← Quay lại trang sách

Chương 10

ĐÚNG như lời dự đoán của thím Sáu, căn nhà sập tanh banh. Nước lôi đi hết cột kèo, lôi luôn đi mất cả mái tôn. Lôi luôn cả giường cả bàn, cả chuồng heo nữa. Nước làm sập lò. Hôm nước giựt trở về thì cảnh cũ hoang tàn. Chỉ cái cối xay bột bằng đá nặng quá là còn chịu trung thành nằm lại đợi chú về.

Phần heo chết, phần nhà cửa tiêu tán, phần làm ăn độ sau này ế ẩm, chú bàn với thím về Hòn Khói, quê thím nghỉ tạm một thời gian rồi hãy tính sau. Nghe ngoài đó lóng rày tình hình có phần lắng dịu trở lại. Chỉ có một thắc mắc nhỏ là giải quyết trường hợp của Thúy bằng cách nào. Thật ra thì cũng chẳng đáng gọi là thắc mắc. Cứ gởi trả nó về cho dì Tám của nó.

Và thế là trên một chiếc xe Lam ba bánh Thúy lại ôm bọc quần áo cũ, — bây giờ chúng nó càng thêm cũ hơn nữa, — trở về nơi nó mới ngày nào hồi hộp ra đi. Và rồi cũng như lần trước, sau dăm ngày thì nó lại ôm bọc quần áo cũ, bọc quần áo định mệnh, gia tài duy nhất theo nó không rời, — để ra đi nữa, lần nầy thì lên xe hàng để theo một người khác, đi tới một nơi khác xa hơn. Người dẫn nó đi lần nầy là một người đàn ông. Bởi già tuổi hơn dì Tám nên nó được dạy kêu bằng Bác. Dì Tám nói:

— Con theo Bác Tư vô Phan rang đi. Bà con ngoài mình tản cư vô trong đó làm ăn đông lắm. Ở trong đó cũng vui như ngoài này.

Có thật ở ngoài này vui không? Ai vui? Chắc chắn không phải là nó. Cũng không phải là con Dậu và thằng Chút. Cũng không phải là dì nưa. Nhưng mà, lưỡng lự cân nhắc làm chi? Cứ thay một chữ «Vui» bằng chữ «Khổ» là câu nói của dì vẫn đúng.

Bác Tư có khố người vạm vỡ. Giọng bác oang oang:

— Vô ở trong tao thì khỏi thức khuya dậy sớm. Khỏi xay bột. Vô ẵm em cho vợ tao đi chơ. Sao? Có chịu không?

Không dám nói chịu và cố nhiên cũng không dám nói không. Thì cứ dắt đi quách còn hỏi chịu hay không chịu. Biết vô trong đó sung sướng tới mức nào, cực khổ tới mức nào mà dám nói chịu?

Giọng bác Tư lại oang oang:

— Tánh tao mau mắn nhặm lẹ, miệng bằng tay, tay bằng miệng, chứ không chịu lờ rờ chậm chạp.

Biết rồi! ít người tự nhân là họ chậm chạp. Ai cũng lanh lẹ hết.

— Tánh tao ăn ngay nói thẳng, ăn một cục nói một hòn, mất lòng trước được lòng sau chớ không biết chánh trị.

Thúy không muốn đề ý nghe nữa. Người lớn hay nói về mình, chi thấy toàn những ưu điểm của mình nên nhiều lúc họ ca tụng mình không hết lời. Thúy đã sẵn sàng cái bọc quần áo rồi. Muốn đi đâu thì đi. Đã có dì Tám cân nhắc và quyết định. Nó chỉ còn biết tin ở dì Tám. Mọi cái miệng lạ đều không đáng tin. Người ta nói láo khắp bốn phía. Chỉ trong mấy cuốn sách Luân lý Đức dục ở trường họa may mới có những người nói thiệt.

Chuyến xe hàng không làm cho nó chú ý nữa. Thì cũng những người lạ mặt ngồi trước mặt, ngồi bên cạnh. Lần trước đi xe Lam ba bánh theo thím Sáu thì cũng vậy, cũng những người lạ mặt ngồi trước mặt, ngồi bên cạnh. Phải dùng tới xe đò thì đủ biết con đường xa. Nó không buồn hỏi mấy trăm cây số. Chỉ có dì Tám tự động nói cho nó biết rằng: đường dài đâu một trăm cây. Cũng gần mà. Gần hay xa, năm chục hay một trăm cây số đối với nó không thành vấn đề. Năm trăm cây số, chín trăm cây số, may ra mới có sự khác biệt. Điều nó lo lắng là không biết nó sẽ sống như thế nào giữa những người như thế nào. Chú Sáu thím Sáu dù sao cũng là người dễ thương. Chú hiền lành và thím tuy có dữ hơn chú nhưng chưa phải là người đanh ác. Cuộc sống cực nhọc về thể xác, — Thúy rùng mình nhớ lại cái giằng xay trên đó nó đã tựa cả sức nặng của cái cơ thể rã rời của nó, — nhưng nó có phần thoải mái vì tinh thần. Chú Sáu sẵn sàng nuôi nó làm con nếu nó muốn. Thím cùng không mong có một đứa con xinh xắn và ngoan hơn nó. Tuổi quá ba mươi bảy, lấy chồng mười chín năm rồi mà chưa có con thì coi như không luôn.

Bày giờ thì nó có những ngày xa lạ trước mặt.

Xe nhồi lên nhồi xuống trên những con đường đầy lỗ hủng. Đi quá Suối Dầu, xa lộ bắt đầu, xa lộ trải dài láng và đen trước mặt. Xa lộ phẳng trên đó những xe gắn máy Nhật Bản phóng hết tốc lực. Những chiếc ô tô đi ngược chiều đánh «vèo» một cái khi qua mặt.

Gió ở mạn biển thổi lên mát rượi làm nó khuây khỏa quên nghĩ đến những ý nghĩ buồn phiền. Nó lén đưa mắt nhìn lên khuôn mặt bác Tư ngồi cạnh nó. Mắt nó bắt gặp cói hàm bạnh ra với nhiều sợi râu cứng tua tủa. Giữa những sợi râu đen có lác đác vài sợi râu trắng óng ánh. Chân nó bị gài ép giữa những bắp đùi chắc nịch của bácTư và của một người đàn ông cũng vạm vỡ ngồi cạnh khiến nó không xoay trở được. Đến một lúc nào đó thì chân nó tê cứng không còn biết cảm giác gì nữa. Không còn biết cái chân nằm ở chỗ nào.

Mỹ ca… Cây số Mười chín... Cây số Chín... Ba ngòi. Những địa danh lần lượt bị đẩy lui lại đằng sau. Cầu Bão... Phan rang... miền đất lạ mà nó sẽ đặt chân đến.

Khi bước xuống xe, Thúy lật đật vừa đi vừa chạy mới theo kịp bước chân của bác Tư. Bác đẫm thấp người, bước chân không dài nhưng mà bác bước lia lịa. Thúy không còn dại khờ nữa để mong rằng bác dừng lại ở mấy ngôi nhà đẹp đẽ sạch sẽ kia. Cũng không phải ở mấy căn phố tầm thường này. Mà phải là một căn nhà lợp lá dừa tồi tàn như căn nhà bác đang bước vào. Thúy rón rén bước kề theo.

Những thân người ngồi chổm dậy, những cặp mắt chong vào nhìn nó làm nó khiếp đảm. Sao mà lắm thân người và lắm con mắt thế này? Thúy luống cuống không biết có chỗ nào còn trống để bước lại phía đó, để nhìn về phía đó. Thật dễ sợ là những con mắt.

Một tiếng đàn bà nhão nhẹt cất lên:

— Sao bây giờ mới dìa tới nhà?

Thúy nhìn về phía tiếng nói: một người đàn bà có cái mũi huếch lên để lộ hai lỗ mũi trống hoác. Con mắt nheo nheo hướng nhìn về nó.

— Mắc ghé lại nhà thằng Tám Dòn.

— Rồi nó có chịu trả mấy ngàn đồng bạc thiếu không?

— Lấy gì trả? Có tiền cho nó mượn thêm thì có.

— Mồ tổ cha thằng Tám Dòn. Đào mồ cuốc mả nó lên. Hồi mượn thì hẹn nửa tháng, tới bữa nay là mấy chục lần cái nửa tháng rồi? Còn nho nhỏ nào đó?

— Có con nhỏ này, con vợ thằng Tám Dòn biểu dẫn đem về nuôi.

A, mãi đến bây giờ Thúy mói biết dì Tám dượng Tám tên thiệt là Tám Dòn. Hồi giờ chỉ nghe kêu thứ Tám chớ nào biết tên thiệt là gì. Người đàn bà:

— Con nó, nó cho đi ở trừ nợ phải không?

— Không phải. Con nhỏ này chạy giặc vô ở nhờ nhà nó. Tui thấy ở nhà nó không làm chuyện chi nên đem con nhỏ về ẵm em cho bà đi chợ.

— Khéo bày! Khéo bày! Chớ còn con Lượm ở không làm gì?

— Để hết nghỉ nắng cho nó đi học lớp Mẫu giáo. Mười tuổi trên đầu còn ẵm em đi chơi dồng dỗng.

Đến chiều thì Thúy biết tên cái đám đông bao quanh nó đó. Tất cả đều là con của bác Tư. Người con trai đầu tên là Giàu, mười bảy tuổi, tóc lè phè trước trán, áo ca rô quần túm, ngồi trong nhà mà mang gương đen. Miệng luôn luôn phì phèo Salem. Người con trai thứ hai, mười lăm tuổi tên Tiền, cũng áo ca rô quần cao bồi và cũng phì phèo thuốc lá. Người con trai thứ ba, mười hai tuổi tên Của, mặc quần đùi may ô và cũng phì phèo thuốc lá. Đứa con gái lên mười tuổi tên là Lượm thì mũi cũng huếch lên như người mẹ. Đứa con gái út lên bảy tháng thì chưa được đặt tên. Cả nhà cứ kêu bằng ‘‘em bé’’.

Công việc của Thúy là ẵm em bé. Em bé có một cái mặt không được dễ thương lắm. Áo xống lại hôi hám, mũi dãi lòng thòng và con mắt chảy ghèn cả ngày. Nó ngang chướng không chịu để Thúy ẵm mà cứ khóc ằng ặc đòi mẹ đòi chị nên mới một ngày đầu mà Thúy đã bị rủa sả liên hồi.

— Mày không biết ẵm em hả? Nhào tới, xốc nó lên chớ sao cứ đứng khựng giơ tay nhử nhử như bắt chuồn chuồn vậy?

— Con ẵm mà em nó cứ gỡ tay ra nó bò về phía Bác.

— Thì phải dỗ nó chớ. Cái miệng của mày để đâu? Phải dỗ, phải hát, phải nựng, phải ùi ùi chỉ nhìn lên ông Trăng, ông Sao cho em nó khuây lảng chớ.

Một lát sau.

— Uở! Mày véo nó hay sao mà em nó khóc ngất đi vậy? Coi chừng đó, tao coi lại mà có dấu ngắt dấu véo thì mày bể mặt với tao.

— Dạ đâu có. Con đâu có ngắt véo? Em nó thấy Bác, em nó cứ đòi. Con ùi ùi nhìn lên ông Trăng mà em cứ ngã ngửa ra khóc.

— Không biết. Hễ dỗ nó không nín thì tao đánh đòn mày. Để nó khóc quá nó lòi rún ra. Dỗ có một đứa nhỏ mà mày dỗ cũng không nổi.

Bác Tư trai đạp xích lô, bác Tư gái đổ bánh căn. Do nghề đạp xích lô mà trong xóm người ta hay gọi bác là ‘‘Tư Lô’’. Mờ sáng khi em nhỏ còn ngủ thì Thúy phụ tay với bác Tư gái bưng những lò, những khuôn, những rổ rá chén bát, chai nước mắm, than quạt...vân vân ra bày hàng cho bác. Rồi trở về lo giặt giũ một thau lớn. Khi em bé dậy thì công việc tới tấp thêm một đoạn nữa. Thay những cái tã ướt sũng nước đái, khai thấu mây xanh. Rồi em bé ỉa. Rồi rửa mặt cho em bé. Công việc này không ngờ lại làm khổ Thúy nhiều hơn hết. Trẻ nhỏ đứa nào cũng sợ nước, càng sợ nước hơn nữa là những đứa nhỏ toét mắt. Ghèn dính kín cả mắt, dấp nước lên cho mềm rã đống ghèn thì nó khóc ré quay mặt để tránh. Phải vừa năn nỉ vừa dỗ, thế mà con Lượm thì cử ông ổng cái miệng:

— Mày làm nhẹ nhẹ tay vậy chớ. Móng tay mày mà cào mà cấu cho đã sức như móng beo móng cọp thì lở con mắt người ta.

— Cào cấu làm chi? Mới thấm nước cho nó mềm cái ghèn.

— Có thấm nước cũng thấm rai rải đợi cho nó mềm. Tao rửa mặt cho nó hoài mà nó đâu có khóc dữ vậy?

Chắc là nói láo vậy thôi, — Thúy nghĩ. Rửa con mắt ghèn thì làm sao mà êm ái cho nổi? Trẻ con nào lại thích chuyện đó? Nhưng mà thôi, cãi lại làm gì? Hãy cứ lo cạy, lo dỗ, lo rửa. Xong đâu đó đến việc thay áo. Việc này cũng gây nên tiếng khóc nữa. Trời ơi, sao mà Thúy sợ tiếng khóc vậy? Tiếng khóc lè nhè, ằng ặc, tiếng khóc giả tạo, tiếng khóc làm trận nghe nó dễ ghét quá. Tiếng khóc chơn thiệt của người đau đớn nhức nhối mới làm mủi lòng người ta. Thế mà đứa nhỏ thì khóc cả ngày. Cho ăn sáng cũng khóc, dỗ ngủ cũng khóc, ngủ dậy cũng khóc, rửa đít cho cũng khóc, tắm cho cũng khóc.

Cho em ăn xong thì dọn giường chiếu. Chiếu bữa nào cũng ướt sũng nước đái, lại phải đem đi giặt. Rồi quét nhà. Bữa ăn sáng của ba người con trai ‘‘cao bồi’’ của bác Tư cũng thuộc phần việc do Thúy lo. Thường ngày thì phải cầm dĩa cầm chén chạy ra hàng bánh căn của bác Tư để lấy bánh đem về cho ba người ăn sáng. Nhưng có bữa thì Giàu đưa tiền bắt nó chạy đi mua bún bò, có bữa thì Tiền sai nó đi mua bánh cuốn Bắc. Rồi lại sai chạy đi mua gói thuốc lá. Trong khi họ ăn uống ồn ào Thúy lo dọn giường xếp mền xếp gối. Khi dọn rửa xong chén dĩa của bửa ăn sáng thì vừa lúc chui vào bếp nhúm lửa nấu cơm trưa. Vân vân. Cả ngày túi bụi, chụp cái này bốc cái kia không hở tay. Công việc ào ạt tới như do một bàn tay nào ở trên cao vãi xuống. Và cái nhịp điệu quay cuồng đó kéo dài tới mười hai giờ đêm.

Thúy thỉnh thoảng ngồi mơ màng nhớ đến những ngày ở nhà chú Sáu thím Sáu. Dầu phải oằn vai trên cái giằng xay nhưng mà so với ở đây thì cuộc sống còn êm đềm hơn nhiều. Thúy nhớ đến những ngày ở nhà bà Đức Lợi. Dẫu có bị hắt hủi khinh miệt nhưng mà còn thong thả hơn ở đây nhiều. Nghĩ xa nghĩ gần, nước mắt ứa ra. Chỉ nghĩ tới đó mà thôi, không dám nghĩ xa hơn nữa, nghĩ đến những ngày sống êm đềm giữa gia đình. Mỗi lần bắt trớn muốn nghĩ tới thì Thúy lật đật đứng dậy bỏ đi chỗ khác. Bởi nếu cứ để cho trí nhớ tự do lảng đảng trôi về những ngày nhung lụa ngày xưa thì chắc Thúy không còn đủ can đảm để sống những ngày hiện tại.

Những buổi trưa và buổi tối, căn nhà ồn ào tiếng nói và đầy nghẹt khói thuốc. Đó là giờ bác Tư trai đạp xích lô về, bác Tư gái dọn hàng về. Tiếng chửi nổ rang như pháo. Không bữa nào là bác Tư trai không có chuyện để chửi. Cái mặt uống rượu đỏ kè.

— Đù mẹ tổ cha cái xe jeep, thiếu chút nữa thì nó cán tao chết. Tao đi bên tay mặt rõ ràng, đi sát lề vậy mà nó lái ẩu, lái như bay, nó ép sát tao, tao phải đạp vọt lên bờ lề. Đù mẹ tổ cha nó, cũng tại mấy con học trò bận mini đi ở phía sau tao. Cái Jeep đó đi ngược chiều mà nó dám lái ẩu, ép tao dường đó.

Bữa khác thì: Đù mẹ thằng Hai Ròm, bữa nay nó vớt hết của tao một mối. Có con mẹ nhà quê đi thăm con ở trại Phan Năm, láng quáng lính quính không biết ngỏ. Tao đòi một trăm, mụ năn nỉ tám chục. Tao làm bộ chê ít nhưng cứ đạp lai rai theo sau ngó chừng. Đù mẹ, quẹo qua cua, một cái xe vận tải ầm ầm chạy tới, làm nghẽn đường. Ở bên kia, thằng Hai Ròm vớt con mẹ đạp đi tuốt. Đù mẹ bữa nay nhằm ngày gì mà xui. Đạp không quá ba trăm thước, ăn ngon lành tám chục. Đù mẹ, mà cũng tại mình ham.

Bữa khác: Đù mẹ, bữa nay chở trúng thằng Mỹ say. Đạp chết cha, đạp lỏng xương bánh chè, đạp bức màng tang. Nó đưa ba chục. Mình ra hiệu ba ngón tay là ba trăm, nó lắc đầu. Mình sừng sộ không chịu, Đù mẹ nó, nó nắm áo tao nó ghịt, nó dày. Đù mẹ thằng nhỏ, ngó nhỏ con mà mạnh dữ. Tao đâu phải thứ bở, vậy mà nó làm tao xính vính. Đành chửi nó một trận rồi chịu huề.

Đợi cho bác Tư trai xổ hết chùm ‘‘Đù mẹ’’ của bác rồi thì bác gái xổ tiếp:

— Đù mẹ con Chín Lừng. Xách miệng tới ăn bánh căn bánh rế, ăn xong phủi miệng mắc nợ. Ai hầu hạ bà cố tổ nó? Mắc nợ hai trăm hai rồi mà ì xác hổng chịu trả. Bữa nay còn vác miệng tới đòi ăn nữa.

— Nó ở tuốt dưới Tấn Tài mà chịu khó vác mỏ lên đây ăn bánh căn? — lời bác trai.

— Chớ nó ở dưới đó ai dám bán cho nó? Nợ nần bù đầu bù cổ. Vậy mà hễ mở miệng là nói dóc. Cứ nói vài bữa nữa chồng nó lãnh chưn gác dan cho rạp Việt Tiến, tha hồ có tiền để trả nợ. À, còn thằng Năm Thẹo, Giàu ơi.

— Dạ.

— Mày có biết thằng Năm Thẹo bữa nay ở đâu không?

— Đâu dưới miệt Kinh Dinh.

— Hôm qua thấy nó cặp bồ với một con sến. Tóc phi dê nhuộm màu râu bắp, mặt trát phấn như cái mã vôi. Nó trả cái đồng hồ ô tô ma tít cho mày chưa?

— Chưa.

— Sao không nắm đầu đòi lại?

Giàu nhổ một bãi nước bọt lọt qua song cửa sổ:

— Khó khăn gì, muốn nắm đầu hồi nào chẳng được? Kêu ít đứa chận đường, quạt cho một trận đòn hội chợ là ra. Sá gì một cái đồng hồ, năm cái bảy cái cũng có.

— Sao mày không làm?

— Kệ nó, nương tay cho nó một chút. Nó là đàn em, biết thân biết phận, nó đâu có dám hỗn với mình.

— Không hỗn sao nó không trả lại?

— Tụi đàn em nó lầm. Chúng nó tưởng cái đồng hồ đó của ai đưa sửa. Tụi nó thừa cơ nhào vô hốt bậy, trúng ai nấy chịu, nó đâu biết của mình.

— Em út của nó đông không?

— Đông mà toàn đồ tép rêu.

— Nó có dám cự địch với bọn mày không?

Của chen vô:

— Sức mấy mà dám cự địch? Nghe xưng danh em út anh Giàu là tụi nó xếp ve.

Thúy nghe cuộc đối đáp thì biết rằng Giàu, thằng con bác Tư là xếp sòng của một nhóm du đãng. Sau đó thì được biết là nhóm này làm ăn cướp giựt cũng khá. Cứ bữa nào có hàng là chiều lại chúng nó tụ họp về nhà thằng Giàu để chia. Chửi rủa om sòm. Thằng nào cũng một lon bia trên tay cũng một điếu thuốc trên môi.

Một buổi xế Thúy đang bế em ngồi ở võng thì có tiếng chân người chạy rầm rập. Nó ngó ra. Thằng Lai, — một em út của nhóm Giàu, — đang cắm đầu chạy. Ở đằng sau có dạng một người đàn bà chạy theo, vừa chạy vừa la: ‘‘ Thằng ăn cắp! Bà con chận giùm thằng ăn cắp!’’ Có mấy người đứng ở hiên, ở đường chong mắt nhìn theo nhưng không ai dám ra chận. Ai cũng sợ nhóm thằng Giàu trả thù. Ai cũng muốn được yên thân nên chỉ đứng lõ con mắt ra ngó.

Đến ngay trước nhà bác Tư thì thằng Lai thấy ở đằng trước có dạng mấy người lính biệt kích. Nó hoảng, ném cái gói đang cầm trong tay vào giữa nhà bác Tư rồi quẹo qua một đường ngang chạy biến vô xóm. Không ai kịp thấy cái gói, trừ Thúy. Cái gói chạy lọt dưới võng, ngang tầm đôi chân dép của nó.

Người đàn bà hơ hãi chạy theo ra đồng là một chị nhà quê. Mấy người biệt kích chận lại hỏi. Chị trả lời hụt chạc:

— Tui ở... Nại lên... ghé lại tiệm Đồng Thạnh lựa mua cái thau... tiền gói trong khăn, nắm trong tay... thằng nhỏ đó nó giựt... chạy theo không kịp.

— Thấy nó rẽ ngả nào không?

— Nó chạy tới đây rồi không biết rẽ ngả nào.

— Chắc là ngả này, — một người lính chỉ.

Một người lính khác:

— Chắc nó chạy biến mất rồi. Ngõ ngách lung tung chị kiếm gì ra.

Chị đàn bà đứng chặm nước mắt.

— Trong gói có bao nhiêu tiền?

— Hơn hai ngàn Mới mót bán mấy giạ lúa lên chợ Dinh mua thuốc cho con. Ở dưới nhà quê không có tiệm thuốc Tây.

— Sao hồi nãy nói ghé vô tiệm tạp hóa mua thau?

— Thấy cái thau nhựa màu hồng, định trả mua về cho thằng con nó mừng. Nó thèm một cái thau nhựa màu hồng.

Một người lính kéo tay hai bạn:

— Thôi đi tụi mày.

Còn lại chị đàn bà bơ vơ đứng đó một mình. Chị nhìn ngược nhìn xuôi mong gặp một người để nhờ để hỏi. Nhưng toàn là những đứa trẻ nhỏ tò mò đứng hiếng mắt nhìn. Một đứa ở truồng chỉ về cái ngõ hẹp:

— ‘‘ Nó’’ mới chạy vô đó.

— Rồi nó chạy về phía nào, em?

Một đứa con gái để chỏm chừng mười hai tuổi trừng mắt nhìn thằng nhỏ ở truồng.

— Ai biểu mày nói?

— Tại bả hỏi.

— Hỏi hồi nào? Mày bép xép tao về tao mách mẹ.

Chị đàn bà năn nỉ:

— Để nó chỉ dùm cho qua, em. Thằng con của qua nó bệnh ở nhà, nó đợi thuốc.

— Nó không biết gì đâu. Nó chì ẩu đó.

Một đứa con trai chừng tám tuổi, có vẻ mặt hiền lành:

— Không ai dám chỉ đâu. Tụi nó biết, tụi nó đánh.

Vào lúc ấy, ở từ nhiều căn nhà phát ra tiếng gọi:

— Cu ơi, đi về.

— Tí ơi, ẵm em về. Đứng làm gì ngoài đó?

— Bớ Sáng, dắt em về. Đã dặn rồi mà cứ ưa tụ tập.

— Lành ơi, mồ tổ cha mày. Mày cứ tha thằng nhỏ ra dang nắng. Tao biểu chuyện ai nấy biết, đừng có xía vô chuyện người ta. Ông cố tổ mày. Về liền về liền.

Lũ nhỏ tản đi hết. Và người đàn bà còn lại, bơ vơ đứng đó một mình.

Thúy nhìn cái vẻ mặt âu sầu tuyệt vọng của người đàn bà. ‘‘...mới mót bán mấy giạ lúa... thằng con qua nó bịnh... mua cái thau nhựa màu hồng cho nó mừng...’’

Thúy mò lấy cái gói tiền rớt nằm dưới chân. Nó bế em đứng dậy, đi ra cửa, khẽ gọi:

— Chị!

Người đàn bà ngơ ngác không biết có phải ai vừa gọi mình không. Thúy gọi lại:

— Chị!

Người đàn bà nhìn thấy nó:

— Em kêu tôi hay kêu ai?

— Kêu chị.

Người đàn bà lại gần.

— Có phải cái gói này của chị không?

Mắt người đàn bà sáng lên:

— Phải. Ở đâu vậy?

— Thằng ăn cắp nó thảy gần chỗ cửa. Tôi lượm được.

— Em làm ơn cho lại chị.

Thúy gật đầu.

— Em...

Người đàn bà ra vẻ lúng túng. Thúy trao gói tiền, vừa giục:

— Chị giấu vô trong áo đi. Để lỡ tụi nó ngó thấy.

— Em...

— Chị giấu mau đi. Rồi chị đi liền.

— Em...

— Thôi chị đi. Nhớ coi chừng. Còn có nhiều lũ móc túi nữa.

Thúy bế em đi vào trong nhà. Người đàn bà nhìn quanh quất một vòng rồi lầm lũi bước. Thúy đoán chị đàn bà lúng túng lưỡng lự là bởi chị ta không biết có thiệt Thúy trả lại gói bạc cho chị hay không. Hay còn có sự mưu mô gian xảo gì nữa? Cũng có thể chị đang lưỡng lự không biết có nên thưởng công cho nó không? thưởng bao nhiêu thì vừa? Tội nghiệp chị, Thúy nghĩ. Không biết nói sao cho hết nổi mừng. Hai ngàn đồng bạc là cả núm ruột của chị. Mất đi, không chắc chị còn có thể kiếm ra hai ngàn đồng khác để mua thuốc cho con.

Nổi mừng của chị đàn bà Nại biến thành nổi lo của Thúy. Biết nói sao khi lũ cao bồi hỏi cái gói tiền? Nói láo là thằng Lai ném không trúng cửa thì thằng Lai nhất định không chịu. Cái cửa mở rộng toác như vậy mà. Nói láo là chị ta thấy rõ nó quăng gói tiền vô nhà và chị ta chạy theo tịch thu. Lý không ổn, Bởi như vậy thì phải có sự đôi co ồn ào và mọi người trong xóm đã đổ lại coi. Vả lại lũ nhỏ trong xóm đã chứng kiến cảnh ba người lính biệt kích chận hỏi chị nhà quê, khuôn mặt tuyệt vọng của chị khi ba người lính không can thiệp giúp dùm gì chị được. Thôi, đành phải đứng ra nhận tội. Vả lại nói láo, dù không vụ lợi, dù để giúp người, mình cũng thấy khó nói quá. Không phải sợ người khinh mình mà sao tự nhiên thấy mình đã tự khinh mình rồi. Có thể nói láo một chút nhẹ nhẹ thôi để hạ bớt nổi căm giận của lũ cao bồi. Nói rằng chị ta đứng khóc kể nỗi nhà nghèo cực, nỗi con đau bệnh... rồi thấy mủi lòng mình đem đưa lại cho chị. Mình xin nhận tội. Rồi muốn đánh xé hành hạ gì mình cũng cam chịu hết.