Chương 6
NGÀY tiếp theo ngày, Thúy sống nhẫn nhục trong gia đình bà Đức Lợi, trông mong thấp thỏm rằng sẽ có một ngày bà gọi nó lên, giao cho một chồng sách vở rồi dẫn nó tới một ngôi trường. Nó thèm nghe lại tiếng viên phấn mài kin kít trên mặt bảng đen, tiếng thước gõ xuống mặt bàn thầy giáo, tiếng ngòi bút cào rào rạo trên giấy như tiếng một loài mọt gặm gỗ. Tiếng cái thước giẹp, cái ê-ke, cái thước đo độ, cái com-pa được đặt xuống, nắm lên, xoay qua, trở lộn ngược... chạm vào mặt bàn, xát vào mặt vở trong giờ làm bài toán Hình học. Trong những ngày đầu, mỗi lần nghe bà Đức Lợi cất tiếng gọi là nó tràn trề hy vọng. Nhưng chỉ liền sau ba, bốn tiếng nói của bà là nó nhớ rằng nó thuộc thân phận tôi đòi.
«Lấy cái chổi... Sao mày... Hôm qua tao đã dặn... Con kia...», những câu nói được bắt đầu như vậy chắc chắn không phải là để bảo nó ôm sách vở đi học.
Nó có cách nào phản kháng không? Van xin không? Chừng như nó không đủ can đảm để làm một cách nào trong những cách đó hết. Bà Đức Lợi không hề ngọt ngào với nó, không hề tỏ ra chịu nhượng một người (trừ với hai đứa con), Hy vọng được đi học mỗi ngày mỗi bỏ xa nó. Sang tháng thứ ba, sang tháng thứ tư thì nó hoàn toàn tuyệt vọng. Giã từ vĩnh viễn tiếng viên phấn kin kít trên mặt bảng đen, tiếng thước gõ trên mặt bàn, tiếng ngòi bút... tiếng cái ê-ke xát vào mặt vở.
Xế nay Thúy xin phép bà Đức Lợi cho về thăm Dì Tảm. Dù không phải là bà con họ hàng nhưng Dì gần gũi với nó hơn hết, Dì là tượng trưng cho cái quê hương xa cách ngút ngàn không biết ngày nào nó có thể về thăm. Sống ở giữa gia đình bà Đức Lợi, Thúy cảm thấy xa lạ như một con vịt đem bỏ giữa đàn gà. Xa lạ bắt đầu bằng giọng nói. Bà Đức Lợi còn giữ một giọng Bắc tương đối thuần chất, mấy đứa con pha giọng Saigon, chị bếp thì rặc giọng Huế. Chỉ một mình nó nói cái giọng đặc biệt của riêng quê nó và khi tách rời ra khỏi cái cộng đồng lớn lao nơi quê hương thì giọng đó trở nên yếu đuối lẻ loi, bị người này nhại lại, bị người kia chế diễu. Xa lạ bởi nó không biết trao đổi chuyện trò với ai, người nào cũng đã có kẻ chia xẻ tình cảm với họ rồi. Mẹ con bà Đức Lợi thì quây quần ở nhà trên, ở trên lầu, hưởng thụ mọi sự sung sướng.
Chị bếp lục đục ở dưới bếp, lo làm cho xong công việc để khi nào hở tay là chạy qua góc phố nói chuyên với anh Di; thợ sửa xe đạp. Anh Di là người An định theo gia đình chạy giặc vô đây. Anh chăng một tấm tăng nhà binh từ một nhánh gòn thấp qua hai cây trụ rào. Đó là cái mái của hiệu «Mộng Lan, sơn sửa vá xe đạp và xích lô». Những chữ này anh viết bằng sơn xanh trên một tấm gỗ thùng. Nước sơn chạy nhểu thành giọt ràng rịt chữ này vào chữ khác. Hai chữ S anh viết lộn ngược. Cả chữ N nữa. Anh đóng một cái đinh lên thân cây gòn, móc tấm bảng lên. Bên cạnh đó lại một cái đinh trên móc nhiều cái vỏ xe đạp, vỏ xích lô cũ. Tấm bảng rao chắc chẳng mấy ai phải đọc tới bởi vi cứ nhìn những cái lốp xe đạp cũ để biết hiệu này chuyên môn gì. Tuy vậy mà trên mặt cái thùng gỗ đựng dụng cụ: kềm, kéo, búa, lon keo, dây phanh... anh còn dùng sơn,— lại sơn xanh, nhà quê đặc biệt,— để viết thêm nhiều chữ: Công việc nhanh chóng.— Và bảo đảm.— Giá phải chăng. — Rất được tín nhiệm.— Chủ nhân kính mời.
Anh Di có rất nhiều mụn nơi mặt. Chuyên môn mặc quần Tây xám và áo bà ba đen. Tóc lởm chởm dựng đứng. Cái miệng hơi hô ra và rõ ràng là một khuôn mặt như vậy không thể gọi là đẹp được. Chị bếp thương anh xe đạp chắc chỉ vì hàng ngày đi chợ chị phải đi vòng qua cái góc đường nơi có hiệu sửa xe lộ thiên của anh. Buổi trưa khi ăn uống dọn dẹp xong,— lúc bấy giờ bà Đức Lợi và mấy cô con gái đang nghĩ trưa trên lầu,— chị rửa tay xà phòng đến ba bốn lần, để tay lên mũi ngửi đến đôi ba lần. Chị rửa mặt chải tóc rồi nhè nhẹ mở cổng sau chạy ra hiệu «Sơn sửa vá...». Có hôm lật đật quên tắt vòi nước. Có hôm bỏ dĩa cá không đậy lồng bàn, mèo nó nhảy lên xực hết.
Bữa nào ra quán mà được nói chuyện với anh thì chị về tươi tỉnh vui vẻ. Chị tiếp tục công việc dọn dẹp vừa hát sai nhịp những câu hát quen miệng. Bữa nào ra gặp trở ngại, chẳng hạn anh đang lúi húi vá ruột giữa nhiều cái xe đạp đang nghếch đợi và nhiều thân chủ đang sốt ruột, chẳng hạn anh đang trò chuyện với một ông xích lô vắng khách thì chị trở về mặt hầm hầm. Chị ném cái nón xuống bàn đánh bộp một cái. Chị đá luôn con Bobby lẩn quẩn dưới chân. Và cuộc chưởi rủa bắt đầu. Ai, vật gì cũng thể bị chưởi. Cái chổi (mới đó mà biến mất đi mô rồi) cái thằng thợ ống nước (Đồ mắc dịch, biểu tới coi cái vòi nước nghẹt mà cứ hẹn rày hẹn mai) cái thùng quẹt (Hết cha nó đá rồi, trời ơi! Quên mua hoài. Tổ nội cái óc ngu này) con ruồi (Uở, mồ cha mi. Răng mà cứ vo ve đậu lên mặt tao?). Những lúc đó Thúy tìm chỗ để lẩn trốn.
Những hồi vui, chị bay lẩn thẩn nói chuyện với nó.
— Rứa là em ở cùng một làng với anh Di?
— Không phải một làng. Em ở Xuân Phước còn Anh ở An định mà.
— Rứa thì một quận.
— Cũng không phải. Xuân Phước thuộc quận Đồng Xuân còn An Định thuộc quận Tuy An.
— Vây thì đồng một Tỉnh.
— Dạ.
— Anh Di ngó hiền lành, em hỉ?
— Dạ.
— Mấy hôm ni ảnh diện ghê, em thấy không? Hút thuốc Salem, nhai kẹo quynh-gum.
— Chắc ảnh làm nhiều tiền.
— Ờ. « Dưng» mà phải để dành để lo cưới vợchớ.
Thúy không biết trả lời như thế nào.
Một hôm chị bếp trao cho Thúy một bức thư viết dở dang, vừa nói:
— Này, chị viết bức thư này mà chữ nghĩa của ch...bết quá sợ nghe không được thông. Em đọc đi rồi viết dùm lại cho chị.
Thúy mở tờ giấy xếp làm tám trên đó những nét vẽ ngòng ngoèo cài móc vào nhau và xô đẩy nhau. Nét chữ của chị bếp đó. Nó vừa đọc vừa đoán. Và sau đây là kết quả của khả năng chiết tự của nó.
Thâng gởi anh chín,
bữa nớ ra thăm anh mà anh mắt khách, dựng anh ghê. Anh cứ lo cắt ruộc xe rồi kà rồi bôi keo bỏ em đứn xớ rớ một mìn, em dựng ghê. Em dựng rồi em nói thôi từ ni về sau không thèm ra thăm anh nữa, rứa mà răng em.
— Viết tới đây rồi thôi nửa chừng vậy hả chị?
— Không. Để rồi em thêm vô chớ. Chị biên tới đó thì vừa bưa bà kêu, chị bỏ ngang. Chừ em biên tiếp dùm đi. Sợ chữ của chị anh Chín đọc không chạy mô.
— Biên y như thế này hay có sửa lại?
— Em liệu liệu đó. Chỗ mô nghe không được thì em sửa lại chút ít.
Thúy nhìn xuống bức thư của chị bếp. Có những chữ viết sai chính tả trông kỳ quái như những con vật bất thường. Như con gà có ba chân hay một con bò có thêm cánh. Như chữ Thâng, chữ ruộc, chữ đứn. Thúy nhanh nhẹn lấy giấy viết lại. Sau đoạn thư có bản thảo nháp sẵn đến phần sáng tác trực tiếp của chị bếp. Phải vừa đề nghị sửa lại vừa tôn trọng nguyên văn. Cuối cùng, khi đọc lại toàn bản văn cho chị nghe, chị gật đầu khen:
— Được lắm. Hay đó.
Khi Thúy xếp bỏ tờ thư vào phong bì rồi trao tận tay cho chị, chị nói:
— Mà em đừng mét với bà nghe!
Thúy lắc đầu:
— Không có đâu. Em không mét đâu.
— Cũng đừng nói chuyện cho con Liễu con
Huệ biết.
— Em không nói đâu.
— Ừ, rứa tốt. Để bữa mô chị thưởng em.
Nhờ thỉnh thoảng viết thư dùm cho chị bếp mà có chi ngon chị hay lén sớt cho Thúy. Ban đầu Thúy sợ bị bắt gặp nên không nhận. Chị bếp phải dỗ nó:
— Cái này là phần của chị, chị không ăn nên sớt cho em.
— Đáng lẽ chị phải ăn.
— Chị lớn rồi, ăn hoài, ăn quen miệng. Em còn nhỏ.
— Em cũng không thèm chi. Ở nhà có chi ăn nấy.
— Sao bì với ở nhà được? Ở nhà cha mẹ con cái có một hột muối cắn làm năm làm bảy. Mà nói rứa chớ nhà em hồi đó giàu mà. Ăn uống có thiếu món chi.
Thúy chợt nhớ đến má đến ba, nước mắt ứa ròng ròng. Không hiểu sao chị bếp lại biết rõ như vậy. Quả tình là ở nhà, mình chẳng thèm món chi. Không kể bửa ăn có đầy đủ cả thịt, những món quà vặt như chè như chuối, như khoai như cam bưởi bao giờ má và ba cũng để dành phần cho con nhiều hơn. Quả xoài chín đầu mùa thì má dành cho ba và ba chia cho các con. Những món ăn lạ và hiếm như trái nhãn, trái vải... ba và má đều để phần cho các con thật nhiều. Rồi má lại còn lấy phần của má sớt cho các con nữa. Bây giờ xa xôi cách biệt, có lâm vào cảnh ăn nhờ ở đậu nơi quê người mới thấm thía tình ba má thương con là trời biển.
Như vậy là ở trong nhà này chỉ còn chị bếp là tỏ lòng thương Thúy đôi chút, nhưng chắc tình thương đó không đậm đà bằng tình thương của dì Tám. Dì Tám là người đồng quê, là người cùng chung một niềm yêu thương những cảnh những người ở nơi làng xóm mình. Có thể hồi trước di Tám đã chịu ân nghĩa giúp đỡ của ba má.
Con đường dẫn đến nhà dì được đào khoét thành hang thành vũng. Mấy cơn mưa đầu mùa còn để lại những hố nước lớn. Thúy chụm chân nhảy qua những cái vũng nước nhỏ, vén quần mà lội qua những vũng nước lớn. Rác nổi lều bều và nó chợt nhớ đến những con đỉa và những con trùn bò quăn queo mà nó sợ. Những con chó đứng rải rác ở các hàng rào hoặc tụ hội nhau lại để gầm gừ. Lại một thứ để nó sợ nữa. Có con chợt ngừng cuộc cãi nhau, đi lại gần nó và ngửi vào chân. Hồn vía lên mây. Giá không nhờ những kinh nghiệm do người lớn bày thì nó đã vọt chạy rồi. Không. Nó đứng lại cho con chó ngửi và đợi chờ con chó táp phập một cái. May thay, con chó bỏ đi. Nó mừng quá nhưng phải rón rén bước tiếp bằng những bước nhẹ nhàng. Đi được vài chục thước lại gặp một con chó tò mò khác. May quá, đã đến nhà dì Tám.
Nhà dì là một căn nhà tôn xiêu vẹo vuông vức mỗi bề không hơn ba thước. Vách dựng bằng những tấm gỗ đủ cỡ tháo từ các cái thùng ra. Chúng còn mang đủ những tên họ ngoại quốc nơi chúng xuất xứ: thùng bia San Miguel Phi luật tân, thùng rượu Rhum St James, thùng thuốc lá Ruby. Saigon. Đôi chỗ đươc dán kín bằng giấy bao xi măng Đài loan, bằng bao tải đựng gạo Mỹ. Cửa bước vào cao không quá đầu một người đàn ông tầm thước và bề ngang không đủ để một cái chum đựng nước lọt qua. Quen mắt với ngôi nhà đồ sộ của bà Đức Lợi, Thúy chợt ngạc nhiên sao một căn nhà lại có thể sơ sài như vậy. Y như do trẻ con dựng quấy quá làm chỗ chơi đùa.
Thúy ngần ngại bước vào. Con Dậu đang ngồi đút cơm cho em ăn. Thấy Thúy, nó trố mắt nhìn lên, ngạc nhiên một giây rồi mỉm cười:
— Chị Thúy.
Em nó, thằng Chút cũng trố mắt nhìn Thúy, miệng chíp chíp búng cơm đang ngậm. Hai dòng mũi xanh thò lò nơi hai lỗ mũi. Một con ruồi chọn chỗ đậu trên một dòng mũi đó và nhiều con ruồi khác chia nhau liếm nơi miệng của nó tạo thành một vùng đen. Những con ruồi khác nữa bâu quanh hai con mắt. Khi hai dòng mũi thập thò gần tới vành môi, nó lật đật hút lên. Cử động bất ngờ làm bầy ruồi bay vụt lên rồi lật đật đáp xuống. Thúy hỏi:
— Dì Tám đâu em?
— Má em mới chạy ra chợ.
Tiếng của nó mỏng và cong lại như tiếng một con mèo.
— Ba đâu?
— Ba vô làm sở ở trong Hòa do.
— Đi lâu chưa?
— Mới bốn năm bữa nay. Ông Hương Nông rủ vô trong đó.
— Ông Hương Nông đánh xe ngựa đó hả?
— Dạ.
Vừa trả lời xong, Dậu ôm thằng Chút kéo sát mặt lại gần rồi bất thần kề miệng hút mạnh vào mũi thằng bẻ. Chút khóc thét lên, ằng ặc dãy dụa. Dậu bỏ Chút ra, vội chạy ra sân nhổ đánh bẹp một bãi mũi xanh. Thằng bé khóc ngất còn Dậu thì la hoảng lên:
— Trời ơi, mũi đầy một bãi, hút cho mà còn la.
Thúy ngồi sà xuống dỗ bé Chút:
— Thôi nín đi em. Chị hút mũi cho mà.
Mồ hôi rịn nơi trán thằng nhỏ ướt dầm. Bao nhiêu là mụt mọc thành u thành sừng trên trán, trên mũi nó. Thúy nhìn vào chén cơm. Chen giữa bầy ruồi đen là những hạt cơm trắng và một viên mắm ruốc. Thúy hỏi:
— Mắm ruốc mà em nó cũng chịu ăn sao?
— Không ăn thì nhịn. Cầu cho có mắm ruốc mà ăn.
— Cho em một chút cá.
— Tiền đâu mua cá? Có tiền đong gạo là may phước. Ba em bịnh cả tháng. Mới hơi mạnh, gắng đi Hòa do đó. Nợ tiền thuốc Bắc ông thầy Ba chưa trả.
— Ông hốt thuốc chịu hả?
— Má em tới năn nỉ ông. Đợi hồi nào làm ăn có tiền, góp trả cho ông sau.
— Đau gì mà lâu vậy?
— Nghe nói đau đủ bịnh. Thương hàn cũng có, ho cũng có, yếu gan, sưng lá lách, gì cũng có. Có một bữa tưởng chết.
Thúy mở to mắt:
— Dữ vậy?
— Ông nằm giãy đành đạch rồi mân mê giường chiếu. Má em khóc dữ quá, bà con bốn phía lật đật chạy tới đầy nhà. Ông giáo Trưng bày đi mời ông thầy Ba. Bữa đó em sợ hết hồn. Nóng quá phát cuồng, ổng nói xàm như có ma bắt.
Thằng Chút hết khóc, ngậm búng cơm hút chíp chíp vừa ngủ gục. Dậu bế em đặt lên giường vừa nói nựng:
— Chút lên giường ngủ nghe? Chút giỏi mà. Chút không làm nũng đâu. Chút biết nghe lời chị, nghe lời má mà.
Thúy cảm động nhìn Dậụ săn sóc em. Không phải đó là tình thương của một người chị mà là tình thương của một người mẹ nhỏ. Con nhà nghèo ở nhà thường phải vừa trông em vừa gánh nước, quơ cũi, nấu cơm.
Thúy vẹt đống quần áo dơ khai mùi nước tiểu bỏ lung tung trên mặt cái giường bố nhà binh, tìm một chỗ ngồi. Mặt bố kêu kèn kẹt. Trên cái bàn nước, để lỏng chỏng mấy cái tách vàng cáu nước trà, một cái đèn dầu lửa có cái thông phong bị ám khói và bị bể tiện đứt một nửa. Có lẽ đã hơn ba, bốn tháng rồi thế mà không thay nổi cái bóng đèn. Nó bể hồi Thúy còn ở đây. Thúy nhớ rõ ràng chiều xẩm đó, con Dậu đang rửa rau bỗng phải bỏ rá rau lật đật chạy lên đốt đèn. Ba nó đang nói chuyện với khách và vì hà tiện một que diêm, ba nó gọi nó lên bưng đèn xuống bếp đốt. Tay dính nước lật đật quên lau, nó cầm bóng đèn lên. Khi đèn cháy vặn ngọn lên cao thì nghe nổ đánh sựt một cái. Một vòng nứt quấn ngang. Khách đi khỏi, nó lãnh ba roi vì tội bất cẩn. Cái bóng nứt gắng chịu đựng một tuần lễ. Sau đó, nó rớt xuống bể tan vào một lúc không ai ngờ. Ngọn đèn vụt kéo dài ra thành ngọn khói và cha nó phải vặn tim cho thấp xuống.
Thúy tưởng cái bóng đã được thay rồi, ai ngờ đến nay nó vẫn còn đó. Không ngờ dì Tám túng bẩn dường đó. Thúy hỏi con Dậu:
— Má mấy hôm rày có đi chợ không?
— Má em lỗ mấy trận gà, cụt vốn rồi. Gà mua sỉ, đem về thả trong giỏ. Chiều lại ỉa cứt cò, sáng ngày nằm quẹp không kịp gánh xuống chợ. Cả lồng bị lây theo, lớp cú rũ, lớp bỏ ăn. Bị liên tiếp ba giỏ gà như vậy.
— Không đi chợ thì lấy gì tiêu?
— Bả theo chị Sai đi phụ hồ cho chú cai Thạnh. Chú cai Thạnh ở trên xóm vườn ươn đó. Cũng người ngoài mình.
— Sao bữa nay không đi phụ hồ mà đi chợ?
— Bả la nhức đầu sổ mũi hai ba bữa nay.
Thúy ngó quanh quất căn nhà. Những vật tầm thường cũ kỹ và bẩn thỉu. Không có món gì có thể ăn được. Nhà giàu có đồ ăn cất kỹ trong tủ buffet, trong tủ lạnh, trong gác măng giê. Nhà trung lưu để khắp chỗ: trên bàn, trên ghế, trên tủ, trên vách, có khi là một nải chuối, có khi là một trái dừa, một trái dưa, một trái đu đủ, một chồng bánh tráng. Nhà dì Tám tuyệt nhiên không có dấu tích của một vật có thể bỏ vô miệng. Con Dậu thật khổ sở. Thằng Chút nữa. Trẻ con chỉ biết mê có ăn, chỉ thấy sung sướng khi có món gì ăn. Trẻ con ghét những người lớn tới nhà chỉ để nói chuyện, với cha mẹ nó. Nó thích người lớn cầm trên tay một trái ổi hay tàm tạm cũng vài viên kẹo. Thương những người tốt bụng như vậy đó.
Con Mực nằm trước hiên gừ gừ mấy tiếng. Cái cửa ngõ bằng thanh gỗ ghép xộc xệch có chằng dây thép gai bị đẩy vẹt ra: dì Tám về. Con Mực đứng dậy vẩy đuôi mừng. Dì bước vào vừa lên tiếng:
— Con Dậu đâu rồi? Sao có mấy cây ớt mà mày không chịu tưới để héo queo vầy? Ở nhà lo chơi, có mấy cái cây cũng bỏ chết. Lại còn để cho gà hàng xóm qua bươi chải tanh banh. Dậu ơi!
Con Dậu lanh lảnh ‘‘ Dạ’’.
— Sao tao đã dặn mà mày cứ quên? Năm tòa bảy sở gì mà mày làm không nổi? Đứa nào ở trong đó? Uở Thúy, con lại chơi hồi nào?
Thúy đứng dậy lí nhí nói:
— Thưa dì con mới lại hồi nãy.
— Có xin phép bà Đức Lợi không?
— Dạ có.
— Con lại hồi dì đi khỏi hả? Ờ, chắc hồi dì mới đi chợ. Mấy bữa rày dì nghỉ. Mới mò ra chợ bữa nay.
Thằng Chút đang thiu thiu ngủ, nghe tiếng mẹ lồm cồm bò dậy. Dì Tám lại ngồi cạnh con:
— A! Út của mẹ đâu? Út của mẹ đây mà. Lại mẹ ‘‘thơm’’ Út một cái. Mẹ đi chợ bỏ Út ở nhà tội nghiệp quá. Chị Dậu có đánh Út không?
Dì bế thằng Chút lên, tay vỗ bạch bạch lên mông nó. Nó ngả đầu yên ổn lên vai dì. Thật không còn có sự nương tựa nào thoải mái cho bằng. Thúy nghĩ rằng hồi nhỏ mình cũng được má thương yêu như vậy. Bây giờ đây thì mình bơ vơ cô độc như thân cây ớt cây cà bị bứng xa khỏi bầy anh em, đem ra trồng ở một miền đất lạ, chịu nắng mưa côi cút một mình.
Dì Tám quay lại hỏi:
— Mấy hôm rày bà Đức Lợi có cho con đi học không?
— Dạ không.
— Đồ... Trời đánh. Hẹn với người ta thì ngọt xớt cái miệng mà nuốt lời như không. Bữa đem cháu tới có cháu biết đó. Bả hứa cho cháu đi học, dì mới để cho cháu tới ở. Chớ nếu ở đày tớ thì thiếu gì nơi. Mà ở đày tớ thì phải trả lương, mạt lắm cũng một ngàn rưỡi hai ngàn chớ ai ở không công cho bả sai.
Thúy im lặng không biết nói gì. Dì Tám ngó quanh quất rồi nói:
— Không có cái gì cho cháu ăn chơi. Ờ, có mấy củ khoai lang bà Cốc mới cho bữa trước. Dậu ơi, đem nấu mấy củ khoai lang cho con Thúy nó ăn với.
Giọng Dậu:
— Khoai lang đâu nữa mà nấu? Có mấy củ, nấu hôm qua hết rồi.
Dì Tám có vẻ ngượng:
— Mày ăn đầu ăn đuôi hết. Có lòi món gì ra là mày chận đầu ăn hết.
Dậu cãi:
— Đâu phải con ăn? Thằng Chút nó đòi.
— Thôi, mày cãi bay hết. Cái gì mày cũng cãi được hết.
— Chớ sao? Con có ăn được củ nào.
— Thôi thôi, im bớt cái miệng đi bà.
Thúy phải hòa giải:
— Con không đói đâu dì.
Di Tám lại vỗ mông thằng Chút:
—Út không biết cãi, cái gì nó cũng đổ cho Út hết. Nó cắn hết chín miếng, nó đút cho Út một miếng. Lũ con bà Đức Lợi nó có ăn hiếp cháu không?
— Dạ không.
— Dì coi bộ lũ đó dữ lắm. Tụi nó đâu có biết thương con nhà nghèo? Nó có hay đánh không?
— Dạ không.
— Ừ thôi, mình nghèo, gặp cơn ngặt ở nhờ người ta, mình phải nhường nhịn.
— Dạ.
Một đoàn trực thăng bay thấp, tiếng ào ào phành phạch làm rung rinh mải tôn. Di Tám nhìn ra cửa:
— Bữa nay chắc có hành quân lớn. Trực thăng bay cả bầy...
Thím nheo mắt như đang suy nghĩ gì đó.
—... Hồi khuya nổ ba bốn tiếng thiệt lớn.
Dì nhìn sang Thúy:
— Cháu có nghe không?
— Dạ không.
— Ờ, trẻ nhỏ ngủ say như chết. Chắc có pháo kích ở đâu phía phi trường. Còi báo động rồi máy bay tiếp lên liền... Hổm rày nghe đánh ở ngoài mình dữ lắm.
— Dì có nghe ở phía nào không?
— Nghe nói Hiếu xương, Tuy an đều có hành quân.
— Còn ở miệt Xuân phước, Xuân long?
— Không nghe nói. ''Ở trên'' chưa rút mà.
— Có ai ở ngoài đó vô nói tin tức chi không dì?
— Sao mấy hổm rày không gặp ai. Mấy người vô sau họ cứ tấp ở mạn Tuy hòa, ít vô xa trong này. Cứ nằm đó đợi để hơi yên yên thì mò về. Bữa trước bà Xã Rậm có vô thăm thằng hai Chí ở bên Đồng Đế. Nó đi khóa Hạ sĩ quan ở bển. Dì nghe nói chớ không có gặp.
Mà gặp để làm gì,—Thúy nghĩ. Tan hoang, tiêu diệt hết cả rồi! Ba, má, anh, nhà, chuồng heo, lẩm lúa, cây xoài..., tất cả đều nát vụn hết rồi! Thúy nhìn ra những cây trụ rào. Ngả nghiêng xiêu vẹo lòi xòi. Những thân cây xám mốc, đen đủi, những bụi có, những lá khô, những rác rưởi. Thật là buồn bã tiêu điều.
Thúy đứng dậy. Dì Tám nói ngày:
— Cháu ở chơi đã. Còn sớm mà, về chi lật đật?
— Thưa dì, con xin đi có hai giờ.
— Mày làm quá xin làm việc Nhà nước.
Thúy bước lại cầm tay con Dậu:
— Chị về nghe Dậu?
—Hôm nào xin má xuống chị chơi.
Dì Tám:
— Nó cứ đòi đi xuống hoài mà dì không cho đó. Đâu có phải như nhà mình. Mất công họ coi chừng, sợ mình ăn cắp.
Nụ cười của Thúy trở nên buồn thêm.
Thưa dì con về.
— Ừ cháu về. Nhớ nghe lời dì. Chịu ẩn nhẫn cho qua ngày.