Chương mười bốn TÀN NHẪN VÀ BẤT THƯỜNG
Sáng ngày 4 tháng Năm năm 1989, Michael Gulley, mười lăm tuổi, và Nathan McCants, mười bảy tuổi, rủ rê Joe Sullivan, mười ba tuổi, cùng đột nhập vào một căn nhà trống ở Pensacola, Florida. Sáng hôm đó, ba cậu thiếu niên đã vào nhà bà Lena Bruner khi không có ai ở nhà. McCants lấy một ít tiền và đồ trang sức, rồi cả ba rời đi. Đến chiều, bà Bruner, một phụ nữ da trắng ngoài bảy mươi tuổi, bị tấn công tình dục ngay tại nhà. Có tiếng gõ cửa, và khi bà ra mở, một kẻ khác đã lẻn vào nhà qua cửa sau và túm lấy bà. Đó là một vụ cưỡng hiếp ghê rợn; bà Bruner thậm chí còn không nhìn rõ kẻ tấn công mình. Bà chỉ có thể miêu tả hắn là “một thằng nhóc da thẫm màu, tóc xoăn”. Cả Gulley, McCants, và Sullivan đều là người Mỹ gốc Phi.
Chỉ vài phút sau vụ tấn công, cả Gulley và McCants đều bị bắt. McCants khi đó đang mang nữ trang của bà Bruner theo người. Đối mặt với cáo buộc trọng tội, Gulley - với cả đống thành tích bất hảo trong đó có ít nhất một lần phạm tội tấn công tình dục - đã buộc tội Joe là kẻ tấn công bà Bruner. Hôm đó Joe không bị bắt, nhưng cậu đã tự nguyện đi đầu thú vào ngày hôm sau khi biết Gulley và McCants đã khai ra mình. Joe thừa nhận đã giúp hai đàn anh trong vụ trộm sáng hôm trước, nhưng kiên quyết khẳng định mình không biết và không liên quan gì đến vụ cưỡng hiếp.
Công tố viên quyết định truy tố cậu bé mười ba tuổi Joe Sullivan tại tòa án dành cho người thành niên về hành vi tấn công tình dục và các cáo buộc khác. Nhà chức trách không hề xem xét nên xét xử Joe ở tòa án dành cho người thành niên hay tòa dành cho trẻ vị thành niên. Florida là một trong số những bang cho phép công tố viên quyết định xét xử một đứa trẻ ở tòa án dành cho người trưởng thành đối với một số loại tội danh nhất định, và không có độ tuổi tối thiểu nào cho việc xét xử trẻ em như người thành niên.
Tại tòa, Joe khai mình đã tham gia vào vụ trộm nhưng không phải là kẻ tấn công tình dục. Cuộc khởi tố chủ yếu dựa trên những câu chuyện nhằm mục đích tự vệ của McCants và Gulley, bao gồm cáo buộc của Gulley rằng Joe đã thú nhận với cậu ta về vụ hãm hiếp khi tạm giam. Sau khi lôi Joe vào vụ việc, McCants bị kết án như người trưởng thành với mức án bốn năm rưỡi tù, và chỉ phải ngồi tù có sáu tháng. Gulley, mặc dù thừa nhận có dính líu đến khoảng hai mươi vụ trộm cắp và một vụ tấn công tình dục trước đó, vẫn được xét xử và kết án như trẻ vị thành niên và chỉ bị giam một khoảng thời gian ngắn trong một trại giáo dưỡng.
Bằng chứng vật lý duy nhất cho thấy Joe có dính líu đến vụ án là một phần vân lòng bàn tay mà thanh tra nhà nước xác nhận là của cậu. Chi tiết này khớp với lời khai của Joe rằng cậu có mặt trong phòng ngủ trước khi vụ cưỡng hiếp xảy ra. Cảnh sát thu thập được cả tinh dịch và máu, nhưng công tố viên nhà nước quyết định không trình bày chứng cứ này trước tòa mà mang đi hủy trước khi luật sư bào chữa của bên bị có thể kiểm tra. Bên truy tố cũng đưa ra lời khai của một cảnh sát “thoáng thấy” một thanh niên người Mỹ gốc Phi chạy ra khỏi nhà nạn nhân. Sau khi quan sát Joe Sulivan bị thẩm vấn tại đồn cảnh sát như là nghi phạm trong vụ tấn công tình dục, ông ta xác nhận Joe chính là thanh niên chạy trốn đó.
Cuối cùng, bên truy tố trình bày lời khai của nạn nhân. Mặc dù đã được hướng dẫn trong buổi tập khai khi không có mặt bồi thẩm đoàn, nhưng nạn nhân vẫn không thể khẳng định chắc chắn Joe Sulivan là thủ phạm. Joe bị bắt phải nói [1] trước tòa những lời mà nạn nhân nhớ kẻ tấn công đã nói với mình, nhưng bà chỉ khai rằng giọng của Joe “rất có thể là” giọng của hung thủ.
Joe bị kết án bởi một bồi thẩm đoàn sáu người trong một phiên xử kéo dài đúng một ngày. Phiên tòa khai mạc sau khoảng 9 giờ sáng, và bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết lúc 4 giờ 55 phút chiều. Luật sư chỉ định của Joe không hề nộp hồ sơ bào chữa bằng văn bản, và lời phát biểu của ông ta khi tòa tuyên án dài không quá mười hai dòng đánh máy. Về sau, ông ta bị đình chỉ hành nghề ở Florida và không bao giờ lấy lại được giấy phép hành nghề. Có rất nhiều điều cần nói đã không bao giờ được nói ra.
Vào thời điểm bị bắt năm 1989, Joe Sullivan là một cậu bé mười ba tuổi có trí tuệ kém phát triển với khả năng đọc hiểu chỉ bằng đứa trẻ lớp một, liên tục bị cha đẻ đánh đập và hắt hủi. Gia đình cậu ở trong tình trạng mà các quan chức nhà nước miêu tả là “đầy bạo lực và hỗn loạn”. Từ năm lên mười cho đến khi bị bắt, Joe không ở một nơi nào cố định: cậu sống ít nhất ở mười địa chỉ khác nhau trong khoảng thời gian ba năm này. Cậu chủ yếu lang thang trên đường phố, và từng bị cảnh sát bắt khi cùng với anh trai và đám choai choai hơn tuổi khác gây ra các tội như xâm nhập chỗ ở của người khác, trộm cắp xe đạp và các tội liên quan đến tài sản.
Joe từng phải hầu tòa một lần khi mới mười hai tuổi. Cán bộ quản chế trẻ vị thành niên phụ trách trường hợp của Joe cho rằng hành vi của cậu là do “cậu dễ bị ảnh hưởng và thường giao du với bạn bè xấu”. Cô quan sát thấy “rõ ràng Joe là một đứa trẻ ngây ngô, non nớt, chỉ là đứa đi theo chứ không phải kẻ cầm đầu” và rằng cậu có tiềm năng trở thành “một cá nhân tích cực và hữu ích”.
Tiền án tiền sự của Joe chủ yếu là về những tội nhẹ, gần như không có yếu tố bạo lực, và trong hai năm cậu chỉ phải hầu tòa đúng một lần. Tuy nhiên, thẩm phán lại nhìn nhận điều này theo một hướng khác. Ông kết luận rằng “hệ thống tư pháp vị thành niên đã hoàn toàn bó tay với cậu Sullivan”, và rằng Joe đã được “cho hết cơ hội này đến cơ hội khác để hoàn lương và đã tận dụng hết những cơ hội thứ hai, thứ ba mà cậu được trao”. Thực ra, Joe chưa từng được trao cơ hội thứ hai, huống chi là thứ ba, để “hoàn lương”, ở tuổi mười ba, cậu bị các công tố viên miêu tả là một tội phạm bạo lực không biết hối cải, và bị thẩm phán kết án tù chung thân không ân xá.
Mặc dù có rất nhiều cơ sở chính đáng để kháng án [2] , nhưng luật sư được chỉ định cho quá trình kháng cáo của Joe đã đệ trình kiến nghị Anders - trong đó, ông ta tuyên bố ông ta tin rằng không có cơ sở chính đáng nào để kháng cáo, cũng như không có cơ sở đáng tin cậy nào để khiếu nại về bản kết tội và bản án dành cho Joe. Ông ta được phép ngừng đại diện cho Joe. Vậy là, khi chỉ mới bước sang tuổi vị thành niên được một năm, Joe đã bị đưa tới nhà tù dành cho người trưởng thành, khởi đầu cơn ác mộng mười tám năm. Trong tù, cậu liên tục bị hãm hiếp và tấn công tình dục. Cậu đã nhiều lần cố gắng tự tử. Cậu cũng mắc phải chứng đa xơ cứng và cuối cùng buộc phải ngồi xe lăn. Về sau, các bác sĩ đã kết luận rằng sang chấn trong thời gian ở tù có thể là nguyên nhân gây ra chứng rối loạn thần kinh này.
Một tù nhân bị giam cùng Joe đã viết thư cho chúng tôi và miêu tả Joe là người chậm phát triển bị đối xử tàn tệ, và bị kết án chung thân một cách oan uổng vì một tội không làm ai chết người vào năm mười ba tuổi. Năm 2007, chúng tôi viết thư cho Joe và phát hiện ra rằng cậu không hề được hỗ trợ pháp lý và đã ở tù mười tám năm mà không có ai giúp phản bác lại bản buộc tội cũng như bản án. Khi tôi nhận được hồi âm của Joe - một mẩu giấy với nét chữ trẻ con nguệch ngoạc, trình độ đọc hiểu của cậu vẫn chỉ dừng lại ở ngang mức lớp ba, dù lúc này cậu đã 31 tuổi. Trong thư, cậu kể với tôi rằng mình vẫn “ổn”. Rồi cậu viết, “Nếu tôi chẳng làm gì cả, không phải bây giờ tôi nên được về nhà rồi sao? Anh Bryan, nếu đúng là như thế, anh có thể làm ơn viết thư lại cho tôi và đến đón tôi được không?”
Tôi viết thư trả lời Joe rằng chúng tôi sẽ tìm hiểu kỹ trường hợp của cậu, và rằng chúng tôi tin lời kêu oan của cậu. Chúng tôi cố gắng chứng minh sự vô tội ấy bằng một bản đề nghị xét nghiệm ADN, nhưng vì Nhà nước đã hủy các bằng chứng sinh học có liên quan, nên đề nghị của chúng tôi bị từ chối. Thất vọng, chúng tôi quyết định phản bác bản án tù chung thân của Joe như một hình phạt bất thường, tàn nhẫn và vi hiến.
Lần đầu gặp Joe, tôi lái xe từ Montgomery qua Nam Alabama đến Florida, rồi qua một loạt những con đường nhỏ ngoằn ngoèo xuyên rừng để đến Trại Cải huấn Santa Rosa ở thị trấn Milton. Hạt Santa Rosa tiếp giáp với Vịnh Mexico ở điểm cực Tây của vùng Florida Panhandle, vốn là một vùng nông nghiệp nổi tiếng từ lâu. Dân số của hạt tăng gấp đôi trong khoảng từ năm 1980 đến năm 2000 khi những ngôi nhà nghỉ mát và khu nghỉ dưỡng mọc lên ven biển. Nhiều gia đình giàu có đã chuyển từ Pensacola đến hạt Santa Rosa, các gia đình quân nhân từ Căn cứ không quân Eglin gần đó cũng kéo nhau về sống tại đây. Thế nhưng, thị trấn còn có một ngành công nghiệp khác - công nghiệp giam giữ.
Nhà tù với sức chứa 1600 người này được Sở Cải huấn Florida xây dựng vào những năm 1990, khi nước Mỹ mở thêm các nhà tù với tốc độ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Từ năm 1990 đến năm 2005, cứ mười ngày thì lại có một nhà tù mới được mở ra trên nước Mỹ. Sự phát triển của nhà tù và hệ quả của nó là “liên hợp nhà tù công nghiệp” - một ngành kinh doanh thu lợi từ việc xây dựng nhà tù - khiến việc bỏ tù lời lãi đến hàng triệu đô-la đã được sử dụng để vận động các nhà lập pháp của bang tiếp tục đẩy mạnh giam giữ như một giải pháp cho một vấn đề bất kỳ. Giam giữ trở thành câu trả lời cho mọi thứ - các vấn đề y tế như nghiện ma túy, tình cảnh đói nghèo khiến một người phải viết séc khống, những rối loạn hành vi ở trẻ em, quản lý người nghèo khuyết tật trí tuệ, và thậm chí ngay cả những vấn đề nhập cư cũng khiến các nhà lập pháp đưa ra những chính sách liên quan đến tù giam. Ở Mỹ, chưa bao giờ tiền vận động chính sách được sử dụng để tăng cường số lượng tù nhân, ngăn chặn các cải cách về kết án, thiết lập các nhóm tội danh mới, và nuôi dưỡng nỗi sự hãi và giận dữ thúc đẩy việc giam giữ hàng loạt nhiều như hai mươi lăm năm trở lại đây.
Ở Santa Rosa, tôi không gặp nhân viên quản giáo nào là người da màu, mặc dù 70% tù nhân ở đây là người da đen hoặc da nâu. Điều này hơi bất thường, vì tôi vẫn thấy các cán bộ cải huấn là người da đen hoặc da nâu ở các nhà tù khác. Tôi phải hoàn thành một loạt thủ tục phức tạp mới được vào cửa, người ta cũng đưa cho tôi một chiếc máy nhắn tin để bấm nút báo nếu tôi cảm thấy bị đe dọa hay căng thẳng khi ở đó. Rồi tôi được hộ tống tới một căn phòng rộng 150 mét vuông nơi hơn hai chục tù nhân đang ngồi ủ rũ trong khi các cán bộ cải huấn mặc đồng phục hối hả ra vào.
Ở một góc phòng có ba chiếc cũi kim loại cao gần 2 mét, rộng không quá mét rưỡi vuông. Qua bao nhiêu năm tới lui giữa các nhà tù, tôi chưa bao giờ thấy ở đâu sử dụng những chiếc cũi nhỏ như vậy để giam giữ tù nhân bên trong một nhà tù đã được bảo vệ cẩn mật. Tôi tự hỏi những người bị nhốt trong cũi nguy hiểm gì hơn mà lại không được ngồi trên ghế băng như những tù nhân khác. Có hai thanh niên đứng trong hai chiếc cũi đầu tiên. Chiếc cũi thứ ba bị chèn vào trong góc, trong đó có một người đàn ông nhỏ thó ngồi xe lăn. Chiếc xe lăn quay mặt về phía sau cũi, nên anh ta không thể thấy những gì đang diễn ra trong căn phòng. Tôi không thấy khuôn mặt anh ta, nhưng tôi đoán chắc đó là Joe. Một cán bộ cải huấn liên tục vào phòng và gọi tên từng người, giục họ đứng lên đi theo mình ra sảnh, tại đây họ sẽ gặp phó giám đốc nhà tù hoặc bất kỳ ai mà họ có lịch gặp. Cuối cùng, viên sĩ quan gọi, “Joe Sullivan, thăm pháp lý”. Tôi tiến về phía người này và nói mình là luật sư đến thăm pháp lý. Anh ta gọi hai cán bộ khác đến mở khóa cũi cho Joe. Cái cũi nhỏ đến mức khi cả ba cố gắng kéo chiếc xe lăn của Joe ra, những chiếc nan hoa bị mắc lại, không thể gỡ ra nổi.
Tôi đứng đó nhìn các quản giáo khác chạy đến tiếp sức, chật vật tìm cách gỡ xe lăn của Joe khỏi cái cũi chật chội mấy phút liền mà vẫn không xong. Họ nhấc chiếc xe lăn lên, rồi lại ấn nó xuống và nhấc bánh trước lên nhưng cũng chẳng ăn thua. Họ vừa gầm ghè vừa kéo mạnh chiếc xe, cố gắng gỡ nó ra nhưng nó đã bị kẹt cứng.
Hai tù nhân đang lau sàn cũng dừng tay xem các quản giáo vật lộn với chiếc xe lăn và cái cũi. Cuối cùng, họ đề nghị giúp đỡ dù không có ai nhờ. Các quản giáo im lặng để hai người tù lại giúp, nhưng rồi họ cũng không xử lý được. Khi các quản giáo bực bội và bất lực vì không tài nào đưa được Joe ra khỏi cũi, có người đề xuất thử dùng kìm và cưa sắt, hoặc lật cái cũi nằm xuống. Người khác thì gợi ý nhấc Joe ra khỏi xe lăn để đưa cậu ra ngoài, nhưng cả Joe lẫn chiếc xe đều bị kẹt cứng trong cái cũi đến mức không ai có thể đi vào bên trong để lôi cậu ra.
Tôi hỏi quản giáo tại sao cậu lại bị nhốt vào cũi, họ trả lời gọn lỏn: “Tù chung thân. Tất cả tù chung thân đều phải chuyển với quy tắc an ninh chặt chẽ hơn.”
Tôi không thể nhìn thấy khuôn mặt Joe khi tất cả những điều này diễn ra, nhưng tôi nghe thấy tiếng cậu khóc. Thỉnh thoảng cậu bật ra một tiếng rên rỉ, vai cậu run bần bật. Cậu kêu to hơn khi các quản giáo đề xuất ngả cái cũi nằm xuống. Cuối cùng, các tù nhân đề nghị nâng cũi lên và nghiêng nó sang một chút, tất cả mọi người đều đồng ý thử. Hai tù nhân nâng và nghiêng cái cũi nặng, còn ba quản giáo giật mạnh chiếc xe của Joe làm nó bật ra. Các quản giáo hò reo mừng rỡ, hai tù nhân lặng lẽ rời đi, và Joe ngồi bất động trên chiếc xe giữa phòng, cúi gằm đầu nhìn xuống chân.
Tôi bước về phía cậu và tự giới thiệu. Nước mắt loang trên khuôn mặt cậu, đôi mắt thì đỏ hoe, nhưng cậu ngước lên nhìn tôi và mừng rỡ vỗ tay: “Dzê! Dzê! Anh Bryan.” Cậu mỉm cười và đưa hai tay về phía tôi. Tôi cầm lấy đôi bàn tay ấy.
Tôi đẩy xe Joe tới một phòng thăm chật chội. Cậu vẫn vui sướng âm ỉ và tiếp tục vỗ tay đầy phấn khích. Tôi phải cãi lý với viên quản giáo đứng canh ở đó để được phép đóng cửa lại và nói chuyện riêng với Joe. Viên quản giáo cuối cùng cũng nhượng bộ. Joe có vẻ thoải mái hơn khi tôi đóng cửa. Mặc dù khởi đầu của chuyến thăm thật khủng khiếp, nhưng cậu vẫn vô cùng vui vẻ. Tôi không thể rũ bỏ cảm giác mình đang nói chuyện với một đứa trẻ.
Tôi giải thích với Joe chúng tôi đã thất vọng thế nào khi Nhà nước đã hủy hết các bằng chứng sinh học, khiến chúng tôi không thể dùng chúng xét nghiệm ADN để minh oan cho cậu. Chúng tôi cũng được biết cả nạn nhân lẫn một đồng phạm của cậu đã chết. Đồng phạm còn lại không chịu tiết lộ chút gì về sự việc đã thật sự xảy ra, làm cho việc phản bác bản án của Joe trở nên hết sức khó khăn. Sau đó, tôi chia sẻ với cậu ý tưởng mới của chúng tôi, đó là thách thức bản án ấy là vi hiến, đây có thể là một cách để giải thoát cho cậu. Trong khi tôi giải thích, cậu cứ cười suốt mặc dù rõ ràng là cậu chẳng hiểu gì hết. Cậu có một tập giấy ghi chép đặt trên đùi, và khi tôi nói xong, cậu bảo cậu đã chuẩn bị một số câu hỏi dành cho tôi.
Trong suốt chuyến thăm, tôi cứ nghĩ mãi tại sao cậu lại nhiệt tình và háo hức hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi, dù cậu ở trong hoàn cảnh như vậy. Cậu khá dõng dạc khi nói với tôi về những câu hỏi mà cậu đã chuẩn bị. Cậu giải thích rằng nếu được ra tù, cậu muốn trở thành một phóng viên để “có thể kể với mọi người những điều đang thật sự diễn ra”. Rồi cậu hãnh diện tuyên bố mình đã sẵn sàng đặt câu hỏi.
“Joe, tôi rất vui được trả lời các câu hỏi của cậu. Ta bắt đầu đi.”
Cậu đọc hơi ngắc ngứ:
“Anh có con không?” Cậu ngẩng lên nhìn tôi và chờ đợi.
“Không, tôi không có con. Nhưng tôi có cháu trai và cháu gái.”
“Anh thích nhất màu gì?” Cậu lại cười háo hức.
Tôi cười khúc khích vì tôi chẳng đặc biệt yêu thích màu nào. Nhưng tôi muốn trả lời cậu.
“Màu nâu.”
“Được rồi, câu hỏi cuối cùng của tôi mới là câu quan trọng nhất.” Cậu ngước nhìn tôi bằng đôi mắt mở to và mỉm cười. Rồi cậu tỏ ra nghiêm túc và đọc câu hỏi.
“Nhân vật hoạt hình yêu thích nhất của anh là nhân vật nào?” Ánh mắt cậu ánh lên rạng rỡ khi nhìn tôi.
“Anh phải nói thật đấy nhé. Tôi thật sự muốn biết.”
Tôi không thể nghĩ ra bất kỳ nhân vật nào và cố gắng giữ nụ cười. “Ồ, Joe, quả thực là tôi cũng không biết nữa. Tôi sẽ nghĩ thêm và trả lời cậu sau được không? Tôi sẽ viết thư trả lời cậu.” Cậu hào hứng gật đầu.
Suốt ba tháng sau đó, tôi nhận được cả chồng thư nguệch ngoạc từ Joe, hầu như mỗi ngày một bức. Những lá thư ấy thường chỉ kể vắn tắt về những món mà cậu đã ăn trong ngày, hoặc chương trình truyền hình mà cậu đã xem. Đôi khi thư chỉ là vài ba câu Kinh thánh mà cậu đã chép lại. Cậu thường xuyên nhắc tôi viết thư trả lời và cho cậu biết chữ viết của cậu đã khá lên chưa. Đôi khi các lá thư chỉ có vài từ hoặc đúng một câu hỏi duy nhất như, “Anh có bạn bè gì không?”
Chúng tôi gửi đơn kháng nghị phê phán bản án của Joe là một hình phạt bất thường, tàn nhẫn và vi hiến. Chúng tôi biết mình sẽ gặp phải nhiều rào cản về thủ tục khi gửi lá đơn này gần hai mươi năm sau khi cậu bị kết án, nhưng chúng tôi nghĩ rằng quyết định mới đây của Tối cao Pháp viện cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với trẻ vị thành niên có thể là cơ sở để Joe được giảm án. Năm 2005, Tối cao Pháp viện công nhận sự khác biệt giữa trẻ em và người trưởng thành đòi hỏi trẻ em phải được bảo vệ khỏi án tử hình theo Tu chính án thứ tám của Hiến pháp. Chúng tôi đã thảo luận về cách sử dụng các lập luận ủng hộ việc cấm án tử hình trên làm cơ sở pháp lý thách thức mức án tù chung thân không ân xá đối với trẻ vị thành niên.
Chúng tôi cũng đã gửi những kiến nghị tương tự để thách thức các bản án tù chung thân không ân xá trong một số vụ việc khác có liên quan đến trẻ vị thành niên, trong đó có thể kể đến vụ của Ian Manuel. Ian vẫn đang bị biệt giam ở Florida. Chúng tôi tiến hành khởi kiện ở Missouri, Michigan, Iowa, Mississipi, North Carolina, Arkansas, Delaware, Wisconsin, Nebraska, và South Dakota. Chúng tôi khởi kiện ở Pennysilvania để giúp Trina Garnett, người phụ nữ bị kết tội cố ý gây hỏa hoạn khi còn là trẻ vị thành niên. Trina hiện vẫn đang phải sống khổ sở trong một nhà tù nữ, chị vui mừng khi biết chúng tôi có thể làm điều gì đó để thay đổi bản án của chị. Chúng tôi cũng khởi kiện ở California để giúp Antonio Nuñez.
Chúng tôi kiện hai vụ ở Alabama. Ashley Jones là một cô bé mười bốn tuổi bị buộc tội giết hai người thân khi người bạn trai lớn tuổi cố gắng giúp cô chạy trốn khỏi gia đình. Ashley từng bị bỏ mặc và bạo hành khủng khiếp. Khi vẫn còn là một thiếu niên đang thi hành án ở nhà tù nữ Tutwiler, cô bắt đầu viết thư cho tôi để hỏi về những phán quyết pháp lý mà cô đọc được trên báo. Cô chẳng bao giờ đề nghị chúng tôi trợ giúp pháp lý; cô chỉ đơn thuần hỏi về những gì mình đọc được và thể hiện sự hứng thú đối với các vấn đề luật pháp và công việc của chúng tôi. Cô bắt đầu gửi thư chúc mừng tôi và EJI mỗi khi chúng tôi kháng cáo thành công một bản án tử hình. Khi chúng tôi quyết định phản đối mức án tù chung thân đối với trẻ em, tôi nói với cô rằng cuối cùng chúng tôi cũng có thể khiếu nại bản án của cô. Ashley đã vui mừng khôn xiết.
Evan Miller là một thiếu niên mười bốn tuổi khác bị kết án tù chung thân ở Alabama. Evan sinh ra trong một gia đình da trắng nghèo ở vùng Bắc Alabama. Cuộc sống khốn khó của cậu bị ngắt quãng bởi những lần tự tử bất thành bắt đầu từ năm bảy tuổi khi cậu còn học tiểu học. Cha mẹ cậu ngược đãi con và nghiện ma túy, vì vậy cậu thường xuyên phải ra vào trại trẻ cơ nhỡ. Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội, Evan đang sống cùng mẹ. Một tối, người hàng xóm trung niên Cole Cannon tới nhà Evan hỏi mua ma túy từ mẹ cậu. Sau đó, cậu bé Evan mười bốn tuổi và người bạn mười sáu tuổi của cậu đi theo người đàn ông đó về nhà ông ta chơi bài. Cannon cho hai thiếu niên dùng ma túy và chơi trò phạt rượu nếu thua bài. Có lúc, ông ta bảo hai cậu đi mua thêm ma túy. Hai cậu bé đi mua xong rồi ngủ lại vì lúc đó cũng đã muộn. Cuối cùng các cậu bé tưởng Cannon đã say mềm và tìm cách lấy trộm ví của ông ta. Cannon giật mình tỉnh dậy và lao vào Evan. Cậu bé lớn tuổi hơn phản ứng bằng cách dùng gậy bóng chày nện vào đầu ông ta. Cả hai bắt đấu đánh đập Cannon rồi phóng hỏa đốt cả căn nhà lưu động. Cole Cannon chết, còn Evan và người bạn bị buộc tội giết người nghiêm trọng. Cậu bé lớn hơn đã dàn xếp với các công tố viên và nhận được án tù chung thân có khả năng ân xá, trong khi Evan bị kết án và phải chịu mức tù chung thân không ân xá.
Tôi tham gia vào vụ việc của Evan ngay sau phiên sơ thẩm, và đã đệ trình một kháng nghị đòi giảm án cho cậu, mặc dù đây là hình phạt bắt buộc đối với những ai phạm tội giết người nghiêm trọng nhưng ở dưới độ tuổi áp án tử hình. Tại tòa, tôi đề nghị thẩm phán xem xét lại mức án của Evan chiếu cố độ tuổi của cậu. Công tố viên lập luận, “Tôi cho rằng cậu ta nên bị xử tử. Cậu ta đáng nhận án tử hình.” Sau đó ông ta than thở rằng luật pháp không còn cho phép xử tử trẻ em nữa, chứ bản thân ông ta rất mong được đưa thằng nhóc mười bốn tuổi này lên ghế điện và giết chết nó. Thẩm phán bác bỏ kiến nghị của chúng tôi.
Khi tôi đến thăm Evan trong tù, chúng tôi chuyện trò với nhau rất lâu. Cậu thích nói về bất cứ điều gì cậu có thể nghĩ ra khi chúng tôi gặp nhau để kéo dài cuộc thăm viếng. Chúng tôi trò chuyện về thể dục, thể thao, sách vở, gia đình cậu, âm nhạc, và tất cả những việc cậu muốn làm khi trưởng thành. Cậu thường hoạt bát và hào hứng về một điều gì đó, dù khi lâu lâu không nhận được tin tức gì từ gia đình, hoặc gặp phải sự cố tồi tệ nào đó ở trong tù, cậu sẽ trở nên cực kỳ bi lụy. Cậu không thể hiểu nổi một số hành vi thù địch và bạo lực mà cậu chứng kiến ở các tù nhân và những người xung quanh. Có lần cậu kể với tôi rằng một quản giáo đã đấm thẳng vào ngực cậu chỉ vì cậu hỏi một câu về giờ ăn. Cậu bật khóc khi kể với tôi chuyện này vì cậu không hiểu nổi tại sao viên cán bộ đó lại làm như vậy.
Evan bị đưa đến Trại Cải huấn St. Clair, một nhà tù dành cho người trưởng thành được bảo vệ an ninh ở mức tối đa. Không lâu sau khi nhập trại, cậu bị một tù nhân khác tấn công, tay đó đâm cậu chín nhát. Cậu dần bình phục mà không gặp phải vấn đề nghiêm trọng nào về mặt thể chất, nhưng sự việc này đã để lại những sang chấn tâm lý và làm cậu mất phương hướng. Khi nói về hành vi bạo lực của chính mình, cậu có vẻ cực kỳ hoang mang, cậu không biết tại sao mình lại có thể làm một chuyện kinh khủng như thế.
Phần lớn các thân chủ chịu án tù chung thân ở tuổi vị thành niên của chúng tôi có cùng nỗi hoang mang như Evan về hành vi thời niên thiếu của mình. Nhiều người đã trưởng thành, thành những người lớn biết suy nghĩ hơn, và giờ đây họ đã có khả năng đưa ra các quyết định phù hợp và có trách nhiệm. Hầu hết các vụ việc này đều bi kịch và trớ trêu ở chỗ giờ đây họ không hề giống những đứa trẻ bối rối từng phạm những tội ác bạo lực trước kia; tất cả đều đã thay đổi mạnh mẽ. Điều này làm họ khác biệt với hầu hết các thân chủ khác của tôi, những người phạm tội khi đã trưởng thành. Bản thân việc tôi tham gia vào những vụ việc thanh thiếu niên phạm tội bạo lực cũng rất trớ trêu.
Năm đó, tôi mười sáu tuổi, và sống ở vùng Nam Delaware. Một ngày, tôi đang chuẩn bị đi ra ngoài thì điện thoại reo. Khi đi ngang, tôi thấy mẹ đang nghe điện thoại. Thế rồi, chỉ một phút sau, tôi nghe thấy tiếng mẹ thét lên. Tôi chạy ngược trở lại và thấy mẹ đang gục xuống sàn, nức nở, “Ba ơi, ba ơi” còn ống nghe điện thoại rơi thõng. Tôi nhấc máy; dì tôi đang ở đầu dây bên kia. Dì thông báo ông tôi vừa bị giết.
Ông bà tôi đã ly thân từ nhiều năm, và ông tôi có thời gian sống một mình trong các khu nhà xã hội ở Nam Philadelphia. Đó là nơi ông đã bị một số tên choai choai tấn công và đâm chết khi chúng đột nhập vào căn hộ của ông để lấy trộm chiếc ti vi đen trắng. Ông qua đời năm 86 tuổi.
Vụ giết người điên rồ này làm cả đại gia đình chúng tôi suy sụp. Bà tôi, dù đã ly thân với ông từ nhiều năm trước, đặc biệt hoảng loạn trước vụ việc và cái chết của ông. Mấy anh chị họ làm việc trong lực lượng chấp pháp của tôi đã tìm kiếm thông tin về những thằng bé gây ra tội ác - tôi nhớ là họ đã kinh ngạc nhiều hơn là thù hận về sự thiếu chín chắn và thiếu khả năng suy xét ở những đứa trẻ này. Chúng tôi đều nói và nghĩ một điều giống nhau: Chúng đâu cần phải giết ông tôi. Một cụ già tám mươi sáu tuổi làm sao có thể ngăn chúng lấy đi món đồ vớ vẩn ấy. Mẹ tôi không bao giờ hiểu được điều đó, và tôi cũng vậy. Tôi biết ở trường học vẫn có những đứa trẻ có vẻ hung hăng và mất kiểm soát, nhưng tôi vẫn tự hỏi tại sao người ta lại có thể tàn nhẫn một cách vô lý như vậy. Vụ sát hại ông tôi đã để lại cho chúng tôi rất nhiều câu hỏi.
Giờ đây, hàng chục năm sau, tôi bắt đầu hiểu ra. Khi chuẩn bị kiện tụng cho những đứa trẻ mà chúng tôi đại diện, tôi nhận thấy rõ ràng ta không thể đánh giá thấu đáo các tội ác ghê rợn và điên rồ ấy nếu ta không hiểu được cuộc sống của những đứa trẻ này. Khi cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với trẻ vị thành niên, Tối cao Pháp viện đã rất chú ý đến các nghiên cứu y học mới nổi lên gần đây về sự phát triển ở trẻ vị thành niên và khoa học não bộ, cùng sự liên quan của chúng đến các hành vi phạm tội ở thanh thiếu niên.
Các bằng chứng thần kinh học, tâm lý học và xã hội học đương đại cho thấy trẻ em ở độ tuổi này dễ mắc sai sót do suy xét chưa chín chắn, thiếu khả năng kiểm soát bản thân và tự chịu trách nhiệm, dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng tiêu cực và áp lực từ bên ngoài, cũng như thiếu khả năng kiểm soát những cơn bốc đồng và môi trường xung quanh. Thường bao trùm lứa tuổi từ 12 đến 18, thời kỳ vị thành niên có đặc trưng là những thay đổi sâu sắc, bao gồm những biến đổi thể chất rõ ràng và phiền toái liên quan đến tuổi dậy thì (chiều cao, cân nặng tăng, và những thay đổi liên quan đến tính dục), cùng sự phát triển của khả năng đưa ra những phán đoán hợp lý và chín chắn, kiểm soát hành vi và sự tự chủ. Như chúng tôi về sau giải thích trước Tối cao Pháp viện, các chuyên gia đã đi đến kết luận như sau:
“Sự gia tăng nhanh chóng và mạnh mẽ [3] hoạt động của dopamin trong hệ cảm xúc xã hội xung quanh thời điểm dậy thì thúc đẩy thanh thiếu niên tăng cường tìm kiếm cảm giác và chấp nhận rủi ro; sự gia tăng hành vi tìm kiếm phần thưởng này đi trước sự trưởng thành về cấu trúc của hệ kiểm soát nhận thức và các liên kết của nó với những khu vực thuộc hệ cảm xúc xã hội. Quá trình trưởng thành sẽ diễn ra từ từ trong suốt thời kỳ vị thành niên, khả năng tự quản lý bản thân và kiểm soát các cơn bốc đồng sẽ dần phát triển... Khoảng thời gian từ khi có sự kích thích của hệ cảm xúc xã hội trong giai đoạn đầu của độ tuổi vị thành niên đến khi hệ kiểm soát nhận thức phát triển hoàn thiện tạo ra một thời kỳ trẻ rất dễ có hành động liều lĩnh ở giai đoạn giữa tuổi vị thành niên.”
Những phát triển về mặt sinh lý và tâm lý này giải thích một điều hiển nhiên đối với những phụ huynh, nhà giáo, và bất kỳ người trưởng thành nào khi họ nhớ lại thời vị thành niên của mình: Không như người lớn, các thanh thiếu niên thường thiếu sự chín chắn, độc lập, và định hướng cho tương lai. Có vẻ kỳ cục khi phải giải thích cho tòa một điều cơ bản như vậy về thời thơ ấu, nhưng chúng tôi buộc phải nêu rõ những sự thật rất đỗi cơ bản này vì hệ thống pháp luật quá phản tiến bộ khi quyết tâm theo đuổi những hình phạt khắc nghiệt đối với trẻ em.
Chúng tôi lập luận trước tòa rằng, so với [4] người trưởng thành thì sự suy xét ở trẻ vị thành niên hầu như thiếu sót về mọi mặt. Trẻ vị thành niên thiếu kinh nghiệm sống và kiến thức nền tảng để đưa ra lựa chọn sáng suốt; các em gặp khó khăn khi lựa chọn và hình dung ra hậu quả; và, có lẽ vì lý do chính đáng, các em thiếu sự tự tin cần thiết để đưa ra những phán đoán hợp lý và theo sát chúng. Chúng tôi cũng lập luận rằng ngành khoa học thần kinh và các thông tin mới về hóa chất não bộ giúp lý giải khả năng suy xét hạn chế của trẻ vị thành niên. Khi những khiếm khuyết căn bản này kết hợp với môi trường mà một số trẻ em nghèo phải trải qua - những môi trường ngập trong ngược đãi, bạo lực, rối loạn, bỏ rơi, và thiếu vắng sự chăm sóc của người thân, trẻ vị thành niên dễ đi tới các quyết định cực kỳ sai lầm mà kết cục là bạo lực bi thảm.
Chúng tôi có thể đưa ra những lập luận thuyết phục về sự khác biệt giữa trẻ em và người lớn, nhưng đó không phải là trở ngại duy nhất đối với nỗ lực đòi giảm án. Án lệ về Tu chính án thứ tám của Tối cao Pháp viện không chỉ đòi hỏi bản án phải vi phạm “các tiêu chuẩn ngày càng cao về sự tử tế”, mà còn phải “bất thường” [thì mới được xem xét]. Trong những trường hợp mà Tối cao Pháp viện đã giảm án trước đó theo Tu chính án thứ tám, tổng số bản án bị thách thức trên cả nước thường không vượt quá 100. Năm 2002, có khoảng 100 người chậm trí đang chờ xử tử khi Pháp viện cấm hình phạt tử hình đối với người khuyết tật trí tuệ. Năm 2005, khi Pháp viện cấm hình phạt tử hình đối với trẻ em, số tử tù ở độ tuổi vị thành niên còn gần 75 người. Con số thu nhỏ dần sau các quyết định của Pháp viện về việc cấm hình phạt tử hình đối với những tội phi sát hại.
Thực tế có hơn 2500 trẻ em ở Hoa Kỳ đã bị kết án tù chung thân không ân xá làm rối thêm chiến lược kiện tụng của chúng tôi. Chúng tôi quyết định sẽ tập trung kêu gọi giảm án cho hai nhóm trẻ, nếu Pháp viện vẫn chưa sẵn sàng cấm hoàn toàn bản án tù chung thân không ân xá đối với tất cả thanh thiếu niên. Chúng tôi tập trung vào những em nhỏ tuổi nhất - 13 và 14 tuổi. Có gần 100 em nhỏ dưới 15 tuổi đã bị kết án tù chung thân không ân xá. Chúng tôi cũng tập trung vào những em bị kết án cho những tội phi sát hại như Joe Sullivan, lan Manuel, và Antonio Nuñez. Phần lớn trẻ vị thành niên nhận án tù chung thân không ân xá đều bị buộc tội giết người. Theo ước tính của chúng tôi, có gần 200 người phạm tội ở tuổi vị thành niên đang chịu án tù chung thân không ân xá vì các tội phi sát hại.
Chúng tôi lập luận rằng giống như án tử hình, án tù chung thân cũng là một phán quyết chung cuộc, không thể thay đổi, và vĩnh viễn đối với cả cuộc đời của một con người, nó tuyên bố anh ta hay cô ta vĩnh viễn không phù hợp để làm một thành viên của xã hội dân sự. Chúng tôi đề nghị các tòa án công nhận rằng không thể áp đặt một phán quyết như vậy lên trẻ em dưới một độ tuổi nhất định, vì các em là những sản phẩm chưa hoàn thiện, là những con người còn đang trong quá trình phát triển. Các em đang ở vào một thời điểm đặc biệt dễ bị tổn thương trong đời. Tiềm năng phát triển và thay đổi của các em là rất lớn. Gần như tất cả đều sẽ bỏ được hành vi phạm tội, và thực tế là khó có thể phát hiện số ít những người không như vậy. Các em là những “sản phẩm của một môi trường [5] mà các em không có quyền kiểm soát thật sự - những hành khách đi trên các con đường chật hẹp trong một thế giới mà các em chưa bao giờ tạo ra,” chúng tôi viết trong bản kiến nghị.
Chúng tôi nhấn mạnh sự bất nhất khi một mặt trẻ em không được phép hút thuốc, uống rượu bia, bầu cử, tự do lái xe, hiến máu, mua súng, và một loạt các hành vi khác bởi các em thiếu sự chín chắn và khả năng suy xét - một điều ai ai cũng phải công nhận, nhưng mặt khác một số trẻ em khuyết tật, bị bỏ rơi và có nguy cơ cao nhất lại bị đối xử giống hệt như với người trưởng thành trong hệ thống tư pháp hình sự.
Ban đầu, chúng tôi không thành công với những lập luận này. Thẩm phán xét xử Joe Sullivan kết luận rằng những tuyên bố của chúng tôi là “vô giá trị”, ở các bang khác, chúng tôi cũng gặp phải sự hoài nghi và phản đối tương tự. Cuối cùng, chúng tôi không còn hướng nào để làm việc với bang Florida về vụ của Joe Sullivan và phải đệ đơn kháng cáo lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Tháng Năm năm 2009, Tối cao Pháp viện đồng ý xem xét lại vụ việc. Điều này giống như một phép màu. Bình thường, một bản án hiếm khi được Tối cao Pháp viện xét lại, nhưng khả năng Tối cao Pháp viện có thể đưa vào hiến pháp chính sách giảm án cho những em bị kết án tù chung thân đã làm cho cơ hội này thậm chí còn ly kỳ hơn nữa. Đây là một cơ hội để thay đổi luật lệ trên cả nước.
Tối cao Pháp viện chấp thuận xem xét lại vụ án của Joe và một vụ án khác liên quan đến một thiếu niên mười sáu tuổi bị kết án tù chung thân không ân xá vì một tội phi sát hại ở Florida. Terance Graham đến từ Jacksonville, Florida, bị buộc tội cướp một cửa hàng khi đang trong thời gian chịu quản chế. Sau khi Terrance bị bắt, thẩm phán đã hủy án tù treo của cậu và kết án tù chung thân. Vì cả trường hợp của Joe và Graham đều liên quan đến những tội phi sát hại, nên nhiều khả năng là nếu chúng tôi giành được một phán quyết thuận lợi từ Tối cao Pháp viện, phán quyết đó sẽ được áp dụng cho các bản án tù chung thân không ân xá đối với trẻ vị thành niên bị kết tội phi sát hại. Bất kể thế nào, đó cũng là một khả năng đáng mong đợi.
Những vụ án này thu hút được sự chú ý mạnh mẽ của giới truyền thông quốc gia. Khi chúng tôi gửi kiến nghị lên Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, các tổ chức trên cả nước đã chung tay với chúng tôi và đệ trình các kiến nghị thân hữu* thuyết phục Pháp viện ra phán quyết có lợi cho chúng tôi. Chúng tôi nhận được sự hỗ trợ của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội Luật sự Hoa Kỳ, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, các cựu thẩm phán, cựu công tố viên, những người làm công tác xã hội, các nhóm hoạt động dân quyền và nhân quyền, thậm chí cả một số nhóm hoạt động vì quyền của nạn nhân. Những cựu tù vị thành niên mà nay đã trở thành người nổi tiếng [6] cũng đệ trình những tài liệu hỗ trợ, trong đó có cả các chính trị gia bảo thủ như cựu Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ Alan Simpson ở Wyoming. Ông Simpson đã làm việc mười tám năm ở Thượng viện, trong đó có mười năm là người phụ trách công tác tổ chức của Đảng Cộng hòa - ông là thượng nghị sĩ giữ chức vụ cao thứ hai trong đảng của mình. Thượng nghị sĩ Simpson cũng từng là tội phạm vị thành niên. Năm mười bảy tuổi, ông bị kết án với các tội danh như đốt phá, trộm cắp, tấn công nghiêm trọng, bạo lực súng, và tấn công cả một sĩ quan cảnh sát. Về sau ông thú nhận: “Tôi từng là một con quái vật.” Cuộc đời ông chỉ bắt đầu thay đổi từ khi ông bị giam giữ giữa “một biển bãi nôn và nước tiểu” sau khi bị bắt. Thượng nghị sĩ Simpson hiểu rõ rằng ta không thể đánh giá hết tiềm năng của một người chỉ bằng hành vi sai trái của người đó thời trẻ dại. Một kiến nghị khác được đệ trình bởi các cựu binh trẻ em, những người từng có các hành vi đáng sợ sau khi bị buộc phải gia nhập những đội dân quân bạo lực của người Mỹ gốc Phi mà nếu so sánh thì tội trạng của các thân chủ của chúng tôi có lẽ còn không nghiêm trọng bằng. Tuy nhiên, sau khi ra quân, những cựu binh trẻ em này hầu như đều phục hồi và được đón nhận rộng rãi tại các trường cao đẳng và đại học của Mỹ, và nhiều người trong số họ đã gặt hái được thành công.
Nguyên văn: Amicus brief (viết đầy đủ là Amicus Curiae brief), là kiến nghị của một bên không tham gia vào vụ kiện nhưng tin rằng phán quyết của tòa án có thể ảnh hưởng đến lợi ích của họ. Amicus Curiae là thuật ngữ Latin mang nghĩa “thân hữu của tòa án”. (ND.)
Tháng Mười một năm 2009, sau khi đệ trình kiến nghị cho trường hợp của Joe và Graham, tôi đến Washington cho lần tranh biện thứ ba trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Các vụ việc này được báo chí truyền thông chú ý và đưa tin nhiều hơn bất kỳ vụ kiện nào của tôi trước đó. Tòa án chật cứng, thậm chí hàng trăm người khác phải đứng theo dõi từ bên ngoài. Những nhà vận động về quyền trẻ em, luật sư, và các chuyên gia về sức khỏe tâm thần chăm chú dõi theo khi chúng tôi đề nghị Tối cao Pháp viện tuyên bố rằng các bản án tù chung thân không ân xá đối với trẻ em là vi hiến.
Trong suốt cuộc tranh biện, cả tòa sôi nổi, và không thể nào dự đoán được các thẩm phán sẽ quyết định ra sao. Tôi trình bày với Tối cao Pháp viện rằng Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất trên thế giới áp dụng mức án tù chung thân không ân xá đối với trẻ em. Tôi giải thích rằng các bản án này vi phạm những điều luật quốc tế vốn cấm những hình phạt như vậy đối với trẻ em. Chúng tôi chỉ cho Tối cao Pháp viện thấy các bản án này đã được áp đặt lên trẻ em da màu với một thái độ đầy thành kiến ra sao. Chúng tôi lập luận rằng việc áp dụng mức án tù chung thân đối với trẻ em chủ yếu là hệ quả của các hình phạt khắc nghiệt được tạo ra để đối phó với những tội phạm chuyên nghiệp là người trưởng thành, chứ chúng chưa bao giờ là để dành cho các em nhỏ. Điều này có nghĩa là việc áp dụng một bản án như thế đối với những thiếu niên như Terrance Graham và Joe Sullivan là bất thường. Tôi cũng nói với Pháp viện rằng bảo bất kỳ một đứa bé mười ba tuổi nào rằng nó chỉ đáng nằm chết trong tù là một hành vi độc ác. Tôi không biết chắc liệu Tối cao Pháp viện có thấy thuyết phục trước những lập luận ấy hay không.
Tôi đã hứa với Joe rằng tôi sẽ đến thăm cậu sau cuộc tranh biện ở Tối cao Pháp viện. Tên tuổi và vụ án của Joe lúc này đang được thảo luận liên tục trên truyền hình. Ban đầu, Joe rất phấn khích trước sự chú ý dành cho vụ việc của cậu, nhưng rồi các quản giáo và những tù nhân khác bắt đầu chế giễu và đối xử với cậu khắc nghiệt hơn trước. Họ có vẻ bực bội khi vụ việc của cậu được chú ý. Tôi bảo cậu rằng cuộc tranh biện giờ đã kết thúc và mọi thứ sẽ lắng xuống.
Trong nhiều tuần liền, Joe đã cố gắng ghi nhớ một bài thơ mà cậu khoe mình sáng tác. Khi tôi hỏi có thật là cậu đã viết nó không, cậu thừa nhận rằng một tù nhân khác đã giúp cậu, nhưng sự phấn khích của Joe về bài thơ vẫn không giảm sút chút nào. Cậu nhiều lần hứa sẽ đọc nó cho tôi nghe khi nào tôi đến thăm cậu sau cuộc tranh biện. Khi tôi đến thăm, Joe được đưa vào khu thăm viếng mà không gặp phải khó khăn gì. Tôi kể với cậu về cuộc tranh biện ở Washington, nhưng cậu lại háo hức muốn đọc thơ cho tôi nghe. Cậu nhắm mắt lại để tập trung, và bắt đầu đọc:
Hoa hồng màu đỏ, hoa violet màu xanh.
Tôi sẽ sớm về nhà sống với anh.
Cuộc đời tôi sẽ tốt đẹp hơn, tôi sẽ thật hạnh phúc,
Anh sẽ giống như người cha và gia đình của tôi.
Chúng ta sẽ vui vẻ bên bạn bè, và những người khác sẽ thấy,
Tôi là một người tốt... ờm... Tôi là một người tốt...
Tôi là... một... người... tốt... ờm...
Cậu không nhớ được câu thơ cuối cùng. Cậu đưa mắt nhìn lên trần nhà, rồi lại nhìn xuống sàn, vắt óc cố nhớ. Cậu nhắm tịt mắt lại, cố gắng ép những từ ngữ cuối cùng phải hiện ra trong tâm trí, nhưng vẫn không thấy chúng đâu. Tôi chỉ muốn tiếp viện cho cậu một câu - “vì thế hãy mừng cho tôi” hay “giờ đây mọi người sẽ thấy”. Nhưng tôi cảm thấy nghĩ ra một câu thơ cho cậu không phải là điều nên làm, nên tôi chỉ ngồi yên đó.
Cuối cùng, cậu có vẻ chấp nhận rằng mình sẽ không nghĩ ra câu thơ. Tôi tưởng cậu sẽ buồn, nhưng khi rõ ràng là chẳng nhớ ra câu cuối, cậu chỉ bật cười. Tôi thở phào và mỉm cười với cậu. Vì lý do nào đó mà cậu cứ cười mãi về chuyện này - cho đến khi cậu đột nhiên dừng lại và nhìn tôi.
“À, chờ đã. Tôi nghĩ câu cuối... thực ra, ờm, tôi nghĩ câu cuối chính là câu tôi vừa nói đấy. Câu cuối chỉ là ‘Tôi là một người tốt’ thôi.”
Cậu ngừng lại, và tôi nghi hoặc nhìn cậu trong vài giây. Tôi không nghĩ gì mà chỉ buột miệng, “Thật không?”
Lẽ ra tôi nên dừng lại, nhưng tôi lại tiếp tục, “Chúng ta sẽ vui vẻ bên bạn bè, và những người khác sẽ thấy ‘Tôi là một người tốt’ à?
Joe nghiêm mặt nhìn tôi trong giây lát rồi cả hai chúng tôi đều phá lên cười. Tôi không biết liệu mình có nên cười không, nhưng Joe đang cười, và điều đó khiến tôi nghĩ rằng cười cũng không sao cả. Thật lòng mà nói, tôi không thể nhịn được. Chỉ mấy giây sau, chúng tôi đã cười ngặt nghẽo. Cậu ta lắc lư trên chiếc xe lăn từ bên nọ qua bên kia, vừa cười vừa vỗ tay. Tôi cũng không thể nhịn cười; tôi cố hết sức kiềm lại mà không được. Chúng tôi vừa nhìn nhau vừa cười. Tôi thấy Joe cười như một đứa trẻ, nhưng tôi cũng nhìn thấy những nếp nhăn trên mặt cậu và thậm chí cả mấy sợi tóc bạc sớm trên đầu cậu nữa. Ngay cả khi cười, tôi vẫn không quên rằng tuổi thơ bất hạnh của cậu đã được nối tiếp bằng thời niên thiếu tù đày và khổ đau, rồi sau đó là sự giam hãm khổ sở trong suốt quãng đời trưởng thành. Tôi chợt nhận ra quả đúng là một phép màu khi cậu vẫn có thể cười. Tôi nghĩ về chuyện thế giới đã hiểu sai như thế nào về Joe Sullivan, và tôi muốn thắng vụ kiện của cậu biết bao.
Cuối cùng cả hai chúng tôi cũng bình tĩnh trở lại. Tôi cố gắng nói thành thật nhất có thể. “Joe này, đây là một bài thơ rất, rất hay.” Tôi ngừng lại. “Tôi nghĩ nó rất tuyệt.”
Cậu nhìn tôi cười thật tươi và vỗ tay đắc ý.