← Quay lại trang sách

Chương 9

NHƯNG sự nhọc nhằn gặm dần sức lực của Thúy. Ngày nào cũng thức dậy hồi gà gáy hai lần, xay cho hết thúng gạo vo rồi tiếp theo đó lắc xắc cả ngày những việc quét nhà, xách nước, bưng bánh ra quán, bưng vỉ ra phơi, gỡ bánh, xắc bún, nấu cơm, dọn cơm, rửa chén, cho heo ăn. Không phải nó lãnh làm trọn mọi công việc, — ngoại trừ việc xay bột, rửa chén và cho heo ăn, — mà nó phải mó tay phụ giúp vào mọi việc.

Một hôm nó ngủ dậy với một sự mệt mỏi dã dượi. Nó uể oải đổ gạo vào cối, uể oải kéo giằng xay. Thớt cối đá nghe sao nặng hơn mọi ngày và dù đem hết sức lực để đẩy tới và kéo lui mà chừng như nó chạy rất chậm. Cái trớn nhiều lúc bị đứt ngang, bắt buộc nó phải gia thêm sức để hoặc kéo lui hoặc đẩy tới. Xay được ba nhả thì mồ hôi nó tuôn ra ướt dầm nhơm nhớp nơi cổ, nơi lưng. Hơi thở gấp và nhịp tim đập cũng gấp. Có lúc nó chợt cảm thấy một luồng lạnh chạy nhanh theo cột xương sống chạy tỏa ra hai vai. Sức nặng của người nó đè lên tay nắm của cái giằng xay, càng lúc càng đè nặng hơn… Trí óc hoang mang không còn nhận thức sáng suốt đâu là cái đèn dầu hiu hắt, đâu là cái lò tráng bánh. Mọi vật chập chờn trước mắt, quay cuồng xung quanh và tới một lằn mức vô hình nào đó thì nó mất hết cảm giác. Người nó như chợt nhẹ hẩng đi. Nó nghe mơ hồ một tiếng «rầm». Và sau đó nó không còn biết gì nữa.

Khi mở mắt raj nó ngạc nhiên sao thấy mình nằm trong giường. Mũi cay và nóng và thơm mùi dầu Nhị thiên đường. Trán, màng tang cũng vậy. Cạnh nó, thím Sáu đưa những ngón tay chà xát vào màng tang. Chú Sáu đứng ở chân giường tay cầm một ve dầu khác màu nước xanh. Chắc là dầu khuynh diệp.

Thấy nó mở mắt, thím hỏi ngay:

— Sao? Con thấy trong mình ra sao?

Biết ra sao mà nói? Chỉ thấy mệt.

— Dạ con mệt.

Chú Sáu hỏi:

— Con có thấy đói bụng không?

— Dạ không.

— Sao con bị té vậy?

— Con không biết.

Thím Sáu nói:

— Chú thím nghe một cái «rầm» lật đật chạy xuống thì thấy cháu nằm dài. Sợ hết hồn. Hồi nhỏ có bị mắc kinh phong không?

— Kinh phong là cái gì con không biết.

— Kinh phong là trợn trắng con mắt, xụi lơ tay chân, sùi bọt miệng bọt mép.

— Dạ không có. Hồi giờ con không có vậy.

— Thím hết hồn. Phải ẵm cháu lên đây. Bôi gần hết nửa ve dầu Nhị thiên đường cháu mới tỉnh.

Cơn bệnh tưởng đâu qua loa, thím đưa một viên thuốc dán nhện cho Thúy:

— Nuốt vô rồi uống theo miếng nước. Trùm mền cho ra mồ hôi rồi chiều hết.

— Thím bỏ viên thuốc vô trong nước.

— Cho nó bấy rữa hết sao?

— Không sao đâu. Con biết mà.

Uống thuốc xong, trùm mền, mồ hôi ra như tắm nhưng chiều không hết. Mà trái lại, nó nóng mê man. Trong cơn mê, miệng hay nói lảm nhảm:

— Con heo lớn nhứt đó. Ờ. Mặt mỡ ít gì cũng dầy bằng lóng tạy. Thịt ngon chớ. Đâu có nuôi bằng hèm rượu hay bã dừa? Con heo lớn mà.

Thím Sáu nhìn chú Sáu, vẻ mặt hơ hãi lo lắng.

— Con nhỏ này bị...

Thím không dám nói hết câu. Chú cũng nghi như thím nên chú càng lo sợ hơn. Mê man nói xàm thì ai cũng sợ. Nói xàm mà nhắc tới heo thì chắc là có ma khuấy ma bắt. Ma đói ma khát hay bắt người bệnh để đòi cúng heo.

Thím đưa tay lay Thúy. Nó mở mắt.

— Con nói cái gì vậy?

Nó lắc đầu.

—Con có nói gì đâu?

— Con nằm thấy cái gì mà con cứ nói chuyện con heo hoài vậy?

Thúy ngơ ngác:

— Con có thấy cái gì đâu?

Rồi nó mỏi mệt nhắm mắt lại. Chú Sáu không còn đủ yên tâm để tin cậy vào thuốc dán nhện. Chú chạy ra tiệm Quảng tế Hòa mua một chai Tiêu ban lộ.

Phải ba chai Tiêu ban lộ như vậy mới bớt cơn sốt. Mỗi lần tỉnh dậy nằm nghe cơ thể mỏi rã rời, nghe lưỡi đắng và cái đầu nặng như búa bổ là Thúy nghĩ đến cái Chết. Trời ơi! Sợ chết quá. Chú Sáu đứng lên ngồi xuống nhẹ nhàng như vậy, thím Sáu đi vô đi ra thong thả như vậy mà sao mình thì chân tay cơ hồ như bị tháo rời ra từng đoạn. Hơi thở nhọc mệt. Mình không chạy mà sao cứ mệt đuối hơi. Chắc chết quá. Mình không muốn chết ở đây. Giá ở nhà quê mà có phải chết thì mình sẽ được chôn cạnh mộ của ông Nội bà Nội, ông Cố bà Cố, cô Hai, bác Ba. Ít sợ hơn là phải nằm ở một bãi hoang lạnh lẽo nơi xa lạ này. Mình sợ lắm. Má ơi! Con chết đây nè! Chắc con chết theo má...

Nước mắt Thúy ràn rụa chảy dài, chảy ướt đẩm mu bàn tay.

Nhưng rồi cơn sốt lui dần và hôm nay Thúy có thể lững chững đứng dậy được. Da mặt nó xanh lét. Nhìn vào gương chỉ còn thấy hai con mắt trao tráo. Đi chừng năm bước thì chân run. Tay cũng dễ run. Phải nằm cả ngày nhìn ra khung cửa. Nắng chói sáng làm nhức con mắt. Những tiếng động nghe xa vắng heo hút, tiếng cái gáo va vào thành chum, tiếng cái vá múc sóng sánh vào chậu bột, tiếng một chiếc xe, rồ máy ở nơi xa, tiếng dép lê xềnh xệch trên mặt đất. Thúy nhìn lên mái nhà. Mái tôn có đường rãnh chạy song song, Thúy cho con mắt chạy dọc theo những đường rãnh, chạy mút ra đến giọt tranh rồi lại đưa mắt trở về nóc nhà cho chạy lại. Trò chơi đó làm cho nó quên đi một lát sự mỏi mệt uể oải nơi lưng, nơi ngực, nơi cổ nó.

Khi bữa ăn dọn ra, nó ngồi nhìn chú Sáu thím Sáu ăn mà thấy thèm quá. Chú chăm chăm nhìn vào mâm cơm, huơ đôi đũa xốc vào dĩa xào. Bàn tay rút về đưa đũa lên miệng, nơi đầu đũa có đầy những cọng giá, cọng bắp sú, cọng hành. Bắp sú xào thì thiệt là ngọt. Thúy tưởng như vị ngọt của bắp sú xào đang thấm trên lưỡi. Chú nhai bún xào nhòm nhoàm một cách ngon lành. Khi bún xào gần tiêu diệt hết thì chú đã huơ đũa sang dĩa rau. Trời ơi, tiếng rau muống dòn rào rạo dưới răng nghe sao mà dễ mê vậy? Bấy lâu nay mình dẫu không khinh miệt rau muống nhưng quả tình mình cũng không khoái nó lắm. Coi như cần có nó để nuốt cho trôi miếng cơm vậy thôi. Hôm nay cố nhìn chú Sáu ăn rau muống mới chợt thấy rau muống là ngon và Thúy tha thiết muốn lại xin vài cọng xanh xanh đó. Giá ở nhà thì Thúy sẽ nói ngay:

— Má ơi, cho con ăn rau muống với.

Thế nào má cũng quay lại dịu dàng nhìn Thúy và dịu dàng nói:

— Ăn chi rau muống, con? Để bữa nào thiệt mạnh đã.

— Nhưng mà con thèm quá. Má cho con một cọng, chỉ một cọng thôi.

— Rau muống đâu có bổ, con? Má đã hầm xương xúp cho con ăn, xương xúp bổ và ngon hơn. Bát xương xúp để phần cho con đó. Đợi một lát cho bớt nóng rồi con ăn.

Em Tựu nghe nói xương xúp ngon và bổ thế nào cũng đòi:

— Má cho Tựu ăn xúp.

— Không được. Để phần cho chị. Chị bệnh.

— Bệnh là sao má?

— Bệnh là...

Ừ, làm sao mà giảng hè? Bệnh là... là sao? Là đau nhức trong mình, là rên la, là mệt. Cũng chưa đủ. Còn nhiều thứ nữa, nhưng... mệt, ai bắt mình giảng. Thôi, nghĩ tiếp vui hơn. Thằng Tựu hỏi vẩn vơ một lát rồi chợt quay trở lại xúp và nài má đòi ăn. Thấy em nài, Thúy nói:

— Má sớt cho em đi má.

Má nói:

— Bữa nay má nấu có ít. Ra chợ trễ, chỉ còn mớ xương đó. Để mai má mua nhiều nấu nhiều cho cả nhà ăn luôn.

— Kệ nó, má sớt ít ít cho em.

Em Tựu vừa đưa chén vừa nói theo:

— Ờ, kệ nó. Má sớt ít ít cho em.

Tiếng «em» làm cả nhà cười rộ lên. Má cầm muỗng múc nước xúp đổ vào bát cho Tựu. Tựu hút chụt chụt và khen:

— Ngon. Xúp ngon.

Tựu lại đưa bát lần nữa:

— Má múc thêm.

— Không được. Để dành phần cho chị. Chị bệnh. Chị bệnh nên chị không đi học được thấy không? Anh Tuấn phải hái cam cắt ra cho chị ăn, thấy không? Ba phải chích thuốc cho chị, thấy không? Má phải nấu cháo hành cho chị ăn, phải pha sữa cho chị uống, thấy không? Con không làm gì cho chị hết.

— Hồi nãy con lượm cái gối cho chị.

— À, như vậy tốt. Con phải thương chị thương anh, thương ba má.

Tựu gật đầu:

— Rồi má cho ăn xúp.

Cứ bằng những mẩu chắp vá như vậy, trí tưởng tượng của Thúy tạo ra những hình ảnh, dựng lên những câu đối thoại, và cái khung cảnh êm đềm giữa một gia đình sum họp cuốn hút trọn cả tâm hồn Thúy. Nó sống miên man ở trong cái không khí dịu ngọt đó, bềnh bồng diễm ảo, xa cách hẳn cái thực tại xung quanh.

Khi thím Sáu rờ lên chén cháo trắng thấy đã hâm hẩm vừa ăn được, thím lại gần giường để gọi Thúy. Thím thấy Thúy nằm nhắm mắt mà nước mắt thì đầy tràn và chảy dài ướt dầm đôi má.

Mùa Đông năm nay mưa nhiều hơn mọi năm. Nước sông Cái đã tràn lên phả bờ mà mưa vẫn cứ như cầm chĩnh mà đổ. Nước tràn lên thêm, lên dần. Những nhà cất tạm bợ che bằng tôn, bằng ván thừng như nhà thím Sáu đều cất ở chỗ đất thấp, lại không đủ sức đổ nền cho cao nên chưa chi mà nước đã xâm xấp mép sân.

Một buổi sáng thím Sáu ngủ dậy đi ra sau, chợt nghe tiếng thím la to:

— Trời ơi! Con heo... Sao con heo...

Thúy bỏ giằng xay, chú Sáu bỏ vá bột lật đật chạy ra.

— Sao? Con heo sao?

— Sao nó... vầy nè?

Trên những thân cây xếp làm sạp, con Vá nằm nghiêng, bày cái bụng trắng hếu. Bốn chân duỗi ngay đơ. Chú Sáu nhảy vào chuồng. Tay chú đè lên bụng heo. Chú nói hắt ra như một hơi thở:

— Chết rồi.

— Chết rồi! — Thím Sáu lặp lại rồi hu hu khóc. Thím khóc ngon lành, vừa khóc vừa kể:

— Công tui nuôi dưỡng, thức khuya dậy sớm, tưởng nuôi tới Tết bán kiếm tiền sửa lại cái nhà. Ai dè còn có hai tháng nữa tới Tết mà nó lăn ra nó chết kiểu này. Trời ơi, trời hại tui. Tui đâu có ăn ở độc địa với ai mà Trời hại tui.

Khóc lóc chừng được ba phút thì tiếng của thím trở lại ráo hoảnh.

— Sao nó chết vậy, mình lật bụng ra coi thử.

— Chắc sình bụng chớ gì.

— Đâu phải? Cái bụng ngó lép xẹp vậy mà sình cái gì?

— Vậy mà sình đó. Với lại độ rày heo bị dịch hoài.

Cái kiểu nói nước đôi như vây chính là nói ẩu. Thím Sáu cố nhiên là không tin nên thím nói to lên:

— Dịch gì mới có hồi khuya tới giờ mà đã chết? Có dịch thì nó cũng phải bỏ ăn bỏ uống cả đôi ba ngày. Mà dịch làm sao? Mới hồi khuya tôi đi tiểu còn thấy ba con đứng dậy đòi ăn. Ngủ một giấc mở con mắt ra đã thấy nằm thẳng cẳng.

— Thì có nhiều thứ dịch, có thứ chậm thứ mau.

— Ai nói với ông vậy? Làm như Bác sĩ Heo. Thôi đúng rồi...

Thím không nói hết câu, vội nhảy vào chuồng. Con Bạch, con Tham ăn giật mình sợ quá nhảy lồng lên. Thím lại ngồi bên tử thi con Vá. Thím xem xét thật kỹ trên da bụng của nó. Thím mò lần lên ngực. Chú láng quáng ngồi choán chỗ, thím cứ hùng hục lết tới. Rồi thím ra lệnh:

— Lật nó qua bên kia coi thử.

— Chi vậy?

— Thì cứ lật đi mà.

— Nó nặng trịch...

Thím đứng dậy, giơ hai tay nắm hai cẳng sau lật qua. Còn lại hai cẳng trước đó, chú riu ríu cầm lên để lật theo. Phải nhịn nó một chút. Con heo chết, nó buồn, nó giận lây mọi người. Láng quáng mà có con chó con mèo đứng gần đây thì cũng chết đòn với nó.

Con heo được lật nằm qua phía kia. Bốn cái chân cùng chắp ngay đơ như đang dự một cuộc tế lễ long trọng. Thím Sáu lại ngồi sà xuống quan sát. Cũng lại cái bụng. Cũng lại cái cổ. Tới đây thì thím có vẻ lúng túng. Miệng cứ lẩm nhẩm: «Uở lạ. Lạ quá.» Chú hỏi:

— Có gì lạ đâu? Đâu?

Thím dằn giọng:

— Đâu? Đâu? Đâu? Cứ đứng đó mà hỏi.

Chú đành ngậm miệng, chống hai tay xuống đầu gối mà nhìn. Thím hách một cái chân sau lên để kiểm soát chỗ háng. Thím hách một cái chân trước lên để kiểm soát chỗ nách. Chợt thím la lên:

— Đây nè! Rõ ràng đây nè!

Chú im lặng không dám hỏi «Đây nè cái gì? Đây nè chỗ nào?». Thấy chú im lặng, thím bảo:

— Lại đây coi: Có phải không?

Chú nhìn sát lại gần.

— Ờ.

— Rõ ràng là có một chấm đỏ.

— Ờ.

— Bò cạp cắn chỉ thị.

- Ờ.

Thím vạch vạch cái chỗ có chấm đỏ. Chú ngồi xổm xuống nhìn sát kỹ hơn, lấy ngón tay chỉ trỏ rồi:

— Ờ, chỗ cắn đây nè mà!

Thì ra mấy cái «Ờ» lúc nãy là «Ờ» láo. Mãi đến bây giờ chú mới thấy cái vết cắn. Thím nói:

— Bò cạp nó cắn độc tổ mẹ. Cắn đâu là heo chết đó.

— Vậy chớ sao. — chú nói.

— Bây giờ phải lật ván sạp ra kiếm nó mà giết

Chú đứng bật dậy như thím vừa hăm giết chú. Chú nói:

— Làm sao mà tháo bây giờ? Bề bộn lung tung. Phần thì nước cứ lớn thêm.

— Chớ để nó cắn hai con kia.

— Biết có phải... nó hay không.

Thúy cố nhịn lắm mới khỏi bật ra cười. Thật ít ai đuểnh đoảng như chú. Tưởng thím có thế nổi xung mà quát lên nhưng thím vẫn ngồi im lặng. Rồi thím đứng dậy:

-Thôi, lo xử cái con heo chết này đã.

Than ôi, cái tai họa sẽ xảy đến không phải do con bò cạp còn nằm nấp ở dưới sạp chuồng heo mà do con nước cứ mỗi giờ mỗi lớn. Nước ngập lên nửa thềm rồi lên mép thềm. Cái chậu rửa bát để ở vại nước bắt đầu nổi lềnh bềnh trên mặt nước vàng đục. Ở đầu trên xóm dưới, tiếng kêu gọi, nhắn hỏi, ra lệnh nổi lên ồn ào. Người ta lo dọn dẹp đồ đạc. Trâu bò được lùa đi, lúa gạo được gánh chuyển đi. Tiếng lội nước bì bõm. Mưa từng trận đổ xuống ào ào, nước mưa rơi gõ xuống mặt nước nghe thành những tiếng lõng bõng rùng rợn. Người ta có cảm tưởng bị nước bao vây bốn bên. Chưa năm nào vừa mưa lại vừa lụt gấp gáp như vậy.

Và nước đã bò lên trên mặt nền nhà. Thím nói:

— Phải lo lùa hai con heo đi gởi.

— Gởi chuồng ai?

— Chỉ có chuồng của ông Thời ở mé núi là nằm ở chỗ cao.

— Lùa tới đó cũng khó. Bây giờ ngoài đường cái nước lội cũng tới háng.

Thím gắt:

— Gì dữ vậy? Tới ống chân là cùng.

—Bà cứ ra đó lội thử.

— Sợ gì. Tôi lùa đi liền bây giờ. Không cần phải nhờ tới tay ông. Thúy ơi, chạy đi lấy cái nón cho tao.

Thím vén quần lên tận háng, đội nón lên, rồi ra nhổ bốn cây rào chuồng, lùa hai con heo đi thật. Chú ngăn lại:

— Coi chừng đó. Đi không phủng đâu.

— Phủng hay không kệ tôi. Ngồi đó mà tính coi có phủng hay không.

Hai con heo sợ nước, cứ chùn lại không dám bước tới. Thím vội vã không kịp đi tìm con roi nên sẵn cây đòn gánh, cầm tay luôn. Thím huơ đòn gánh đuổi heo, thọc vào đít nó, đập lên mông nó. Chừng đó mới chịu nhảy tới. Người và vật lội loãng xoãng trong nước.

Ở nhà chú Sáu và Thúy lo dọn đồ đạc. Bởi nước lại lên tiếp.

Những vật bỏ nằm dưới đất đều dọn để lên giường lên bàn. Nồi niêu, ấm, guốc, chổi, thau, vò gạo. Rác nổi lêu bêu. Những con gián tỵ nạn trên cột nhà kèo nhà, bò hụt chân bị rớt xuống mặt nước, tha hồ vùng vẫy bơi lội làm gợn nước lăn tăn.

Nước lại lên đến mép giường. Phải cuốn chiếu lại, bỏ mền gối vào giữa đem đặt lên bàn. Vừa lúc đó thì thím bì bõm lội về. Chú lật đật hỏi:

— Lùa đi có phủng không?

— Còn đứng đó mà hỏi. Lo dọn dẹp đồ đạc bỏ vô gánh đi. Lo chạy chớ còn ngồi đó hỏi.

— Nước mới tới mép giường.

— Đợi lên tới khu đĩ rồi mới chạy hả? Ở xóm Rộc người ta chạy hồi mờ sáng.

— Chạy đi đâu?

— Cứ nhắm mấy nhà ở mé núi. Cứ gồng gánh ùn lên đó, quen lạ mặc kệ, giàu nghèo bất kể, cứ xin vô trú đỡ đã.

Chú ngó quanh ngó quất:

— Biết đem cái gì bỏ cái gì đây nữa? Thúy ơi, con thu xếp quần áo đi. Còn bà, lo sắp dọn thúng gióng ra. Tôi trút mấy vò gạo để vô khăn gói.

Thúy thu dọn quần áo của nó và quần áo của chú thím gói lại làm hai bọc. Sau đó là nón mũ và guốc dép. Rồi tới những dụng cụ trong bếp như dao rựa, chén bát. Thúy ước ao mình có đủ sức lực để gánh giúp cho chú thím. Chú một gánh thím một gánh mà gánh nào cũng nặng trịch. Gánh của chú có chất cái chảo gang lớn để tráng bánh, cái nồi hai, cái nồi một và gạo nên sức nặng làm chú cong hẳn lưng lại. Gánh thím nhẹ hơn.

Khi rời căn nhà ra đi thì nước đã phả mặt giường. Thím gánh gánh nhẹ đi trước để dẫn đường. Thúy gùi hai khăn gói trên hai vai đi kề theo. Chú lạch ạch lụi đụi dò dẫm từng bước đi sau.

Nước vàng đục trải lênh láng khắp nơi trông thật dễ sợ. Nước chảy len qua những khe hở cửa rào, của bụi cây, nước mang những đám bọt lớn màu vàng, những cành cây, chà khô. Trông chú lò dò từng bước thật tội nghiệp. Chẳng biết chỗ chân sắp bước tới là đất liền hay lỗ hũng. Nhiều lần chú loạng choạng tưởng cả gánh cả chú đều ngã ùm xuống nước. Sự mệt nhọc làm thím hết rủa sả, hết rầy la. May mà cơn mưa đã tạnh.

Hì hục leo lên cho đến sân chùa Phước Sơn thì thật thiên nan vạn nan. Bởi phải leo lên những cái dốc đá. Bà con tụ hội ở đó thật đông. Có cả thằng Dẹo đứng chõi một chân rưỡi nhìn ra.

Vừa thoáng thấy thím Sáu gồng gánh đi trước, nhiều tiếng nói cùng cất lên, lật đật truyền tin tức cho nhau:

— Vợ chồng lão bánh ướt cũng lên kia.

— A, vợ chồng chị Sáu bánh ướt!

— Chỗ thằng cha bánh ướt mà cũng thấp vậy hử?

— Ờ, để rồi biểu nó đem bày lò bày khuôn ra tráng bánh. Mưa lụt ở không cũng buồn, kiếm cái gì ăn bậy bạ chơi.

Khi chú Sáu đặt được đôi gánh nặng xuống sân thì cơ hồ chú muốn ngã xỉu luôn. Nhưng chú không được ngã. Chú phải lo trả lời những câu hỏi.

— Uở anh Sáu, chỗ anh cũng ngập rồi, na?

— Ngập lút trọi.

— Rồi còn heo qué của mày đâu?

— Dạ thưa hờ hờ Cả, lùa hờ hờ gởi.

— Có đem khuôn tráng đồ nghề theo không anh Sáu? Đem bày ra tráng bánh ăn chơi.

Chú Sáu lặng im không trả lời. Mệt quá, phải tiết kiệm hơi thở. Công đâu nói bá láp với tụi thanh niên. Có một tiếng trong đám đông nói vớt dùm cho chú:

— Trời mưa lụt chạy rầu thúi ruột còn bày ăn uống. Có khuôn có lò mà lấy bột đâu để tráng?

Một giọng khác:

— Rồi củi lửa đâu? Mà ai còn bụng dạ đâu để ngồi tráng?

— Cứ cầu cho có đủ ăn. Ăn tiện tặn chớ cái kiểu này thì nước còn lên nữa. Mưa nổi bong bóng là điềm chưa tạnh nổi đâu.

Một người đàn bà lại vỗ vai thím Sáu:

— Sao hôm kia hẹn mà không lại?

Thím quay nhìn rồi mĩm cười:

— Mắc quá.

— Làm tôi đợi.

— Xin lỗi chị.

— Để bữa nào hết lụt, nghen?

— Ờ.

Không biết hai người hẹn hò cái gì, chỉ biết rõ ràng là thím Sáu đã mệt lắm. Nếu không thì không đời nào thím chịu trả lời tiếng một như vậy đâu. Thím thì phải nói cả tràng dài.

Một tiếng vói lên hỏi từng đằng xa:

— Chị Sáu ơi, đi qua nhà có thấy nhà tôi đóng cửa kín không?

— Cũng quên ngó.

Thím im lặng suy nghĩ rồi chợt hỏi chú:

— Hồi nãy ra sau, có nhớ đóng cửa kỹ không?

— Đóng chi? Ăn trộm ăn đạo gì mà đóng? Nhà chỉ còn cái giường, cái bàn gỗ tạp đó, ai thèm lấy làm gì.

— Sợ nước chớ ai sợ ăn trộm?

— Sợ nước vô hả?

— Nó vô tuồng luông nó bứng cái nhà đi.

— Để nó vô tuồng luông không hơn đóng kín cửa lại à? Đóng kín cửa lại thì nó đập, mau xiêu vách hơn.

— Không phải. Không phải.

Một ông đứng tuổi đứng gần đó chậm rãi nói:

— Phải đóng cửa lại chớ. Chận bớt con nước được chừng nào hay chừng đó chớ.

Thím Sáu to tiếng:

— Đó, bà con nghĩ coi. Vậy mà cũng cứ cãi tui đó. Để nước nó chảy tuồng luông trong nhà thì đố khỏi vách không ngã sập xuống hết. Rồi đố khỏi nước không mang cột mang kèo đi hết. Chồng con vậy đó. Trời ơi!