← Quay lại trang sách

Chương 4

BÍCH Liễu học vừa dốt vừa lười. Chỉ có cái miệng ăn quà vặt là cần mẫn, hoạt động không biết mệt từ sáng mở mắt đến khuya đi ngủ. Cứ mười lăm phút nửa giờ là chạy lại mở tủ lạnh. Có bao nhiêu là đồ ăn đồ uống trong đó. Nho, cam, táo, bơ, phó mát, coca, pepsi... Những món ăn văn minh nhập cảng từ ngoại quốc đó như chỉ biết tẩm bổ cho xác thịt của Bích Liễu. Chúng chừng như không dính dáng gì đến trí não của Bích Liễu hết. Bởi trí não đó đen tối như được nuôi dưỡng bằng than đá.

Một hôm Thúy thấy Bích Liễu loay hoay giải một bài toán Hình học, miệng lẩm nhẩm mãi cái đề toán y như một thầy phù thủy đọc bài kệ, bài chủ. Đường phân giác của hai góc kề AOB và BOC hợp thành một góc vuông. Chứng tỏ rằng AOB và BOC là hai góc bù nhau. Bích Liễu vẽ rồi xóa rồi vẽ lại. Bích Liễu xoay quyển vở đủ chiều.

Thúy vừa nghe đọc đề toán vừa nhìn vào hình vẽ của Bích Liễu. Đó là đề toán thông thường mà lời giải nó còn nhớ như in. Như nó thấy trước mặt, thầy Thọ cầm viên phấn vẽ lên bảng hai đường phân giác OT và OZ. Lý luận rõ ràng nhảy ra trước mắt. Góc AOB bằng 2 góc BOZ, góc BOC bằng 2 góc BOT. Rồi góc AOC bằng 2BOT + 2BOZ. Thế mà BOT + BOZ = 90 độ. Vậy AOC = 180 độ.

Khi thầy Thọ kết luận như vậy, cả lớp đều ồ lên sung sướng. Học Toán có cái thích thú đó. Ngồi mò mẫm bên bàn mà không biết mệt. Khi tìm ra được lời giải thi vui, khỏe trong mình như vừa được tắm mát.

Thúy học chương trình Đệ Thất không hơn bảy tháng nhưng những sai lầm của Bích Liễu nó thấy được. Bích Liễu đọc Anh văn sếu sáo, rời rạc, trật giọng. Ri-đin (reading) mà đọc là Re-đinh. Đọc chữ nào cũng có thêm dấu Sắc thật mạnh vào thành ra nghe chữ nào cũng nặng nhọc. Làm bài tập trật như điên. Thúy thập thò đứng nhìn, thấy chỗ sai ngứa mắt muốn chỉ nhưng không dám, sợ Bích Liễu bị chạm tự ái, trở lại hành hạ nó. Có một hôm thấy Bích Liễu lẫn lộn Past participle của To see với Present của To seem, nó buột miệng nói không giữ kịp:

— Chị lầm rồi. Chữ N chớ sao chữ M.

Bích Liễu quắc mắt nhìn:

— Mày nói sao?

— Seen chớ sao lại Seem?

— Mày biết gì mà nói? Xin với xỏ, Xiêm với Áo gì? Mày tưởng đây là chữ Việt sao?

— Không, em nói chữ Anh đó chớ.

— Mày ở nhà quê chăn bò mà làm gì biết Anh văn? À, mày chạy theo xe Mỹ lượm đồ hộp tụi nó quăng và đi theo xin kẹo rồi học lóm phải không? Chắc mày thuộc mấy chữ Ô kê, Năm bờ oan, Năm bờ ten...

— Em học đệ Thất.

— Đệ Thất gì?

— Đệ Thất Trung học.

— Nói láo tao vạt mỏ.

— Em nói thiệt.

— Nói thiệt thì đọc thử bài selection này đi.

Thúy cầm lấy đọc không khó khăn. Bởi bài đó không phải chỉ được tập đọc rồi mà còn được học thuộc lòng.

Bà Đức Lợi ở trên lầu vừa bước xuống thấy Thúy đứng láng quáng ở bàn học của Bích Liễu, liền la lên:

— Đi xuống nhà sau cho chị bếp sai vặt. đứng đó chi làm rộn người ta. Cái tay táy máy bạ cái gì cũng rờ, làm gẫy đầu bút chì, làm nhàu nhè sách vở. Mày biết gì mà lên vớ vẫn đó? Để chỗ cho người ta học.

Thúy lủi thủi đi xuống bếp. Bích Liễu gọi bà Đức Lợi:

— Me me...

— Cái gì con?

— Con Thúy nó đọc được Anh văn.

— Đồ nói láo, tin làm gì?

— Nó đọc thật mà. Nó đọc trước mặt con.

Bà Đức Lợi ngẩng bộ mặt chưng hửng. Bích Liễu đẩy quyển sách English for today sang mẹ:

— Nó đọc bài này.

— Đọc bậy bạ chơi chớ gì.

— Không. Nó đọc đúng giọng.

— Chắc là bắt chước ai đó.

— Nó nói nó có học Đệ Thất.

— Chả tin. Dân nhà quê nói mười thì hãy cứ tin một.

— Rõ ràng là con nghe nó đọc đúng.

— Chắc là chó ngáp phải ruồi. Dân nhà quê cho dẫu có đi học thì cũng là học chơi học bời vậy thôi. Giỏi sao được? Thôi con học đi. Mai mốt hạch Tấn ích, gắng cho hơn người ta.

— Con học đến gầy người.

Bích Liễu vừa nói vừa co cánh tay lên đưa cho mẹ xem. Cánh tay no tròn. Chỉ có màu da nâu sẫm và mặt da khô. Lạ thật, ăn toàn đồ bổ mà da không được sáng. Người ta được săn sóc như vậy thì trắng da dài tóc, còn đằng này thì da nám mà tóc chẻ tư chẻ năm rồi khô quắn như râu bắp.

— Hôm nào mời ông Lang làm cho mày cái tễ.

— Con không chịu uống đâu. Uống thuốc tễ giống như bà cụ già.

— Sao lại giống bà cụ già? Khối người trẻ đẹp như tiên cũng uống thuốc tễ ông Lang.

— Thuốc tễ đen như cứt dê, con chịu thôi.

— Nó đen nhưng mà nó bổ. Chịu khó uống vào cho da nó sáng như da người ta.

— Nhưng con có đau ốm đâu mà me bắt uống thuốc?

— Không ốm đau nhưng mà da tối lắm. Con gái da tối, không trông được.

— Con chỉ uống thuốc Tây thôi.

— Thuốc Tây nóng, uống vào nó gầy rạc người đi.

— Thế Tây đầm đều gầy hết?

— Thố ngơi của họ phù hợp với tạng phủ của họ. Tạng của họ là tạng hàn.

— Con không uống.

— Không uống thì chích.

Bích Liễu tru tréo lên:

— Không chích đâu. Uống còn không chịu, me lại bắt chích. Con sợ cây kim lắm.

— Ừ, thì thôi. Chẳng uống mà cũng chẳng chích. Thôi, con cứ học đi. Hôm nào me mua yến hầm cho con ăn.

Bà Đức Lợi âu yếm nhìn con. Có món gì thiếu cho nó đâu? Tổ tiên truyền rằng chân giò heo hầm măng, bổ chân âm, đàn bà ăn có sữa cho con bú, như vậy là bổ nhất trần đời. Mình cho nó ăn hàng ngày. Tây nó khen xúp xương đùi bò ăn bổ, ai bệnh dậy muốn mau lại sức thì ăn xúp xương bò. Mình liền cho ăn xúp xương bò, mà xương đùi bò thứ thiệt có ống chân cưa ngang lòi rõ đoạn tủy. Bên Mỹ bên Pháp giàu nhất cũng chỉ ăn đến thịt gà rô ti là cùng chứ không thể lấy vàng lấy bạch kim đem rô ti mà ăn được. Ở nhà, thịt gà rô ti ăn hoài đến nổi chúng nó năn nỉ xin đừng bắt ăn nữa. Ăn tráng miệng không cam thì táo, thì nho tươi. Chuối chê nặng bụng ăn sinh lãi. Sáng uống sữa tươi, trưa uống nước trái cây, tối uống coca. Ăn vậy mà da vẫn không được tốt. Thậm chí nghe người ta đồn uống nước cà rốt thì nước da trắng hồng như màu cà rốt, thế mà mình cho uống hoài cũng vậy. Nghe người ta bày ăn lòng đỏ trứng gà với mật ong thì da trắng như trứng gà bóc, tóc óng ả như mật ong, nhưng ăn hoài uống mãi, da tóc chẳng chịu đổi thay. Còn biết tin ai nữa? Chẳng lẽ tin mấy cái xe quảng cáo bán cao đan hoàn tán đậu ở góc chợ Phước Hải, đậu ở đầu đường Nguyễn Trãi, Đồng Nai? Chẳng lẽ tin ở mấy tờ báo hàng ngày trên đó thuốc nào cũng Thánh thầy nào cũng Thần? Và điều đáng giận hơn cả là trong khi con mình tẩm bổ dường đó mà da khô dường đó thì trái lại, một đứa nhỏ bơ vơ lạc loài, ăn cơm thừa canh cặn, ngủ giường thô ván cứng là con Thúy thì lại tay chân đầy đặn, mặt trắng môi son. Lắm bữa tức quá, Bà Đức Lợi kiểm soát luôn lượng cơm dành phần cho Thúy. Bà bắt chị bếp sớt bớt cho con Bobby và con Toto, — hai vị Thần giữ của này mỗi ngày xơi hơn một ký thịt. Chị bếp thương hại Thúy đành lùa một phần cơm của chị sang thêm cho Thúy vừa tăng thêm lượng rau. Hai vị Thần giữ của có tên ngoại quốc oai phong kia không chịu ăn rau nên có hôm xuống bếp thấy trong chén của Thúy có nhiều chất xanh mà bà Đức Lợi cũng đành chịu không biết sớt cho ai. Thôi kệ, rau dù sao cũng còn rẻ. Và chẳng lẽ rau nó có thể làm cho mặt trắng môi son được.

Thúy xinh đẹp đã là một điều đáng ghét, bây giờ phát giác ra rằng Thúy có học khá, — khá hơn Bích Liễu, — thì Thúy càng trở nên đáng ghét hơn. Đó là tâm lý của bà Đức Lợi.

Chứ Bích Liễu thì chưa biết nghĩ xa xôi, Bích Liễu chỉ biết lợi dụng ngay, lợi dụng tại trận cái đã, sai con nhỏ này làm bài giải Số học và Hình học, sai con nhỏ này làm bài tập Lý Hóa, bài tập Anh văn, sai con nhỏ này làm bài soạn Giảng văn, bài luận Việt văn. Sai con nhỏ này học luôn bài học thuộc lòng. Thật là tiện lợi hết mức. Cứ nằm dài trên giường rồi bắt con nhỏ ngồi bên cạnh đọc đi đọc lại bài toát yếu Sử ký, Địa lý, Vạn vật, bài thuộc lòng Anh văn, Lý Hóa. Bích Liễu vừa nghe vừa đọc theo. Cứ đọc đi đọc lại năm lần là con nhỏ đã thuộc lòng rồi trong khi Bích Liễu vẫn còn ngập ngọng nhớ đầu quên đuôi, được đuôi mất đầu.

— Mày đọc mau quá tao làm sao nhớ kịp? Để rai rải tao đọc lại: đời sống ở ốc địa có giếng, có cây chà là, có giếng, có cây chà là. Đời sống ở đài nguyên quanh năm rét, quanh năm rét... Mày biết đài nguyên có gì nhiều không? Nhiều lầu đài tráng lệ. Cô giáo tao kể rằng những chuyện Công Chúa ngủ trong rừng, Bạch Tuyết và bảy chú Lùn đều xảy ra ở những lâu đài nguy nga đó.

— Đâu phải là đài nguyên? Đài nguyên là miền chỉ toàn có cánh đồng đầy cây rêu và hồ ao.

— Mày biết gì? Cô giáo tao giảng vậy mà.

— Thầy em thì giảng vậy đó. Đài là rêu, nguyên lá cánh đồng.

— Thầy mày ở trường Trung học nhà quê, giảng bậy. Ở nhà quê đâu có được đọc chuyện Công chúa ngủ trong rừng, đâu có được coi phim Bạch Tuyết và bảy chú Lùn?

— Văn chương chữ nghĩa ở đâu cũng phải giảng như nhau.

— Đâu có «như nhau» được? Cô giáo tao đỗ hai chứng chỉ Cử nhân văn chương, thầy mày giỏi lắm là Tú tài một.

— Em không biết thầy em đỗ gì.

— Đối với tụi học trò nhà quê thì giảng sao cũng được chớ đừng hòng giảng bậy với học trò thành phố.

Thúy tự nhiên thấy thương cho những ông thầy học của mình. Tại mình mà ông thầy bị mắng là «thầy nhà quê giảng bậy». Thực tế thì thầy mình tận tâm, giảng dạy đúng đắn, chu đáo. Sách nào giảng rằng đài nguyên có nhiêu lâu đài? Chẳng lẽ lên tới Cử nhân thì đài nguyên khác với đài nguyên ở Tú tài?

— Mày nói sao? Cô giáo tao dạy vậy mà mày nói sai? Đây cô tao phê bình bài văn: Lời văn dịu dàng uyển chuyển mà rất linh động gợi hình. Nó cho ta một cảm giác man mác u buồn bởi chữ dùng chính xác có nhiều mỹ từ pháp.

— Em đâu có dám nói sai?

— Mày nói hễ dịu dàng thì không linh động.

— Em nghĩ vậy.

— Cài gì mày cũng chê.

— Em đâu có dám chê? Tại chị hỏi, bắt em nói. Mà hễ em nói khác ý chị là chị nói em chê.

— Trường mày thầy mày sức mấy mà chê? Trường mày có mấy lớp?

— Dạ trường Quận mới có ba lớp.

— Từ lớp nào tới lớp nào?

— Dạ từ đệ Thất tới đệ Ngũ.

Bích Liễu cười rú lên:

— Trời ơi! Ba lớp mà cũng gọi là trường Trung học. Khác chi trường Tư thục mẫu giáo, Sơ học tư thục? Còn thua Tư thục Bát Nhã, tư thục tiểu học Minh Tâm. Nghe đây: trường tao hai mươi bảy lớp. Từ đệ Thất đến đệ Nhất. Trường mày có giáo sư đi dạy bằng ô tô không?

— Dạ không.

— Chứ họ đi bằng gì?

— Dạ bằng xe đạp và xe gắn máy.

— Còn thua thợ nề và thợ rèn. Thợ rèn đi jeep. Thợ cúp đi Yamaha. Trường tao có sáu thầy giáo đi ô tô. Còn học trò đi học bằng gì?

— Đi bộ và xe đạp.

— Không có Honda?

— Không.

— À, học trò nhà quê mà. Đi xe đạp đã là sang rồi. Honda, Suzuki làm sao biết lái. À, có đứa nào cưỡi ngựa đi học không? Tao nghe người ta nói ngoài xứ mày đàn bà hay cưỡi ngựa và đi quyền.

— Đi quyền ở Bình định nhiều hơn. Họ đồn con gái An thái đánh võ quật ngã con trai. Còn đi ngựa thì chỉ đàn bà ở miền thượng là hay đi. BỞi họ phải đi từ nùi này sang núi nọ xa xôi, không nhờ sức ngựa thì đi không xuể.

— Còn ở dưới đồng bằng?

— Họ cũng đi bộ, đi xe Lam ba bánh, đi xe ô tô hàng, đi xe đạp như ở đây.

— Họ có đóng khố và cà răng không?

Thúy cười:

— Đâu có. Chị làm quá người Thượng du. Ngoài em cũng như trong này vậy thôi. Cũng có người giàu kẻ nghèo, cũng mặc áo dài, cũng có quân đội, cũng chợ búa mua bán, cũng hàng nylon, tétron...

— Nhưng tao không hiểu làm sao tụi mày có thể học được. Mặc áo vải, đi bộ, tới ngồi trong một lớp học có nhiều lỗ đạn bắn thủng, thế mà tụi mày có thể đọc được tiếng Mỹ trong English for today. Mày học hết Book one chưa?

— Em học được nửa cuốn.

— Vô lý không. Miệng lưỡi của tụi mày mà cũng có thể nói được tiếng Anh tiếng Mỹ! Ở thành phố tụi tao nghe quen, tiếp xúc quen, có radio, có Ti vi, có xi nê.

— Ở nhà quê cũng có radio.

— Đồ mấy cái radio transistor léo nhéo như lũ ngạt mũi, kể xá gì? Tao nói những bộ radio pickup Hifi đồ sộ đó chứ. Tao không tin rằng một đứa nhỏ chỉ tiếp xúc hằng ngày với con bò và cây lúa mà có thể nói được tiếng Mỹ hay.

— Chắc nói không hay bằng mấy chị đâu.

— Nhất định chớ chắc gì nữa?

Thật không ai ngu bằng con Bích Liễu. Chính nó chuyên môn đọc ngọng tiếng Anh và con bé nhà quê kia cứ phải sửa dùm nó. Về văn phạm thì khỏi nói. Nó trộn lẫn mọi thứ qui tắc y như người ta trộn dầu và hành và hạt tiêu vào đĩa rau xà lách.

Sau những hồi mắng tới tấp, đến những hồi phải đấu dịu để sai Thúy nó làm bài dùm cho thật chu đáo. Nếu nó thù nó làm quơ quào cho xong thì mình chịu chết. Chắc chắn là nó không dám làm sai. Đã ra lệnh rồi: «hễ bài giải sai tao bị zéro là mày bị ba roi». Đố nó có dám âm mưu hại ngầm mình. Lâu lâu phải hứa thưởng cho nó.

— Làm bài Luận này dùm tao đi. Đồ khỉ, ra đề Luận khó như... khó như... khó như cái gì mày?

— Em đâu biết?

— Người ta thường nói khó như... gì? Họ nói ngang như cua, hỗn như gấu, xấu như ma, còn khó như gì?

— Em chịu, không biết.

— Thôi kệ. Mày làm dùm cái đề Luận này cho tao. «Tả một anh mù hát xẩm ở ngoài chợ».

— Em đâu có ra chợ lần nào mà biết?

— Mày cứ tả ở cái chợ nhà quê của mày.

— Chợ nhà quê đâu có giống chợ thành phố?

— Thì cũng «xem xem» [1]. Mày cứ tả đi rồi tao thêm thắt vô chút ít. Chỗ ruộng lúa thì tao thay bằng bin đinh. Chỗ cái ao thì tao thay bằng ga ra. Chỗ bụi gai thì tao để vào đó một xe nước mía. Thế là chu hết. Tao rải thêm vào vài thằng cao bồi để râu trên mép và tóc bù xù, vài con Sến mông bự như mông heo.

— Hát xẩm là hát làm sao?

— Là mù con mắt ngồi ở góc chợ hát dạo. Ca vọng cổ, ca tân nhạc cải cách, ca bài hát Tây nữa.

— Ở nhà quê họ hô bài chòi. Em tả thằng hô bài chòi.

— Mày cứ tả như vậy cũng được. Cô giáo tao không biết đâu. Cô ấy đâu có ở nhà quê mà biết. Có cho tiền cũng không dám về. Sợ mìn. Đồ quỉ, tao ghét mấy cái đề «Tả người» đó lắm. Cứ phải dòm thấy, ngó thấy, quan sát, mới tả. Mà tả làm sao cho hay được? Tao ưa mấy cái đề «Tả cảnh» hơn. Chẳng hạn tả đêm trăng ở nhà quê. Tả buổi mai trên cánh đồng.

— Chị có ở nhà quê đâu mà biết?

— Thiếu gì bài người ta đã viết rồi, cứ theo đó mà viết lại. Hể đêm trăng ở nhà quê thì phải có tiếng chó sủa xa xa, có tiếng dế ri rỉ trong cỏ, có một ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước. Tả buổi mai thì có ánh dương màu hồng, có nông phu vác cày dắt trâu. Có chim hát trên cành và bướm lượn trên cỏ.

— Cô giáo sẽ phê bình là sáo ngữ.

— Không đời nào. Cô giáo tao ưa sáo lắm. Càng sáo càng có nhiều điểm. Hễ chim hót thì phải véo von, hoa thơm thì phải ngạt ngào, chỗ quê hương thì phải đẹp hơn cả.

— Chị biết tính cô thì bài làm chắc được nhiều điểm.

— Tao khá luận văn lắm. Điểm trên trung bình hoài. Có bài có giáo còn phê «Khen» nữa.

— Như vậy em bì sao nổi? Em không có khiếu văn chương. Thôi, để chị làm.

— Thôi mà, cứ làm đi cho tao.

— Lỡ ít điểm?

— ít điểm tao chịu.

— Chị đánh em.

— Tao không đánh đâu. Hễ trên 12 điểm tao cho ba đồng uống nước mía. 10 điểm: huề. 08 điểm: cảnh cáo.

— Em làm văn sáo không nổi đâu. Hồi học đệ Thất, ông thầy em không cho làm văn sáo. Ông nói làm như vậy là tập nói láo. Cứ thấy sao tả vậy, nghĩ sao nói vậy.

Bích Liễu mím môi suy nghĩ. Thấy sao nói vậy thì còn được, chứ nghĩ sao nói vậy thì hơi phiền. Nếu nó cứ đem những ý nghĩ nhà quê của nó ra mà biên hết vào thì mình bị lộ tẩy. Nhưng mà biết làm sao? Thôi, đành phải:

— Kệ, cũng được đi. Sang phần «Cảm tưởng» mày nói láo láo một chút chớ đừng nghĩ sao nói vậy.

Thúy rụt rè:

— Em sợ...

Bích Liễu gắt lên:

— Đã nói rồi mà. Cứ làm đi cho tao. Có sáo có nhồng càng tốt, không có thì thôi. Ai bắt tội mày mà sợ?

Tới đây, Bích Liễu dịu giọng nói ngọt:

— Có điều vô nhập đề phải cho ngon một chút, nghe không? Chẳng hạn: Thừa một buổi sáng chủ nhật trời mây êm ả, gió nhẹ như ru, tôi thong dong đếm bước về ngả chợ Phường Củi, lòng lâng lâng một niềm vui man mác. Đại khái nói ngon ngon như vậy thì mày có hy vọng được uống nước mía.

— Cái kiểu này thì chắc chắn em bị cảnh cáo.

— Cảnh cáo cũng được. Làm đi. Tao chạy xuống xa-lông coi Ti-vi một mách đã. Tối hay có chương trình Mission impossible.

Thúy cầm bút ngồi trước trang giấy trắng. Nó nhớ như thấy rõ trước mắt, như nghe rõ bên tai, thầy Phú hồi ở lớp đệ Thất giảng cách làm Luận: Hôm đó thầy vào lớp xách theo một cái bình trà. Con Lê Hồng lanh miệng nói lên trước:

— Chà, hôm nay thầy uống nước trà trong lớp. Có đem theo kẹo chia cho bọn con không?

Thầy «suỵt»:

— Im lặng. Hôm nay làm Luận.

— Làm Luận mà sao phải đem bình trà, thầy? — thằng Quýt hỏi»

— Hôm nay tả cái bình trà.

Con Hà:

— Tả cái bình thì thầy phải lựa cái bình cho đẹp đẹp một chút. Cái bình gì mà bể vòi vậy, thầy?

— À, có như vây mới đáng tả. Các em phải tả cái chỗ vòi bình bể sao cho đúng. Làm sao khi đọc lên người ta thấy rõ nó, bể như thế nào.

— Như vậy thì văn hay gì nổi, hở thầy? — Võ thị Hoa Hồng hỏi.

— Văn hay là tả sao cho chính xác. Nghĩa là khi đọc lên thì người đọc thấy rõ ngay cái vật mình tả, cái cảnh mình tả.

— Đâu có khó thầy? — Mỹ cướp lời. Mình cứ viết: Cái bình bể mất cái vòi.

— Như vậy đâu gọi là tả? Mả phải nói nó bể chỗ nào. Đường bể thẳng hay cong. Đoạn bể dài cỡ bao nhiêu. Rồi hình vẽ trên cái mặt bình là hình gì.

Thằng Hết:

— Trên bình có vẽ hình hoa lá đủ màu. Có vẽ con chim đậu trên cành hoa.

— Sao gọi là đủ màu được? Mấy màu? Màu gì?

— Màu xanh. Lá màu xanh, cành cây cũng màu xanh.

— Riêng một màu xanh cũng có chia ra làm mấy thứ. Xanh đậm, xanh lợt, xanh lá cây, xanh dương, xanh đọt chuối, xanh lá cây pha đen, xanh dương pha tím vân vân.

Hoàng Anh:

— Chà! Khó quá. Như vậy bọn con tả gì nổi?

— Có vậy mới phải học và có vậy mới gọi là làm việc. Thôi, bắt đầu quan sát đi. Ghi lược những điều mình quan sát được. Rồi bắt đầu bố cục bài luận. Sau đó mới đặt câu trên nháp.

Bây giờ thầy Phú có còn dạy ở trường Quận nữa không? Giặc giã ngoài đó đã yên chưa? Con Trương Quý có còn liến láu, bạ gì cũng hỏi, gặp gì cũng nói? Thằng San có còn cà lăm rặn từng tiếng như con gà rặn đẻ cái trứng? Ôi! Ngôi trường Quận quê mùa mà thân mến của mình!

Tiếng đồng hồ gõ boong boong trên vách làm Thúy giật mình trở về với thực tại. Nó đè ngòi bút xuống trang giấy. Thôi, mặc kệ, nhập gia tùy tục. Ở đây người ta ưa văn sáo thì mình phải liệu mà châm chước. Cứ bắt đầu như chị Bích Liễu đã dặn: «Thừa một buổi sáng chủ nhật trời mây êm ả gió nhẹ như ru...»

Chú thích:

[1] Tiếng Mỹ nghĩa: như nhau, giống nhau.