Chương 8
TRONG năm ngày trở về ở nơi nhà Dì Tám, Thúy đã thấy rõ mức độ túng thiếu của Dì. Lượng cơm ăn không dồi dào và Dì Tám phải lấy nê là mình no rồi để bỏ bát đũa đứng dậy trước. Chỉ có cu Chút là được ngồi sau cùng với một bát cơm còn đầy. Dậu vét sồn sột vào đáy nồi, nhặt không sót những hạt cơm dính rải rác và vừa đứng dậy vừa nhìn bát cơm của cu Chút một cách thòm thèm. Gạo lại tăng giá và nghe còn dọa sẽ tăng giá nữa. Món ăn chính chỉ có cơm, còn đồ ăn thì lèo tèo một bát mắm, một đĩa rau luộc nên không thể ăn đồ ăn thay cơm. Ở nhà bà Đức Lợi, Bích Liễu và Bích Huệ ăn mỗi bữa chỉ lưng hai bát bởi phải để dành bụng mà ăn đồ ăn, ngon và bổ hơn cơm.
Nghĩ đến bà Đức Lợi, Thúy chợt nhớ lại buổi sáng hôm đó, liền sau khi nhận sự phán quyết của chồng, bà Đức Lợi mở cửa đi ra. Lúc bấy giờ Thúy đã bê thau nước đi xa một chút và lầm lũi lau nhà. Bà bảo nó đem dẹp thau dẹp giẻ. Bà đi theo sát gót nó. Xuống dưới nhà, bà bảo nó thu dọn quần áo.
Công việc làm mau trong nháy mắt bởi một nửa số quần áo nó đã mặc trên mình. Bà lục trao cho nó một cái túi giấy trên có in mấy chữ BULGUR, một lá cờ Mỹ và hai bàn tay nắm nhau. Bà bảo nó bỏ quần áo vào đó. Bà bảo nó đi tìm cái nón. Và cuối cùng là nhật lệnh:
— Thôi, hôm nay cho mày về luôn ở với Dì Tám mày. Tao không nuôi nửa. Nghe rõ không?
— Dạ.
— Đừng có lại đây nữa nghe không? Bảo với Dì Tám mày tự hậu cũng đừng lại đây chi nữa nghe không?
— Dạ.
Thúy ngó lên lầu. Bà Đức Lợi đón ý, nói:
— Thôi, không cần lên chào ông làm chi. Ông còn ngủ.
— Thưa bà con lên chào chị Liễu chị Huệ.
— Thôi chẳng cần. Chúng nó bận học.
Thúy quàng quai nón lên vai, đặt túi áo quần xuống cạnh chân, vòng tay thưa:
— Thưa bà con về.
Mà nhỉ, về đâu? Có nhà cửa quê hương đâu mà về? Căn chòi của Dì Tám không đủ để hai đứa con nghèo nàn của Dì kiếm đủ miếng ăn. Không có dư một cái giường để chỗ đặt lưng. Chị bếp đi chợ. Không có ai để nó chào nữa. Bốn anh lính ngồi hút thuốc ở dưới nhà xe.
Bà Đức Lợi đi theo nó ra cổng. Ra khỏi cổng, nó quay lại chào và bà «Ừ» một tiếng. Sau đó bà khóa cửa, yên tâm đi vào.
Dì Tám ngạc nhiên khi thấy Thúy xách túi giấy đi vào nhà. Con Dậu chạy ra mừng:
— Chị Thúy, chị đem cho cái gì đó?
Dì Tám cũng đang mơ tưởng một món quà gì nên cất tiếng hỏi:
— Con đem cái gì về đó?
Sự ngộ nhận làm Thúy cực thêm. Biết trả lời sao? Ái nỡ, ai đủ can đảm làm thất vọng những, mong ước tràn trề kia? Tới nhà ai mà cầm túi giấy là chủ nhà nghĩ rằng có một món quà mình đem theo trong đó. Đến thằng Chút cũng lững chững bước lại gần giơ bàn tay nhỏ xíu ra xin. Lúng túng, khổ sở, tuyệt vọng, Thúy òa ra khóc không giữ được. Dì Tám tưởng Thúy đau yếu chi, vội vã đứng dậy:
— Sao vậy con?
Thúy bệu bạo, vừa nói vừa nấc lên từng hồi:
— Bà Đại úy... ức ức... nói không nuôi con... ức ức... nữa. Biểu... ức ức... về.
— Sao vậy? Con có làm điều gì quấy sao?
— Dạ... ức ức... không.
— Có làm hư hao gì của người ta?
— Dạ không.
— Có lỡ dại ăn cắp món gì...
Thúy lắc đầu mạnh như muốn phủi gấp, gạt gấp, đuổi xa cái tiếng «ăn cắp» ghê tởm đó.
— Không, con không đời nào ăn cắp. Má con dặn...
Dì Tám biết mình lỡ lời, vội chận ngay
— Đó là Dì nói phòng vậy. Con còn nhỏ dại, sợ đôi khi nghe lời xúi dại của người lớn. Dì biết con ngay thẳng.
Qua cơn xúc động, Thúy tỉ mỉ kể lại những sự việc xảy ra, kể cả những điều nó lẻn nghe ông bà Đại úy bàn tính với nhau. Cứ từng chặp Dì Tám kêu lên «Trời ơi! Trời ơi»! như để đánh dấu chấm câu.
Dì Tám cứ đau rề rè từ nửa tháng nay, không đi làm phụ hồ được. Những ngày đi làm được thì tiền công cũng chỉ đủ phủi lủm hàng ngày nên hễ ươn yếu thì thiếu thốn liền tay. Phải như ở nhà quê thì Thúy và Dậu có thể ra sông ra lạch mò bắt con ốc con tép, ra đồng nhổ rau dền rau má về luộc ăn trừ bữa. Đằng này ở thành phố thì chỉ có cát và rác.
Một bữa Di Tám gọi Thúy lại nói riêng:
— Dì thấy con ăn uống thiếu thốn, thiệt Dì không nỡ. Mà biết làm sao, nhà túng quá. Hay là để Dì gởi con lên ở tạm trên nhà thím Sáu ở trên Diên khánh. Thím Sáu bữa trước có ghé lại nhà mình đó. Con còn nhớ không?
Thúy đứng suy nghĩ.
— Thím ghé lại bữa chiều trời mưa đó. Thím làm nghề tráng bánh tráng.
Thúy gật gật đầu.
— Dạ con nhớ rồi.
— Thím Sáu chỉ có hai vợ chồng không, không con. Nhà tráng bánh tráng, xắc bún. Bữa trước, hồi Dì đưa chân thím ra về thím có hỏi con là con ai. Dì nói rõ công chuyện của con và thím ước ao nhà thím có một đứa nhỏ như con vậy. Dì không muốn để con đi bởi Dì còn nhớ vụ bà Đức Lợi. Dì tưởng nghỉ ngơi vài bữa thì đi làm trở lại được, dì cháu rau cháo với nhau, ai ngờ cứ ươn ươn kiểu này, thấy cực khố thâncháu quả. Thôi, đê dì nhắn thím Sổu xuống và con lên ở tạm trên thím. Tử tế thì ở lâu, khắc bạc thì cháu về đây. Mà nói chớ, thím Sáu cũng người hiền lành.
Thúy không có ý kiến. Bốn ngày sau, thím Sáu tới. Thím gầy ốm, da đen đủi. Miệng hơi hô. Thím nói!
— Được lắm chớ! Cho nó lên ở trên tui. Nhà hai vợ chồng không, đâu có công lên chuyện xuống gì.
Dì Tám:
— Nó tay chưn học trò, hồi giờ chưa quen chịu khổ.
— Chị khỏi lo. Tui nuôi nó làm con cũng được. Hễ không ai nhận thì tui nuôi luôn làm con cũng được.
— Tánh nó nhút nhát, ít ăn ít nói.
— Uở cái chị này. Bộ người ta ăn tươi nuốt sống nó hay sao? Thôi, em em...
Thím ngoắt tay kêu Thúy rồi quay sang dì Tám:
— Con nhỏ tên gì vậy chị?
— Nó tên Thúy.
— Ở Thúy! — thím quay lại về phía Thúy, — Nè Thúy! Em vô lấy quần áo rồi đi theo thím. Em lên ở trên thím rồi coi. Hết muốn về nhà.
Thúy lấy gói quần áo và chạy tìm cái nón. Dậu hỏi:
— Đi đâu vậy chị Thúy?
Dì Tám:
— Chị Thúy lên chơi trên thím Sáu.
— Cho con đi với.
— Không được. Con ở nhà để ẵm em.
— Con ẵm em đi theo.
— Xa lắm, đi sao được. Để bữa nào rồi má dẫn đi.
Khi tiễn chân thím Sáu ra ngõ, dì Tám để tay lên vai nó:
— Con lên ở trên thím... đừng buồn. Lâu lâu dì lên thăm. Thím hiền lành coi con như con.
Thúy chỉ trả lời được bằng một tiếng «Dạ» nghẹn ngào. Ra khỏi ngõ, dì Tám còn đứng ngó theo cho đến khi hai người đi khuất.
Đến bến xe Lam, thím Sáu đẩy Thúy leo lên một chiếc xe còn trống và thím leo lên ngồi cạnh. Kề bên Thúy là một người đàn ông đứng tuổi đang đưa cánh tay níu lấy một thanh sắt chạy dọc theo trần xe. Cái áo sơ mi trắng cũ đã đổi sang màu vàng và tiết ra mùi mồ hôi nồng nặc. Thúy bị ngồi ép chặt quá khiến cặp đùi chừng như giẹp lại. Trước mặt Thúy có ba người đàn bà bán cá đang loay hoay xếp những chiếc đòn gánh xuống sàn xe. Thúy đoán là bán cá vì mùi tanh nồng phảng phất trong xe. Những người đàn bà thật bạo ngược. Cứ tự tiện xoay trở, gõ đòn gánh lốc cốc vào mắt cá, vào cổ chân người khác.
Khi xe đã chất nghẹt không còn chỗ chen chân, ông tài mới rồ máy cho xe chạy. Xe ì ạch chạy qua những đường phố. Xe nhún nhẩy khi bò ra tới ngoại ô. Đoạn đường Vĩnh hội Phú vinh đầy những hố vũng, chưa kịp rải đá rải nhựa nên xe chạy vồng, thùng xe rung dội thành tiếng động ầm ĩ. Có hồi phải tránh đoàn công voa nhà binh Đại Hàn đi ngược chiều, tài xế lật đật lái cho xe chạy tõm vào một cái bũng. Đến khi bò lên, xe bò không nổi. Mấy nổ rè rè rồi chợt rống lên, rồi hụ lên, xe nhích lên vài tấc rồi tụt lui. Giải pháp chót được áp dụng: Xin mời bà con xuống dùm. Xin làm ơn xuống dùm.
Cái xe mệt mỏi đó, cuối cùng cũng đến nơi. Thím Sáu xuống xe, dẫn Thúy đi loanh quanh.
Những căn phố bày biện hàng hóa vây quanh một cái chợ. Chắc nhà thím không phải là mấy căn phố đó đâu, Thúy nghĩ. Đi một lát tới những căn nhà gạch thấp. Có hy vọng nhà thím là một căn nhà gạch này. Thím nói lên ở trên thím thì sung sướng quên về mà. Nhưng thím cứ mải miết đi không chịu dừng lại. Hết đoạn nhà gạch đến những căn nhà tranh. Nhiều cây ô ma, cây mãng cầu đứng ở trước sân. Ừ, ở đây cũng thú. Tuy là nhà tranh nhưng có bóng cây. Thúy nhớ những con chim buổi sáng hay bay đến đậu trên cành cây để tìm mổ sâu. Chúng cất tiếng hát. Ngồi ở dưới sân mà nhìn những con chim thì thật vui mắt. Ồ, cái nhà này có bầy gà con đi xung quanh con gà mẹ. Thấy dễ thương ghê. Tiếc thay lại không phải là nhà thím. Chắc là cái nhà phía trước mặt kia. Cái nhà đó nhỏ nhưng ngó cũng dễ thương, có cây bông giấy bò lên trụ cửa ngõ nở những chùm hoa đỏ thật đẹp. Nhưng sao đi qua ngõ thím lại đi luôn? Thế nhà thím còn ở xa nữa à? Hết những ngôi nhà tranh rồi mà. Ở đằng kia chỉ thấy nhà tôn thôi. Mái tôn hắt ánh mặt trời tạo thành nhiều mặt trời khác chói lòa trước mắt. Vách đất và nền rất thấp. Hàng rào là những đoạn dây kẽm gai cong vẹo hay là những cây trụ nghiêng ngả lòi xòi. Thím Sáu bước vào một căn nhà như vậy. Thúy thất vọng nhưng tự an ủi liền: Thôi, miễn là thím ăn ở hiền lành «coi mình như con». Người nghèo thường có lòng nhân đức hơn người giàu.
Chú Sáu là một người đàn ông cũng nhỏ thó và cũng gầy gò như thím. Chú đang ngồi bệt dưới đất loay hoay sửa chữa một cái vành rổ. Ngước lên thấy thím về mà không tỏ vẻ mừng. Y như nhìn một người lạ. Cả sự hiện diện của Thúy bên cạnh thím cũng không làm cho chú ngạc nhiên. Chú lại chăm chú nhìn xuống công việc. Thúy nghĩ đến những ngày sắp tới mình phải sống cạnh một người lãnh đạm như vậy.
Thím Sáu làm nghề tráng bánh tráng. Gà gáy hai lần phải dậy xay bột. Đầu canh tư thì bắt tay vô tráng, tráng cho tới mặt trời đứng bóng. Vừa tráng vừa sắp ra vỉ để phơi. Phải bắt tay làm việc hồi còn khuya để mờ sáng có bánh đem đếm cho các quán. Buổi xế, người thì lo xắc bún, người thì lo đi chợ. Thím Sáu xếp đặt cho Thúy lãnh việc xay bột. Thím nói:
— Chớ con đâu có biết làm chuyện chi khác? Tráng bánh thì phải chuyên môn. Phải đều tay không có chỗ dầy chỗ mỏng, ngồi trong lửa cực lắm. Chỉ có chú mày mới chịu đựng nổi, Thím cũng đầu hàng.
Tráng bánh ngồi bên lửa thì cực thiệt đó nhưng xay bột không phải là không cực. Nhất là phải dậy hồi gà gáy hai lần. Làm sao mà biết đó là lần thứ hai con gà gáy? Ai nấy cùng ngủ, rồi chợt giật mình bởi tiếng con gà thế mà biết nó gáy một lần hay hai lần thì cũng lạ. Thúy thắc mắc nhưng thím Sáu thì quả quyết. Hể thím nói gà gáy hai lần thì phải đúng hai lần, phải đúng canh hai, phải đúng ba giờ khuya. Có lần thím đập Thúy dậy vì gà gáy hai lần rồi. Thúy bắc cần cối, vớt gạo đổ vô xay. Cò ke cút kít, tiếng giàng xay hát một điệu buồn bã đó còn hai thớt cối thì phụ họa bằng một giọng ghì ghì... ghì ghì. Hết nhả này tới nhả khác. Cây đèn dầu tù mù trong đêm như cũng buồn ngủ theo điệu hát của cái giàng xay. Tiếng gà gáy từng chặp kêu gọi nhau ó o từ nhà này sang nhà kia, từ xóm trên xuống xóm dưới, rộn rã inh ỏi một hồi rồi im lìm. Rồi sau đó chừng một giờ, chúng khởi sự gáy lại, cũng inh ỏi, cũng đối đáp nhau trịnh trọng, chuyển vang khắp xóm, rồi chợt im. Hết nhả thứ sáu, nhìn ra ngoài trời vẫn tối thui. Tiếng ngáy của chủ Sáu khò khò rồ rồ rột rột như tiếng kéo gỗ. Mọi lần thì sang nhả thứ sáu chủ đã dậy nhúm lửa.
Sang đến nhả thứ bảy, thử tám trời vẫn còn tối. Đúng là thím Sáu đã tính lộn. Gà có nhiều con gáy ẩu. Đang ngủ, chợt giật mình là gáy liền. Mấy con khác nghe tiếng gáy cũng mắt nhắm mắt mở gáy theo.
Tuy vậy mà sáng ra thím cũng không nhận lỗi. Cũng cứ cãi lấy được.
— Tại sao đó chớ, tao hồi giờ đâu có nói sai?
— Thì con xay hết tám nhả mà trời vẫn còn tối mò.
— Mày nói sao đó, chớ tao gần bốn mươi tuổi trên đầu, tao không biết gà gáy mấy lần sao mầy?
Thúy im lặng không dám nói nữa, ngạc nhiên vì thái độ của người lớn. Đáng lẽ cứ nhận là mình đã nghe lầm, như vậy có sao đâu? Có ai bắt đền, bắt bồi thường đâu mà phải già miệng nói dối? Thúy nghĩ tiếp: Phải chi có một cái đồng hồ chuông!
Chủ Sáu ngó bộ lãnh đạm vậy chớ người không xấu. Ăn cái gì chú cũng cho. Cứ chặng tám giờ sáng chú nghỉ tay sai Thúy đâm một cối nước mắm ớt thật cay rồi chú bầy ra sàng những cái bánh ướt bị rách. Chú ăn sáng với những tác phẩm bị loại bỏ đó của chủ. Chú chia phần bánh cho Thúy và để dành phần cho thím. Buổi xế chú hay uống nước trà với một gói kẹo. Chú cho Thúy mấy viên vừa nói:
— Ăn kẹo chớ không được uống nước trà. Mày mà uống nước trà, lớn ghiền như tao thì mày khổ. Đừng có ghiền cái gì hết là hơn. Tao nhờ Trời không ghiền trầu ghiền thuốc. Vậy mà không, tránh khỏi ghiền trà. Mày coi, thím Sáu mày đó, ghiền trầu bỏ không nổi, Hễ thiếu trầu là bả ngồi bả ngáp.
Thúy nói:
— Để thím ăn trầu cho vui miệng thím chớ. Cũng như thú tiêu khiển vậy. Ở dưới phố người ta tiêu khiển bằng xi nê và cải lương. Tốn tiền dữ lắm.
Giọng chú lững lơ:
— Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng.
Thím quay lại hỏi:
— Ông nhịn thuốc vậy con trâu của ông mua đâu?
Chú cười hề hề:
— Thì con trâu đây. Tui là con trâu của bà chớ còn con trâu nào nữa?
Chú thím không con nên căn nhà thiệt buồn. Hồi chưa có Thúy tới ở, không biết căn nhà còn buồn tới mức nào. Hai người cứ lùi lũi làm việc, ít ai nói chuyện với ai. Có lẽ vì họ đều ốm yếu mà việc làm cực nhọc, hễ bỏ tay ra thì đã mệt rã rời hết còn cái thú nói chuyện. Hai người như hai cái bóng đen nhỏ lướt âm thầm trong căn nhà tôn thấp nhỏ. Để có chỗ xây lò tráng bánh và đặt cối xay bột, chú phải che thêm một cái chái nhỏ, một cái chái vừa thấp vừa hẹp. Chừng mười giờ sáng thì sức nóng từ mái dội xuống và từ lò tỏa ra, từ cái chảo gang đầy nước sôi, từ cái mặt khuôn, từ cái vung cho dĩ chí cái xoay, cây ghim... chỗ nào như cũng hừng hực toát ra hơi nóng. Chú Sáu như con chà rinh đặt trên vỉ nướng. Thật khó mà mập béo nổi. Con chà rinh hay con cá cơm khi đặt lên vỉ để nướng co rúm lại, đều thu nhỏ người lại. Sống thường xuyên trong một môi trường nóng bức như vậy nên chú Sáu không nghiện thuốc lá là phải. Đã có một lò lửa dữ dội kề đó thì còn đốt chi một đốm lửa nhỏ nữa trên môi?
Bữa cơm ở nhà thím Sáu xứng đáng gọi là một bữa cơm bởi vì nó được sắp đặt tươm tất. Ngót một năm nay Thúy chưa hề được ngồi trước một bữa cơm như vậy. Ở nhà bà Đức Lợi thì bữa cơm gồm những món ăn dư ở nhà trên thải xuống. Những dĩa thức ăn-như vậy thì trông hoặc quá thừa hoặc quá thiếu. Một dĩa đầy những càng và que của con cua thì đúng là thừa. Chừng như một mớ những đồ phụ tùng của bầy cua đi qua bỏ rớt lại. Một đĩa gỏi còn dư bị nhặt gắp hết thịt chỉ còn lại rau và dưa thì thật thiếu thốn thảm thiết. Đại khái thì đĩa nào cũng dư những phần vô ích: vảy cá, xương cá, cổ chân và bàn chân bồ câu, mỏ gà... và thiếu những phần ngon lành. Một bữa cơm như vậy không ra một bữa cơm nữa. Đó là một bãi chiến trường trên đó ngổn ngang những xác, tơi bời những lá. Bữa ăn nơi nhà dì Tám thì là kết quả của một sự gượng gạo, một sự chắp vá. Lúc nào cũng có kèm một phụ đề: Ờ, ăn đỡ đỡ rồi chiều hãy hay... Coi còn cái gì trong chạn không... Kệ nó, bưng chén muối ớt ra ăn tạm cũng được, chớ không hơn hồi nào chạy giặc nhịn đói sao? Những cái dạ dày đói bất chấp phụ đề. Nhưng một đứa bé đã từng sống phong lưu như Thúy bao giờ cũng cảm thấy uể oải khi ngồi nhìn mâm cơm như vậy. Mâm cơm nhà thím Sáu chu đáo hơn. Lúc nào cũng sắp xếp có qui tắc. Có món kho, món rau, món canh. Thỉnh thoảng có món xào, dẫu có hôm chỉ là xào bún bánh tráng. Ngày Rằm, mồng Một chú thím bày một mâm cúng các đẳng nên bữa ăn có thịt heo xắt phay, có gỏi bắp chuối hay dưa leo. Thật là lần đầu tiên từ khi xa nhà Thúy mới được ngồi ngay ngắn trước một mâm cơm sắp khai mạc. Bởi vì bao giờ ăn chú Sáu cũng kêu cả thím, cả Thúy cùng vào ngồi một lượt. Chú có cái triết lý của chú. Bữa ăn là bữa quan trọng. Trời đánh còn tránh bữa ăn. Không biết chú liên hệ bằng cách nào với câu chuyện ông Thiên Lôi chờ đánh thằng bất hiếu đang ăn cơm dở dang mà chú nhất định bắt mọi người cùng ngồi chung mâm rồi mới khởi sự cùng ăn một lượt.
Thím Sáu nói thì tốt mà khi xử sự thì thua chú. Thím nó có tính ham hơn, tham công tiếc việc nữa. Sau nhiều lần lẫn lộn gà gáy một lần với gà gáy hai lần, Thúy đâm ra nghi, có lẽ thím muốn nó dậy cho thật sớm hơn nữa để xay xong sớm thúng gạo gút rồi thím sẽ sai nó chuyện khác. Gần như sai nó không hở tay. Nhiều hôm chú phải can thiệp:
— Sai vừa vừa vậy. Nó còn nhỏ.
— Mười hai tuổi mà còn nhỏ. Ở nhà quê chừng đó tuổi đã xay lúa giã gạo.
— Đó là chuyện đời xưa, hồi bà còn nhỏ. Chứ thời nay ai còn giã gạo xay lúa nữa? Làng nào xóm nào cũng có máy xay.
— Không giã gạo xay lúa thì đi cấy, đi làm cỏ, đi mót, đi chăn bò.
— Hồi trước mẹ nó giàu, nó đâu có biết lam lũ. Kệ nó, nó làm được chuyện gì thì nó làm.
Thím Sáu lên giọng sa sả:
— Thì tui có bắt nó làm cái gì thái quá đâu? Có mấy cối bột chớ bao nhiêu, Miệng ăn thì đầu gối phải bò chớ.
Chú Sáu thường nhịn mỗi khi thím to tiếng. Thúy mừng thấy chú biết điều như vậy. Nếu hai vợ chồng cãi nhau to, đi đến đánh nhau nằm vạ la làng thì chắc chắn kẻ khổ nhất sẽ là nó.
Sự xay bột cho nó một kinh nghiệm về mọi công việc ở đời. Kéo cái giằng xay chỉ nặng có vòng đầu, rồi sau đó thì nó cứ theo cái trớn mà vận chuyển. Thật nhẹ nhàng. Nhưng đứng đẩy chừng mười phút thì mỏi chân, hai mươi phút thì rã gối, một giờ thì bải hoải tứ chi. Nó tự nhủ: «May là từ xưa tới giờ mình chưa rầy oan chị ở».
Nhà thím Sáu có nuôi ba con heo để lợi dụng nước vo gạo và nước rửa cối bột. Mỗi lần mang chậu cám ra cho ăn, chúng nó xây chung quanh Thúy và ngoắt lia lịa những cái đuôi. Thúy đặt cho mỗi con một tên. Con Bạch có bộ lông trắng hếu. Con Vá có một mảng lông đen trên lưng và một cái đuôi uốn cong như lò xo. Con «Tham ăn» lúc nào cũng tranh giành thò mõm vô chậu cám đầu tiên. Con nào giành với nó thì nó quay lại cắn liền. Hầu như ba con heo là bạn chơi của Thúy. Khi nào mang cám ra cho ăn, Thúy cũng hay đứng nói chuyên với chúng nó.
— Ê! Tham ăn, mày đứng xích ra để chỗ cho bạn mày ăn với chớ.
— Ũn ĩn! ũn ĩn! Chắc nó muốn nói: khoan đã! Khoan đã!
— Bạch! Nằm xuống. Chị gãi cho.
— Ụt! Ụt! Chị gãi dùm chỗ này. Chỗ này chớ.
— Vá ơi! Thôi đừng ũi nữa. Chị đánh đó.
— Ụt éc! Ục éc! Để cho em nghịch chơi một chút mà. Đừng đánh em tội nghiệp.
Thím Sáu dự tính tương lai với ba con heo đó. Tháng Chạp kêu chú Xìn tới bắt. Theo giá thịt bữa nay thì cầm mạt cũng một trăm hai chục ngàn đồng. Lấy tiền để sửa lại cái nhà.
Chú Sáu:
— Con Thúy chịu khó cho heo ăn. Tháng Chạp bán heo, thím mày may cho một cặp bi-sơ-ma.
Thúy cười:
— Py-ja-ma chớ chú.
Chú cười theo:
— Ờ, bi-ja-ma.
Thím nói:
— Còn bày may đồ Tây đồ Đầm nữa. Ở đây bận ai coi? May bà ba bận được rồi.
Chú:
— Nó trẻ nhỏ, may áo đầm cho nó mừng.
Thím lớn tiếng:
— May rồi bận với ai? Bận đi đâu?
— Thì mình cứ may cho nó, còn nó bận đi đâu, kệ nó chớ.
— Cứ nối dáo cho giặc. Cứ bày nối dáo cho giặc.
Thúy không còn ngạc nhiên về lối đàn áp của thím. Chỉ buồn cười cho hai người. Chắc chưa rõ py-ja-ma là cái kiểu áo ra làm sao mà đã lật đật cãi nhau rồi.
Một hôm, nhằm lúc Thím đi chợ còn chú đi lại trụ sở Thôn để đổi tờ khai gia đình thì ở nhà con Tham ăn cắn giành ăn với con Bạch. Bạch bị cắn đau quá hồng hộc chạy, ũi trốc luôn hai cây rào chuồng rồi chạy vọt ra ngoài. Thúy sợ con Tham ăn và con Vá sẵn lỗ trống chạy ra luôn nên lật đật lấy đá đóng chắc cây rào chuồng lại chỗ cũ. Khi chạy ra tìm con Bạch thì nó đã đi ra khỏi sân, tung tơn đi ra cổng, đi lọt ra ngoài đường. Thúy chạy theo kêu lên:
— Ụt ụt! Bạch ơi! Ụt ụt.
Con Bạch trả lời «Ụt ụt» nhưng cứ con đường trước mặt lầm lũi đi. Thúy chạy theo thì nó cũng chạy. Lũ nhỏ đứng chơi đó thấy con heo đi ngoài đường liền vỗ tay reo mừng vừa chay đến xem. Con Bạch sợ, lại vụt hồng hộc chạy. Thúy kêu lên:
— Bà con đuổi dùm con heo lại. Nhờ bà con đuổi dùm con heo lại. Tụi bây! Chạy đi chơi chỗ khác. Đi theo làm heo tao sợ.
Một người đàn bà đi ngược chiều vung tay hùi hùi làm con heo dừng lại. Người đó đuổi tiếp, nó quay đầu. Thấy có kết quả, người đó chạy tới mấy bước và con heo đâm đầu chạy. Lũ nhỏ cười ré lên, vỗ tay reo to:
— Chạy về rồi! Chạy về rồi!
Tiếng vỗ tay, tiếng reo làm con heo phát sợ, không chạy thẳng đường mà chun tuột vô hàng rào nhà người ta, chạy lọt vào vườn. Bốn con chó ở trong sân ùa ra, bao vây con heo, gầm gừ nhe những hàm răng trắng và nhọn. Con heo quay tới quay lui thủ thế. Tình thế thật khó khăn. Đuổi một con heo chưa xong, nay thêm bốn con chó mà mình sợ, rồi còn một nổi bỏ nhà không ai coi. Lũ nhỏ thì cứ reo hò, đợi một cuộc xáp chiến giữa heo và chó. Nhìn quanh quất không thấy có người lớn nào để năn nỉ nhờ. Giữa lúc hầu như tuyệt vọng đó, chợt có tiếng của thằng Dẹo:
— Ưá ngào gượt con eo của Ý hẽ?
— Không có đứa nào rượt hết. Nó sẩy chuồng.
— Ổng dám dô uổi dià hẽ?
— Sợ chó quá, không dám vô đuổi.
— E ui dô uổi dùm.
— Ờ, mày vô đuổi dùm ra. Tao cảm ơn lắm.
Thằng Dẹo vừa nói ngọng vừa dẹo chân. Cha nó mê vợ nhỏ bỏ mẹ nó và hai anh em nó. Nó phải tới ở nhờ ông Bác nó. Ông Bác cho đi chăn bò. Những buổi sáng mang dĩa tới mua bánh ướt về cho con ông Bác ăn điểm tâm, nó biết Thúy.
Thằng Dẹo đi từng bước nhọc nhằn đã đi hết vòng rào, vô tới sân. Tay nó cầm một nhánh cây đầy lá. Mấy con chó nhìn nó sủa ông ổng chớ không dám làm dữ. Nó giơ cành lá lùa con heo. Con heo ngoan ngoãn đi theo hướng nó lùa. Đi qua sân. Đi ra ngõ. Ra đường. Đi dọc theo con đường. Đi vô nhà thím Sáu. Thằng Dẹo biết rõ những việc nó phải làm. Đi qua khỏi ngõ, nó quay lại gọi Thúy:
— Y dô mau ể óng cửa ngại.
Thúy lật đật chạy vô và đóng liền cửa lại. Ý -sợ con heo nó lại rượt chạy nữa. Thằng Dẹo biết mở vài cây song chuồng để lỗ trống cho con heo chun vô. Rồi biết đóng kín lại. Nó nói với Thúy:
— Ngấy cám cho ngó ăn, ể ngỏ ói.
Thúy chạy đi lấy cám pha vào chậu nước cơm đem cho con Bạch. Xong công việc thằng Dẹo hỏi:
— Ú au, ím âu?
— Chú thím tao đi khỏi. Chú ra trụ sở, thím đi chợ. Sao bữa nay mày không lùa bò?
— Ùa dìa gồi. Ôi, ui dìa.
— Mày về hả? Ngồi chơi đã chớ.
— Ở gâu ổng ánh.
— Ai biểu mày đi chơi lâu cho ổng đánh? Thôi, mày về đi. Tao cảm ơn mày nghe không? Không có mày thì tao chắc bị đòn nặng. Thế nào con heo cũng bị bốn con chó vây cắn. Tao cảm ơn mày lắm.
Bước chân dẹo của nó đi nghiêng ngả trên sân. Nó quay lại cười:
— Ám ơn gì ồ ó.
Cái lưỡi của nó như cũng dẹo theo cái chân.