi trả lời phỏng vấn trên truyền hình với các hãng thông tấn địa phương, quốc gia và thậm chí cả quốc tế khi họ muốn đưa tin về câu chuyện. Mặc dù một mặt tôi khá dè dặt với giới truyền thông trong những vụ việc chưa giải quyết xong, nhưng mặt khác tôi cũng tin rằng nếu người dân ở hạt Monroe nghe được nhiều tin tức về sự kiện Walter được thả vì vô tội, họ sẽ dễ chấp nhận anh hơn khi anh trở về.
Walter không phải là tử tù đầu tiên được minh oan và phóng thích. Trước anh, có hàng chục tử tù oan khác đã được trả tự do. Trung tâm Thông tin về Án tử hình cho biết Walter là người thứ 50 được xóa tội trong thời hiện đại. Tuy nhiên, trước anh có rất ít trường hợp thu hút nhiều sự chú ý của truyền thông. Cuộc phóng thích Clarence Brantley năm 1990 ở Texas được truyền thông đưa tin chút ít - vụ việc của anh này cũng từng được lên chương trình 60 Phút. Randall Dale Adams thì truyền cảm hứng cho bộ phim tài liệu hấp dẫn và từng đoạt giải thưởng của Errol Morris mang tên Lằn ranh mỏng (The Thin Blue Line). Bộ phim có vai trò quan trọng trong việc minh oan cho Adams, và anh được phóng thích khỏi trại tử tù Texas không lâu sau khi phim được công chiếu. Tuy vậy, chưa có trường hợp nào lại được đưa tin nhiều như sự kiện Walter được tuyên trắng án.
Năm 1992, một năm trước khi Walter được trả tự do, nước Mỹ có 38 người bị xử tử. Đây là năm có số vụ xử tử lớn nhất kể từ khi thời kỳ hiện đại của những bản án tử hình bắt đầu năm 1976. Năm 1999, con số đã lên tới 98 vụ xử tử. Cuộc phóng thích Walter diễn ra đúng vào thời điểm truyền thông ngày càng quan tâm tới án tử hình vì tốc độ thi hành án được đẩy mạnh. Câu chuyện của anh là một phản đề nhằm vào tính công bằng và đáng tin cậy của bản án tử hình vốn vẫn được các chính trị gia và nhà chấp pháp tuyên truyền để có thể xử tử nhiều hơn nữa và nhanh hơn nữa. Trường hợp của Walter đã làm cuộc tranh luận trở nên phức tạp theo những cách thức sôi động hơn hẳn.
Walter và tôi đi dự các hội nghị pháp lý, diễn thuyết về trải nghiệm của anh và về bản án tử hình. Vài tháng sau khi Walter được trả tự do, Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ có tổ chức các phiên điều trần về sự vô tội và bản án tử hình, và chúng tôi cùng ra làm chứng. Cuốn sách Chứng cứ gián tiếp (Circumstantial Evidence) của Pete Early được xuất bản vài tháng sau khi Walter được phóng thích, cung cấp chi tiết về vụ việc. Walter thích được đi đây đó và được chú ý, mặc dù anh không thích nói trước đám đông cho lắm. Đôi khi các chính khách nói những lời khiêu khích - ví dụ như việc Walter được xóa tội chứng tỏ hệ thống đang hoạt động tốt - làm tôi rất bực mình. Bài diễn thuyết của tôi đôi lúc trở nên hiếu chiến. Nhưng Walter thì luôn điềm tĩnh, vui vẻ và chân thành - phong cách trình bày của anh rất hiệu quả: nghe anh kể chuyện với sự hài hước, thông minh và thành thật, khán giả càng cảm thấy ghê sợ hơn trước thực tế là Nhà nước nhân danh tất cả chúng ta đã từng kiên quyết xử tử người đàn ông này. Đó là một bài trình bày lôi cuốn. Chúng tôi có khá nhiều thời gian ở cạnh nhau, và Walter thỉnh thoảng tâm sự với tôi rằng anh vẫn áy náy khi nghĩ về những người mà anh phải bỏ lại trong trại tử tù. Đối với anh, họ là những người bạn. Đằng sau những bài trình bày nhẹ nhàng đó, Walter phản đối gay gắt hình phạt tử hình, một vấn đề mà anh thừa nhận mình chưa bao giờ nghĩ tới cho đến khi bản thân phải đối mặt với nó.
Mấy tháng sau khi Walter được trả tự do, tôi vẫn lo ngại về chuyện để anh trở về hạt Monroe. Bữa đại tiệc được tổ chức ngay sau khi anh ra tù có hàng trăm người tới dự để chúc mừng anh, nhưng tôi biết không phải ai trong cộng đồng cũng vui mừng. Tôi không kể với Walter về những lời đe dọa giết chóc và đánh bom chúng tôi nhận được trước khi anh được thả, mà chỉ dặn anh phải cẩn thận. Tuần đầu tiên sau khi ra tù, anh ở Montgomery, rồi sau đó anh chuyển tới Florida sống cùng chị gái hai tháng. Chúng tôi vẫn nói chuyện gần như mỗi ngày. Anh đã chấp nhận chuyện Minnie muốn sống tiếp mà không có anh, và tỏ ra khá vui vẻ và lạc quan. Nhưng điều đó không có nghĩa là phần đời tù tội của anh không để lại di chứng gì. Anh bắt đầu kể với tôi nhiều hơn về cảm giác nặng nề không chịu nổi khi sống trong mối đe dọa thường trực về cuộc xử tử trong trại tử tù. Anh thừa nhận những nỗi sợ và nỗi hoài nghi mà anh đã không kể cho tôi hồi còn bị giam giữ. Anh đã chứng kiến sáu người bị xử tử trong thời gian ở đó. Khi các cuộc xử tử diễn ra, anh phản ứng giống như các tù nhân khác bằng cả những cuộc phản kháng tượng trưng lẫn những khoảnh khắc đau đớn riêng tư. Nhưng anh nói chỉ đến khi ra tù, anh mới nhận ra những trải nghiệm đó đã làm anh hoảng sợ đến mức nào. Anh trăn trở không hiểu tại sao nó vẫn ám ảnh anh đến tận lúc này khi anh đã tự do.
“Tại sao tôi cứ nghĩ mãi về nó nhỉ?”
Thỉnh thoảng anh than phiền về những cơn ác mộng. Nếu một người bạn hay họ hàng nói gì đó về việc họ ủng hộ án tử hình - chỉ không phải là bản án dành cho Walter, anh sẽ thấy run sợ.
Tôi chỉ có thể nói với anh là mọi chuyện rồi sẽ khá lên.
Mấy tháng sau, Walter tha thiết mong được trở về nơi anh đã sinh sống cả cuộc đời. Điều này làm tôi lo lắng, nhưng anh nói là làm, anh đặt một căn nhà lưu động trên mảnh đất của anh ở hạt Monroe và sống ở đó. Anh trở lại với nghề gỗ trong khi chúng tôi lên kế hoạch kiện những người có liên can đến quá trình truy tố và kết án oan Walter.
Hầu hết những người ra tù sau khi được minh oan không nhận được chút tiền bồi thường, sự hỗ trợ hay tư vấn nào - không chút gì từ chính quyền đã bỏ tù oan họ. Vào thời điểm Walter được trả tự do, chỉ có mười bang và Đặc khu Columbia là có luật bồi thường cho người bị tù oan. Con số đã tăng lên kể từ đó, nhưng thậm chí đến nay, vẫn còn gần một nửa số bang (22 bang) không có chế độ bồi thường cho người bị tù oan. Nhiều bang có chế độ hỗ trợ tài chính lại áp mức trần rất thấp cho số tiền đền bù. Bất kể một người vô tội bị tù oan bao nhiêu năm, bang New Hampshire vẫn đặt mức trần đền bù là 20.000 đô-la; Wisconsin 25.000 đô-la; Oklahoma và Illinois giới hạn tổng số tiền một người vô tội có thể được bồi thường không quá 200.000 đô-la, kể cả khi người đó bị giam cầm hàng chục năm trong tù. Trong khi các bang khác áp mức trần hơn 1 triệu đô-la, và nhiều bang không có mức trần, một số bang lại áp đặt các các điều kiện ngặt nghèo. Tại một số khu vực pháp lý, nếu một người không nhận được sự ủng hộ của vị công tố viên đã kết án oan cho anh ta, người đó sẽ không được bồi thường.
Vào thời điểm Walter được trả tự do, Alabama không nằm trong số ít bang có hỗ trợ tài chính cho người vô tội được phóng thích. Có một dự luật đặc biệt về bồi thường cho người bị kết án oan mà cơ quan lập pháp Alabama có thể thông qua, nhưng điều đó gần như sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Sau khi một nhà lập pháp địa phương công bố một dự luật nhằm đòi bồi thường cho Walter, một tờ báo địa phương loan tin rằng Walter đang đòi 9 triệu đô-la. Dự luật được đề xuất mà Walter không hề hay biết này chẳng đi đến đâu. Nhưng tin tức về khoản bồi thường 9 triệu đô-la đã làm những người ở Monroeville vẫn nghi ngờ sự vô tội của anh phẫn nộ, đồng thời khiến một số bạn bè và người thân của Walter phấn khích, một số người bắt đầu quyết liệt đeo bám anh để xin tiền. Một phụ nữ thậm chí còn kiện đòi Walter cấp dưỡng, chị ta tuyên bố anh là cha của con mình, một đứa trẻ sinh ra chưa đầy tám tháng sau khi Walter ra tù. Xét nghiệm ADN xác nhận anh không phải là cha đứa trẻ.
Walter đôi lúc tỏ ra mệt mỏi khi anh nói với mọi người rằng anh không nhận được chút bồi thường nào mà họ vẫn không tin. Chúng tôi nỗ lực hơn nữa để đòi bồi thường cho anh bằng cách khởi kiện nhưng cũng vấp phải nhiều trở ngại. Vụ kiện của chúng tôi đi ngược với những điều luật miễn trừ cho cảnh sát, công tố viên và thẩm phán nghĩa vụ pháp lý dân sự trong các vấn đề tư pháp hình sự. Mặc dù đã thừa nhận Walter vô tội, song Chapman và các viên chức nhà nước liên quan đến vụ việc vẫn không sẵn sàng nhận trách nhiệm cho những sai phạm trong quá trình truy tố và bản án oan sai của anh. Cảnh sát trưởng Tate - người dường như giữ vai trò chủ động hơn cả khi đẩy Walter vào trại tử tù trước khi xét xử và có những hành động hăm dọa và lời nói kỳ thị chủng tộc dễ kiện ra tòa nhất - được cho là đã thừa nhận Walter vô tội khi anh được thả, nhưng rồi lại nói với mọi người rằng ông ta vẫn tin Walter có tội.
Rob McDuff, một người bạn cũ của tôi ở Jackson, Mississippi, đồng ý tham gia vụ kiện dân sự cùng nhóm chúng tôi. Rob là một người da trắng chính gốc Mississippi, mà phong thái và sự cuốn hút đậm chất miền Nam đã làm nổi bật thêm kỹ năng kiện tụng xuất sắc của anh ở các tòa án Alabama. Trước đó anh từng nhờ tôi hỗ trợ trong một vụ kiện dân quyền liên quan đến sai phạm của nhà chấp pháp ở Alabama. Đó là một vụ vây bắt của cảnh sát tại một hộp đêm ở hạt Chambers, trong đó những người da đen bị nhà chức trách địa phương bắt giữ, ngược đãi và hành hung một cách phi pháp, nhưng nhà chức trách từ chối nhận trách nhiệm về sai phạm của mình. Chúng tôi sau cùng cũng đưa được vụ việc lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và giành được một phán quyết có lợi.
Vụ việc của Walter sau cùng cũng được trình lên Tối cao Pháp viện. Chúng tôi kiện gần một tá viên chức và cơ quan địa phương và tiểu bang. Đúng như dự đoán, các bị cáo đều từ chối nhận trách nhiệm cho những hành vi khiến Walter bị kết án oan. Sự miễn trừ nghĩa vụ pháp lý dành cho các công tố viên và thẩm phán thậm chí còn lớn hơn cả sự bảo vệ dành cho các nhà chấp pháp. Vì vậy, mặc dù Ted Pearson, vị công tố viên khởi tố Walter, rõ ràng đã chiếm giữ bằng chứng một cách phi pháp khiến Walter bị kết án oan, khả năng chúng tôi kiện thành công ông ta là rất thấp. Ông ta là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc truy tố và kết án oan Walter, nên rất khó điều hòa quyền miễn trừ nghĩa vụ và tội lỗi của ông ta trong toàn bộ vụ việc. Chúng tôi không thể làm gì nhiều. Các tòa án tiểu bang và liên bang luôn tìm cách che chắn để các công tố viên không phải chịu trách nhiệm cho những sai phạm nghiêm trọng khiến người vô tội bị kết án tử hình oan.
Năm 2011, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ một lần nữa củng cố chính sách miễn trừ trách nhiệm bảo vệ các công tố viên. Một tháng trước khi một tù nhân tên là John Thompson bị ấn định ngày xử tử ở Louisiana, một báo cáo của phòng phân tích bằng chứng tội phạm được đưa ra có nội dung trái ngược với cáo buộc của nhà nước đối với anh trong một vụ cướp của giết người xảy ra mười bốn năm trước. Các tòa án tiểu bang xóa bỏ bản kết tội và án tử hình nhằm vào anh, anh được trắng án và trả tự do. Anh đệ đơn kiện, và một bồi thẩm đoàn của bang New Orleans đã xử cho anh được bồi thường 14 triệu đô-la sau khi nhận thấy công tố viên Harry Connick Sr. đã phi pháp che giấu bằng chứng chứng tỏ sự vô tội của Thompson, khiến anh phải ngồi tù mười bốn năm cho một tội mà anh không gây ra. Connick kháng án, và Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ bác bỏ khoản tiền bồi thường trong một phán quyết có tỷ lệ biểu quyết sát sao 5-4. Dựa trên luật miễn trừ trách nhiệm, Tối cao Pháp viện kết luận rằng công tố viên không phải chịu trách nhiệm cho sai phạm trong một vụ án hình sự, kể cả khi ông ta chủ ý chiếm giữ bằng chứng chứng tỏ sự vô can bằng phương tiện phi pháp. Quyết định của Tối cao Pháp viện bị các học giả và nhà quan sát lên án mạnh mẽ, Thẩm phán Ruth Bader Ginsbubrg cũng đưa ra phản bác rất thuyết phục, nhưng Thompson vẫn không nhận được chút tiền bồi thường nào.
Chúng tôi gặp phải trở ngại tương tự trong vụ việc của Walter. Sau một năm cung cấp lời khai, hầu tòa và thực hiện các thủ tục tố tụng trước xét xử, cuối cùng chúng tôi đạt được thỏa thuận với phần lớn các bị cáo, theo đó, họ sẽ bồi thường cho Walter vài trăm nghìn đô-la. Khi không dàn xếp được yêu cầu đòi bồi thường của Walter đối với hạt Monroe vì sai phạm của Cảnh sát trưởng Tate, chúng tôi kháng nghị lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Nếu dựa vào nguồn lực cá nhân, các nhà chấp pháp sẽ không thể chi trả tiền bồi thường cho nạn nhân của sai phạm, vì vậy thành phố, hạt hay cơ quan tuyển dụng họ thường là đối tượng của các vụ kiện đòi bồi thường. Đó là lý do tại sao chúng tôi đòi bồi thường từ hạt Monroe vì sai phạm của viên cảnh sát trưởng. Hạt đưa ra quan điểm là mặc dù quyền lực pháp lý của cảnh sát trưởng giới hạn trong phạm vi hạt, ông ta là do người dân trong hạt bầu ra và được hạt trả lương, song ông ta không phải là viên chức của hạt. Hạt cho rằng cảnh sát trưởng là viên chức của bang Alabama.
Thông thường các chính quyền tiểu bang không phải bồi thường cho sai phạm của nhân viên trừ khi nhân viên đó làm việc cho một cơ quan có thể kiện được. Nếu Tate là viên chức của bang, hạt Monroe sẽ không phải chịu trách nhiệm về sai phạm của ông ta, trong khi việc đòi bồi thường từ bang Alabama là không thể. Không may cho Walter, Tối cao Pháp viện phán quyết rằng cảnh sát trưởng các hạt ở Alabama là viên chức của bang, cũng với tỷ lệ biểu quyết sát sao 5-4, làm hạn chế khả năng đòi bồi thường của chúng tôi đối với sai phạm nghiêm trọng nhất trong vụ của Walter. Sau cùng chúng tôi cũng đi đến một thỏa thuận với tất cả các bên, nhưng tôi tiếc rằng chúng tôi đã không đòi được nhiều hơn cho Walter. Tệ hơn nữa, Tate tái đắc cử chức cảnh sát trưởng và vẫn giữ chức vụ đó cho đến nay; ông ta đã làm cảnh sát trưởng hơn 25 năm liên tiếp.
Mặc dù số tiền bồi thường không nhiều như chúng tôi kỳ vọng, song nó cũng giúp Walter gây dựng lại công việc kinh doanh gỗ. Anh thích được quay trở lại rừng và đốn cây. Anh nói làm việc ngoài trời từ sáng tới khuya làm anh cảm thấy bình thường trở lại. Rồi một buổi chiều, bi kịch xảy đến. Walter đang cưa cây thì bị một cành cây rơi trúng người anh, làm anh bị gãy cổ. Chấn thương nghiêm trọng này đẩy Walter vào tình cảnh khốn khổ suốt hàng tuần liền. Không có nhiều người chăm sóc, anh tới sống cùng tôi ở Montgomery mấy tháng cho đến khi bình phục. Cuối cùng anh cử động được trở lại, dù vậy chấn thương này đã khiến anh không thể đốn cây và làm những việc nặng nhọc trên địa hình hiểm trở được nữa. Tôi kinh ngạc khi anh có vẻ như đón nhận nó với thái độ hết sức bình thản.
“Khi nào đi lại được, tôi sẽ tìm việc khác để làm,” anh nói.
Mấy tháng sau, anh quay lại hạt Monroe và bắt đầu thu gom phụ tùng ô tô để bán lại. Anh có một miếng đất nơi anh đặt căn nhà lưu động, và theo lời khuyên của mấy người bạn, anh tin rằng mình có thể thu được đồng ra đồng vào từ đồ phế liệu - thu gom xe hỏng và phụ tùng ô tô rồi bán lại. Công việc này không đòi hỏi nhiều sức lực như nghề gỗ mà vẫn cho phép anh được ở ngoài trời. Không lâu sau, nhà anh đã chất đầy những chiếc xe hỏng và kim loại vụn.
Năm 1998, Walter và tôi được mời tới Chicago để tham dự một cuộc gặp gỡ trên quy mô toàn quốc của các cựu tử tù được trắng án. Tới cuối những năm 1990, sự phát triển của kỹ thuật xét nghiệm ADN đã góp phần lật ngược hàng chục bản án oan. Ở nhiều bang, số người được minh oan đã vượt quá số vụ xử tử. Ở Illinois, vấn đề này nghiêm trọng đến nỗi năm 2003 Thống đốc George Ryan, một đảng viên Đảng Cộng hòa, viện dẫn tính chất không đáng tin cậy của án tử hình, đã giảm án cho toàn bộ 167 tử tù. Quan ngại về sự vô tội và án tử hình ngày một gia tăng, và tỷ lệ ủng hộ án tử hình trong các cuộc thăm dò dư luận bắt đầu giảm. Những người ủng hộ xóa bỏ án tử hình trở nên lạc quan hơn, họ thấy rằng họ có thể đạt được những cải cách sâu rộng hơn nữa hoặc thậm chí xóa bỏ hẳn án tử hình. Thời gian chúng tôi ở Chicago với những cựu tử tù được minh oan khác đã tiếp thêm năng lượng cho Walter, anh dường như có động lực để kể về trải nghiệm của mình hơn bao giờ hết.
Cũng vào khoảng thời gian đó, tôi bắt đầu giảng dạy tại trường Luật, Đại học New York. Tôi bay tới New York dạy học, rồi bay về Montgomery điều hành EJI. Năm nào tôi cũng mời Walter tới New York nói chuyện với sinh viên, và khoảnh khắc anh bước vào lớp học luôn gây ấn tượng mạnh mẽ. Anh là người sống sót trong một hệ thống tư pháp hình sự mà sự bất công và tàn nhẫn của nó đã được phơi bày rành rành trong vụ việc của anh. Sự hiện diện, làm chứng, và tính cách của anh cho thấy nhân tính phi thường nơi những con người phải chịu tác động trực tiếp của hệ thống bạo ngược này. Lời kể của anh về cảnh ngộ của những người chịu án oan có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với các sinh viên và thường làm họ choáng ngợp. Anh luôn luôn nói vắn tắt và trả lời thật ngắn gọn các câu hỏi, nhưng những điều đó lại có ảnh hưởng to lớn đến những sinh viên đã gặp anh. Anh hay cười, đùa và nói với họ rằng anh không tức giận hay bất đắc chí, anh chỉ mừng vì mình đã được tự do. Anh chia sẻ rằng chính đức tin đã giúp anh vượt qua hàng trăm đêm trong trại tử tù.
Rồi một lần Walter bị lạc trên đường tới New York, anh gọi cho tôi thông báo anh không thể có mặt. Anh có vẻ lúng túng và không thể giải thích mạch lạc chuyện đã xảy ra ở sân bay. Về đến nhà, tôi tới gặp anh, trông anh vẫn vậy nhưng có vẻ hơi buồn. Anh kể với tôi rằng công việc kinh doanh phế liệu của anh đang không được thuận lợi. Nghe anh miêu tả tình hình tài chính, tôi hiểu anh đang sử dụng số tiền bồi thường không được cẩn trọng lắm. Anh mua máy móc để giúp công việc giản tiện hơn, nhưng số tiền thu về lại không đủ để bù đắp chi phí. Sau một, hai giờ giãi bày tâm sự, anh khuây khỏa hơn chút ít và dường như trở lại là Walter vui vẻ mà tôi từng biết. Chúng tôi nhất trí sẽ đi cùng nhau trong tất cả các chuyến đi sau này.
Không chỉ có mình Walter phải đối mặt với sức ép tài chính. Năm 1984, khi những người bảo thủ chiếm đa số lên nắm quyền trong Quốc hội, chính sách trợ giúp pháp lý dành cho tử tù trở thành một mục tiêu chính trị, và nguồn tài trợ liên bang mau chóng bị xóa bỏ. Hầu hết các trung tâm tư vấn và đại diện cho tử tù trên cả nước đều buộc phải đóng cửa. Chúng tôi chưa bao giờ nhận được tài trợ của bang cho công việc của mình, và khi không còn khoản tài trợ liên bang, chúng tôi phải đối mặt với những thách thức tài chính nghiêm trọng. Chúng tôi chật vật tồn tại và xin được tài trợ tư nhân đủ để tiếp tục công việc. Việc dạy học và trách nhiệm gây quỹ ngày một lớn đè lên khối lượng vụ việc đang phình ra của tôi, nhưng bằng cách nào đó, mọi việc vẫn tiến triển. Đội ngũ nhân viên của chúng tôi phải làm việc quá sức, tôi cảm kích khi có những chuyên gia và luật sư tài năng phối hợp cùng. Chúng tôi giúp đỡ những thân chủ trong trại tử tù, thách thức những bản án nặng, hỗ trợ những tù nhân khuyết tật và trẻ em bị giam giữ trong nhà tù của người trưởng thành, tìm cách vạch trần những hành vi kỳ thị chủng tộc, phân biệt đối xử với người nghèo, và lạm dụng chức quyền. Công việc ngộp thở nhưng cũng mang lại nhiều niềm hứng khởi.
Một hôm, tôi nhận được một cuộc gọi bất ngờ từ Đại sứ Thụy Điển tại Hoa Kỳ. Ngài thông báo với tôi rằng EJI đã được chọn nhận giải thưởng Nhân quyền Quốc tế Olof Palme. Họ mời tôi tới Stockholm để nhận giải. Hồi học sau đại học, tôi đã từng nghiên cứu về phương pháp tiến bộ của Thụy Điển trong vấn đề cải hóa tội phạm, và từ lâu đã kinh ngạc trước việc hệ thống ở đó coi trọng sự phục hồi như thế nào. Các hình phạt của họ đầy tính nhân văn, và các nhà hoạch định chính sách của họ rất chú trọng việc cải hóa tội phạm. Điều này làm tôi rất hứng khởi về giải thưởng và chuyến đi. Việc trao cho một người đại diện cho các tử tù giải thưởng mang tên vị thủ tướng đáng kính đã qua đời trong một vụ ám sát bi thảm đã nói lên nhiều điều về giá trị của giải thưởng. Theo kế hoạch, chuyến đi Stockholm sẽ diễn ra vào tháng Một. Một - hai tháng trước chuyến đi, họ cử một đoàn làm phim tới phỏng vấn tôi, và đoàn cũng muốn nói chuyện với một số thân chủ. Tôi sắp xếp để họ phỏng vấn Walter.
“Hôm nào phỏng vấn, tôi sẽ xuống đó.” Tôi bảo Walter.
“Thôi, cậu không phải xuống đâu. Tôi chẳng phải đi đâu, nên mình tôi nói chuyện với họ cũng được. Cậu không phải mất thời gian lái xe xuống tận đây đâu.”
“Anh muốn đi Thụy Điển không?” Tôi hỏi, nửa đùa nửa thật.
“Tôi không biết chính xác nó ở đâu, nhưng nếu phải bay một chặng dài thì không, tôi không khoái lắm. Tôi nghĩ từ giờ tôi thích ở trên mặt đất hơn.” Chúng tôi cười và anh có vẻ thoải mái.
Rồi anh chợt im lặng và hỏi một câu trước khi gác máy. “Khi nào cậu về, cậu có thể ghé tôi không? Tôi vẫn ổn, nhưng chúng ta cứ tụ tập thôi.”
Đó là một đề nghị lạ thường của Walter, nên tôi đồng ý ngay. “Tất nhiên rồi, tuyệt đấy. Chúng ta có thể đi câu cá.” Tôi đùa.
Cả đời tôi chưa bao giờ đi câu cá, và Walter thấy việc đó kinh khủng đến nỗi anh liên tục tra hỏi tôi về chuyện đó. Khi chúng tôi đi cùng nhau, tôi không bao giờ gọi món cá, và anh chắc mẩm rằng tôi không ăn cá vì tôi chưa câu được con cá nào. Tôi cố nghe theo suy luận đó của anh và hứa hẹn, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thu xếp được một chuyến câu cá nào với nhau.
Đoàn làm phim Thụy Điển sẵn sàng chấp nhận thử thách tìm kiếm căn nhà lưu động của Walter ở một góc hẻo lánh của vùng Nam Alabama. Tôi chỉ đường cho họ. Tôi vẫn thường ở cạnh Walter khi anh trả lời báo chí, nhưng lần này tôi cảm thấy khá yên tâm.
“Anh ấy không diễn thuyết gì đâu. Anh ấy luôn luôn nói thẳng và cô đọng,” tôi bảo các phóng viên. “Anh ấy rất tuyệt, nhưng các bạn nên đưa ra những câu hỏi đích đáng. Và có lẽ sẽ tốt hơn nếu các bạn phỏng vấn ngoài trời. Anh ấy thích ở ngoài trời.” Họ gật gù cảm thông nhưng có vẻ không khỏi băn khoăn trước sự lo lắng của tôi. Tôi gọi điện cho Walter trước khi đi Thụy Điển, và cảm thấy yên tâm khi anh nói cuộc phỏng vấn đã diễn ra suôn sẻ.
Stockholm là một thành phố xinh đẹp, dù tuyết rơi liên tục và tiết trời lạnh cóng. Tôi có bài phát biểu ở một vài nơi và tham dự vài bữa tiệc tối. Đó là một chuyến đi ngắn và lạnh, nhưng mọi người rất dễ thương và đối xử với tôi tốt đến lạ lùng. Tôi ngạc nhiên và phấn khởi vì họ quan tâm nhiệt tình đến công việc của chúng tôi. Hầu như tất cả những người tôi gặp đều động viên và đề nghị giúp đỡ chúng tôi. Trước đó hai năm, tôi đã được mời tới Brazil để nói về hình phạt và cách đối xử bất công nhằm vào những con người bị ruồng bỏ. Tôi đã dành nhiều thời gian đi thăm các cộng đồng địa phương, chủ yếu là những khu ổ chuột ở vùng ngoại ô São Paulo, nơi tôi gặp hàng trăm con người nghèo khổ cùng cực nhưng rất thích nói chuyện. Tôi chuyện trò hàng giờ với tất cả mọi người, từ những bà mẹ phải chật vật kiếm sống tới những đứa trẻ nghèo hít keo để chống chọi với cái đói và sự tàn bạo của cảnh sát. Các cuộc trò chuyện liên văn hóa với những con người có cùng hoàn cảnh, cùng nỗi vất vả với các thân chủ của tôi ở Mỹ đã tác động sâu sắc tới tôi. Ở Thụy Điển, những người tôi gặp cũng quan tâm và nhiệt tình như vậy, dù họ không có nguyện vọng gì khẩn thiết và cũng không phải chống chọi với một hệ thống tư pháp tàn nhẫn. Người dân trên khắp đất nước này dường như ai cũng sẵn lòng kết nối với nhau nhờ một đặc điểm chung là lòng trắc ẩn phi thường.
Nhà tổ chức đề nghị tôi tới nói chuyện tại một trường trung học ở ngoại ô Stockholm. Trường Kungsholmens nằm trên một hòn đảo đẹp tuyệt vời của Stockholm với những công trình kiến trúc thế kỷ 17. Là một người Mỹ ít khi đi nước ngoài, tôi choáng ngợp trước những ngôi nhà cổ kính và trầm trồ vì nét kiến trúc hoa lệ của chúng. Ngôi trường này đã gần trăm tuổi. Tôi được dẫn qua một cầu thang hẹp uốn lượn với tay vịn chạm khắc cầu kỳ tới một hội trường lớn. Mấy trăm học sinh trung học ngồi kín hội trường, chờ nghe bài trình bày của tôi. Mái vòm của hội trường khổng lổ phủ đầy những bức tranh vẽ tay tỉ mỉ và những dòng chữ trang trí viết bằng tiếng Latin. Những thiên thần đang bay lượn và những em bé thổi kèn trumpet nhảy múa khắp trên tường và trần nhà. Khán phòng lớn chật kín học sinh dường như hòa quyện thật trang nhã vào những bức bích họa.
Khán phòng rất cổ kính, có vòm âm thanh tuyệt hảo, không gian cân đối và chính xác đến diệu kỳ. Tôi dõi mắt nhìn hàng trăm em thiếu niên Scandinavia ngồi trong hội trường khi tên tôi được xướng lên giới thiệu. Tôi bị ấn tượng bởi sự háo hức của các em. Tôi trình bày 45 phút trước những thiếu niên chăm chú và im lặng lắng nghe. Tôi biết tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ của các em, và thực sự không chắc các em có thể theo được chừng nào những điều tôi nói, nhưng khi tôi kết thúc, tiếng vỗ tay nhiệt liệt nổ ra khắp khán phòng. Phản hồi đó làm tôi kinh ngạc. Các em còn trẻ tuổi nhưng lại rất quan tâm đến thân phận của những người bị kết án ở cách xa hàng nghìn dặm. Thầy hiệu trưởng bước lên sân khấu cảm ơn tôi và đề nghị các học sinh hát một bài để cảm ơn. Ngôi trường này có chương trình đào tạo âm nhạc và một dàn hợp xướng học sinh nổi tiếng thế giới. Thầy hiệu trưởng bảo các em trong dàn hợp xướng có thể đứng nguyên tại chỗ và hát một bài hát ngắn nào đó. Khoảng 50 em cười khúc khích đứng lên và nhìn nhau.
Sau khoảng một phút ngập ngừng, một cậu bé chừng mười bảy tuổi có mái tóc vàng ấm đứng lên ghế và nói gì đó bằng tiếng Thụy Điển với các bạn trong dàn hợp xướng. Các em cười rộ lên rồi lại nghiêm trang trở lại. Khi tất cả đã yên vị và im lặng hoàn toàn, cậu bé ngân lên một nốt nhạc bằng giọng nam cao tuyệt đẹp với cao độ hoàn hảo. Rồi cậu chầm chậm đưa tay bắt nhịp cho các bạn hát. Tiếng hát của các em dội vào tường và trần của hội trường cổ kính thành một khúc hòa ca huy hoàng mà tôi chưa từng được nghe bao giờ. Sau khi bắt nhịp, cậu bé bước xuống ghế và cùng các bạn biểu diễn một khúc ca buồn với sự chuẩn xác và tỉ mỉ tuyệt vời. Tôi không hiểu một từ nào trong bài hát Thụy Điển này, nhưng nó nghe như một khúc hát thiên thần. Hòa âm kịch tính với những âm thanh đối chọi nhau dần dần tan thành những hợp âm ấm áp diệu kỳ. Từng lời hát của các em đều âm vang lộng lẫy.
Đứng trên sân khấu bên cạnh thầy hiệu trưởng, tôi ngước mắt nhìn lên trần nhà - một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ. Mẹ tôi đã qua đời trước đó mấy tháng. Trong gần suốt cuộc đời mình, bà là một nhạc công chơi cho nhà thờ và đã làm việc với hàng chục dàn hợp xướng thiếu nhi. Khi nhìn ngắm những bức tranh vẽ các thiên thần trên mái vòm, tôi nghĩ về mẹ. Tôi lập tức nhận ra mình sẽ không thể giữ bình tĩnh nếu cứ nhìn lên đó, vì vậy tôi quay lại nhìn các em học sinh và cố mỉm cười. Khi dàn hợp xướng kết thúc bài hát, các em học sinh khác vỗ tay vang dội. Tôi vỗ tay theo và cố gắng giữ cho mình qua cơn xúc động. Khi tôi rời sân khấu, các em bước tới để cảm ơn tôi, đặt câu hỏi và chụp ảnh. Tôi hoàn toàn bị mê hoặc.
Đó là một ngày dài, mệt phờ nhưng rất tuyệt. Khi trở về khách sạn, tôi mừng thầm vì có hai tiếng đồng hồ giải lao trước khi đến buổi diễn thuyết tiếp theo trong lịch trình. Tôi không hiểu điều gì thôi thúc tôi bật TV, nhưng tôi đã xa nhà bốn ngày và chưa theo dõi chút tin thời sự nào. Tin tức địa phương vang lên trong phòng tôi. Các phóng viên truyền hình Thụy Điển xa lạ đang tán gẫu khi tôi nghe thấy họ nhắc tên mình. Đó là đoạn phóng sự mà họ đã thực hiện về tôi; những hình ảnh quen thuộc hiện ra trên màn hình. Tôi thấy mình đi cùng phóng viên tới nhà thờ của Tiến sĩ Martin Luther King Jr. trên Đại lộ Dexter ở Montgomery, rồi xuôi tới Đài tưởng niệm Dân quyền. Rồi cảnh phim chuyển qua Walter trong bộ quần áo bảo hộ, đứng giữa đống xe hỏng ở Monroeville.
Walter nhẹ nhàng thả chú mèo con anh đang ôm trên tay xuống rồi bắt đầu trả lời các câu hỏi của phóng viên. Anh từng kể cho tôi nghe về tất cả các loại mèo tìm chỗ trú ngụ trong bãi phế liệu của anh. Anh nói những điều tôi đã nghe anh nói hàng chục lần. Rồi tôi thấy nét mặt anh biến đổi, và anh bắt đầu nói chuyện với vẻ sinh động và háo hức mà tôi chưa từng thấy bao giờ.
Anh trở nên xúc động khác thường. “Họ giam tôi trong trại tử tù sáu năm trời! Họ đe dọa tôi sáu năm trời. Họ tra tấn tôi bằng viễn cảnh xử tử sáu năm trời. Tôi mất việc. Tôi mất vợ. Tôi mất danh dự. Tôi mất - tôi mất cả nhân phẩm của mình.”
Anh nói to và xúc động như sắp khóc. “Tôi mất tất cả,” anh nói tiếp. Anh lấy lại bình tĩnh và cố nở một nụ cười nhưng không được. Anh bình thản nhìn vào máy quay. “Khổ lắm. Khổ lắm, bạn à. Khổ lắm.” Tôi lo lắng khi thấy Walter khuỵu xuống và bắt đầu khóc nức nở. Máy quay vẫn chạy trong khi anh khóc. Đoạn phim chuyển qua cảnh tôi nói gì đó trừu tượng và triết lý rồi kết thúc. Tôi bàng hoàng. Tôi muốn gọi cho Walter nhưng không biết làm thế nào để quay số từ Thụy Điển. Tôi biết đã đến lúc mình phải trở về Alabama.