Chương 11
TRẬN đòn nặng hơn Thúy tưởng. Bởi người ta không tin là nó nói thật. Bởi người ta nghĩ, — một cách rất hợp lý, — là nó thấy nhiều tiền trong cái gói đó, nó tham, đem giấu đi ở một chỗ nào rồi nó nói dối. Một đứa nhỏ cùi đày như nó mà nói chuyện nhân đạo thì không ai có thể tin được. Chỉ có tham lam và nói dối là dễ tin mà thôi. Vậy thì trận đòn bắt đầu là để tra khảo.
Bác Tư gái gầm lên:
— Mày phải nói thiệt. Mày giấu chỗ nào?
— Dạ thưa Bác con nói thiệt. Con không có giấu.
Hai cái tát vụt tới, mau quá không né tránh kịp.
— Giấu chỗ nào?
— Dạ con...
— Nói mau lên!
— Con không...
Hai cái tát lại vụt tới, lần này mạnh hơn làm nó liểng xiểng. Bàn tay của bác Tư gái như có lửa trong đó. Nó làm nóng rát cả hai bên má. Và chừng như chỗ bị tát đang sưng lên, máu đang rần rần chảy dồn về.
Bác Tư gái ho lên mấy tiếng nhỏ.
— Cứ khai thiệt đi thi tao tha.
— Con khai thiệt mà.
— Thiệt cái gì? Cái miệng mày chối leo lẽo.
Thúy khóc:
— Con nói thiệt.
— Nói thiệt! Nói thiệt!
Miệng vừa nói bác Tư gái vừa nhào tới, hai bàn tay cứ tát liên miên lên hai bên má của nó. Cái đầu bác lắc lư theo bai bàn tay và bác chỉ ngừng lại khi đầu tóc bị sổ tung ra. Bác đưa tay vấn lại tóc vừa thở:
— Tụi mày mất dạy. Vừa nứt con mắt đã giở thói lưu manh. Sao? Bây giờ mày đã chịu chưa? Giấu tiền ở đâu?
Thúy khóc oà lên:
— Dạ con lạy Bác, con không có giấu.
Bác Tư gái hùng hồ đi xuống bếp:
— Tao đi kiếm cây củi tạ đã. Phải dùng củi tạ tra mày mới ra.
Bác Tư gái đi khỏi, cả cử toạ vẫn giữ vẻ im lặng. Qua màng nước mắt, Thúy thấy họ chong mắt chăm chăm nhìn nó. Cử tọa gồm bác Tư trai, tất cả lũ con của bác Tư, ba bốn thằng đàn em của Giàu trong đó có thằng Lai. Con Lượm mê mải nhìn đến nỗi cái miệng há tròn như miệng một con cá đang thở.
Có tiếng suồng ngã nơi đống củi ở sân sau, tiếng chửi thề của bác Tư gái, và sau đó bác sừng sộ đi vào, tay cầm một thanh củi lớn. Mồ hôi ướt đẫm nơi mặt bác, làm dính ướt cái áo vào lưng bác. Bác lại đứng trước mặt Thúy, chống nạnh một tay, quát:
— Sao? Mày giấu chỗ nào?
Thúy chùn người lại.
— Dạ thưa Bác, cháu không có...
Thanh củi tạ vụt xuống lưng nó bốn cái liên tiếp. Nó vặn người, nhăn mặt cắn răng chịu đau.
— Mày gan lắm. Đánh đau không khóc là mày gan lắm. Lớn lên đi ăn cướp chớ không phải đi ăn trộm. Sao? Mày có khai ra không? Giấu chỗ nào?
Đau quá mở miệng không ra lời, nó chỉ lắc đầu. Thanh củi tạ lại vụt xuống liên hồi, không kịp đếm. Nó té nhào xuống đất.
— Mày nằm vạ phải không? có giỏi nằm vạ thì tao cho nằm vạ luôn. Này, nằm vạ; Này, nằm vạ!
Bác Tư gái bổ liên tiếp thanh củi, bất kể là đầu, là mông, là lưng. Thúy lăn tròn vừa co rúm người lại.
Bác Tư trai sợ vợ đánh nhằm chỗ nhược, liền đứng dậy giữ tay bác Tư gái.
— Thôi, bà ngừng tay lại đã. Để tra nó đã. Thúy!
— Dạ.
— Mày khôn hồn thì đừng có giấu nữa. Phải khai ra mau. Cái gói đó đựng mấy chục ngàn?
— Dạ thưa con không biết.
— Mày có mở ra đếm mà sao nói mày không biết?
— Dạ con không có mở ra.
— Cả trăm ngàn trong đó, thằng Lai nó nói vậy. Nó nói gói bạc dày cộm.
— Con không có mở, con không có đếm nhưng không có tới số đó đâu
— Mày không coi sao mày biết?
— Khi mấy người lính biệt kích chận hỏi chị ta thì chị ta nói có hơn hai ngàn thôi.
Số tiền nêu ra làm cử tọa ‘‘Ồ’’ lên. Mỗi người suy nghĩ một cách. Thúy thấy cần giải thích thêm. Nó bệu bạo nói:
— Con nghe chị ta nói mới mót bán được mấy giạ lúa đem lên chợ Dinh mua thuốc cho thằng con bệnh.
Bác Tư gái:
—Con này trớ trinh. Mới nói không biết trong gói có bao nhiêu, bây giờ lại nói là có hơn hai ngàn? Phải đánh nữa thì nó mới khai thiệt.
Vừa nói dứt câu thì thanh củi lại bổ xuống. Thúy lại quằn quại, lại lăn tránh. Đau quá, nó khóc rống lên.
— Nó ở mỗi tháng lương bao nhiêu?
— Không nghe nói.
— Con vợ thằng Tư Lô nó ác lắm...
— Dân đá cá lăn dưa, hồi giờ ai chẳng biết? Hồi ông đi bói chưa về, nó tra khảo con nhỏ chết đi sống lại.
Buổi tối, ông Huyền Linh nằm trên giường suy nghĩ. Thấy sự bất bình mà nhắm mắt bỏ qua thì cũng áy náy. Ông Thánh ngày xưa có nói ‘‘Kiến nghĩa bất vi vô dũng’’, nghề mình không lương thiện nhưng vì bí quá mà mình phải làm. Vậy gặp việc Thiện mình không nên từ chối để mong lấy cái Thiện đó mà bù qua cái Ác kia. Ông dự tinh một kế hoạch, gật gù giây lâu rồi mới yên tâm nằm ngủ.
Vài ngày sau đó, ông dò hỏi bệnh tình của Thúy và lũ nhỏ mét rằng nó đã ẵm em và xách nước được, có điều xách nước chỉ được nửa gàu và thỉnh thoảng dừng tay nhăn nhó. Chắc là mấy vết bầm rớm máu đang nhức.
Một buổi tối, ông thầy Huyền Linh ghé lại nhà bác Tư Lô. Bác Tư gái nghe tiếng gậy lọc cọc, nhìn ra thấy thầy, lật đật ra chào.
— Dạ thưa thầy. Mời thầy ghé chơi.
Và bác cầm đầu gậy dắt thầy vô nhà. Chú Tư Lô cũng lật đật đứng dậy:
— Ờ, có thằng Tư ở nhà đó hữ?
- Dạ.
Vợ chồng bác Tư kính trọng ông thầy vì mỗi khi cần coi ngày, cần cúng con Sát, cần vái các đẳng linh Thần, Thành hoàng Hậu thổ, cần coi vận hạn may rủi... vợ chồng bác đều tới thỉnh ông thầy.
Ông thầy chép chép chân ngồi nơi giường.
— Lũ nhỏ đi đâu mà ngó vắng hoe vậy?
— Dạ thưa thầy tụi nó nhảy ra rạp Thanh Bình coi bản thuốc quảng cáo. Có hát xiệc ngoài đó.
Ông thầy giơ một bàn tay quạt quạt nơi cổ.
— Trời tháng Giêng tháng Hai mà nóng...
Bác Tư gái chạy tìm cái quạt giấy:
— Mời thầy cầm quạt đỡ.
Ông thầy quạt xạch xạch vài cái.
— Vợ chồng làm ăn độ rày có khá không?
Bác Tư trai:
— Dạ thưa thầy sao cứ ạch đụi hoài. Làm ăn không có dư.
— Thi tao đã nói hôm trong năm. Tuổi mày năm nay có sao Tham Lang chiếu, tháng Giêng tháng Hai hao tài tán lợi, tháng Năm tháng Sáu mắc lời ăn tiếng nói. Phải qua Thu Đông, tháng Chín tháng Mười mới khá được.
— Dạ.
Bác Tư gái đứng chắp tay xớ rớ không dám ngồi. Không ai dám ngồi trước mặt một ông Thánh như vậy. Bác chợt nhớ chạy đi rót một ly nước trà rồi lễ mễ đem gài vào giữa ngón tay của ông thầy.
— Xin mời thầy uống chén nước.
Ông thầy nhướn mắt lên, mĩm cười:
-Ờ.
Ông lặng lẽ đặt ly nước trà lên môi. Sau một hồi im lặng, ông chợt đằng hắng:
— À, vợ chồng thằng Tư, tao nghe dằng mày có nuôi một con nhỏ ở...
Bác Tư gái liếc nhìn bác Tư trai, ra dấu bằng mắt. Chắc hai người đang hồi hộp. Bác Tư trai ú ớ phát lên một tiếng ‘‘Dạ’’.
— Tao nghe nói nó không phải người quê ở miền gần đây.
BácTư gái:
— Dạ nghe nói nó ở đâu mấy tỉnh ngoài. Con nhỏ đó, nó ngó vậy mà dữ lắm.
— Tao tối con mắt, tao ngó gì được.
Ông thầy pha trò rồi cười, làm hai vợ chồng bác cũng cười theo. Bác Tư gái lại tiếp:
— Nó làm bộ như hiền mà gian tổ cha. Để hở cái gì ra là biến mất.
— Ờ, thời bây giờ trẻ nhỏ hoang đàng, ăn cắp móc túi.
Thúy bế em đứng ở sau bếp tủi thân nghe những lời người ta phê phán mình. Tất cả đều sai hết, đều oan hết, đều giả dối. Người lớn ỷ thế mình là lớn nên cứ tự ý phê phản kẻ khác.
Bác Tư gái kể lể:
— Nó dỗ em, em chưa ngủ mà nó đã ngủ trước. Làm công chuyện thì vụng về, nay làm bể cái ly mai làm bể cái bình.
Thúy tự nói thầm: con Lượm nó làm bể, con em nhỏ nó làm bể mà cứ đổ tội cho mình. Con em nhỏ nó không biết nói, nó không biết nhận tội, mình chịu oan đã đành, tới con Lượm thì đúng là đồ già miệng điêu ngoa. Nó uống nước để hơ hỏng cái bình ngã bễ tan mà nó cứ nói không biết, không biết. Khi không ai biết hết thì cuối cùng là phần mình phải lãnh. Không có chi tiện lợi bằng. Mình như một loại giỏ rác chứa nhận mọi thứ dơ bẩn mà người ta lẩn tránh.
Lại giọng bác Tư gái:
— Đồ ăn gian nói láo, tôi muốn tống cổ cho nó về ở với con Tám Dòn. Hết chịu nổi.
— Ờ, mày có không khứng nuôi nữa thì mày sớt qua cho tao. Bên tao năm sáu bữa nay thiếu một đứa dắt. Thằng nhỏ ở với tao, bữa trước mẹ nó dẫn về Long Hương, tao chịu bó tay; Có đứa dắt, tao mới đi làm ăn được. Con mắt tối mò, đi đứng trong nhà thì còn rờ rẫm được chớ bước ra khỏi nhà, xe cộ ầm ầm, biết ngõ đâu tránh?
Đề nghị bất ngờ của ông thầy Huyền Linh làm bác Tư quýnh. Cũng tại mình mà ra. Có nó ẵm em, xách nước, nấu cơm quét nhà, rửa chén, công việc cũng bộn chớ phải ít đâu.
Ông thầy hé hé con mắt nhìn thái độ của bác Tư gái thì thấy bác ra hiệu cho bác Tư trai bằng cách chỉa một ngón tay trỏ chọt chọt nhiều lần về mình. Miệng thì thầm cái gì đó, ông không dám hé to mắt để coi nên không hiểu rõ. Nhưng ông đủ thông minh để đoán tâm lý của họ. Ông nói:
— Hai vợ chồng mầy mướn bao nhiêu một tháng?
Bác Tư trai:
— Dạ cũng chưa tính.
Ông thầy suy nghĩ một lát.
— Bây giờ tao tính vầy nè. Mày để lại nó cho tao, mỗi tháng tao đưa một ngàn rưỡi. Công việc không có chi hết, nó cứ đi theo dắt gậy cho tao.
— Dạ thưa thầy...
Bác Tư gái mới nói tới đó thì mắc nghẽn, hết biết nói sao. Một ngàn rưỡi là nhiều nhưng chẳng lẽ mình nhận tiền? Cũng phải nói...
Ông thầy gạt ngang:
— Tánh tao mau mắn, giải quyết như vây hợp lý hợp tình. Tiền lương đó hàng tháng ta giao cho vợ chồng mày. Vợ chồng mày cứ nhận, rồi tính sao với bà con gia đình nó thì tùy vợ chồng mày.
— Dạ.
— Nếu không nhín cho tao luôn thì cho tao mượn đỡ vài tháng.
— Dạ. Dạ thôi để thầy dẫn nó về sai vặt.
— Tao không sai vặt. Tao sai nó dắt.
— Dạ, để nó dắt thầy đi mần. Dạ, chỗ thầy với vợ chồng tui.
— Ờ. Bữa nay mùng Tám được ngày. Giờ Tuất mày dẫn nó qua cho tao.
— Dạ.
— Thôi tao về.
Thế là bắt đầu từ ngày mồng Chín, Thúy lang thang khắp các ngã đường với ông thầy Huyền Linh Ông bận một cái áo dài đen có vạt áo cụt ngang đầu gối. Những ngày mới dọn về Phan rang, ông đội khăn đóng cho ra phong cách một nhà Nho có nghiên cứu Dịch Lý Đông phương nhưng bởi phải đi cả ngày mồ hôi vã ra ướt nhẹp cả trán cả chân tóc nên cuối cùng đành phải dẹp cái khăn đóng. Ông giữ lại cái dù đen xoè tròn cầm ở tay trái để cho bạn hàng dễ nhận ra ông. Có bữa mang gương đen, có bữa không. Mang gương đen có thể làm cho người ta nghi là mình mở được con mắt, là mình không đui. Thà bỏ gương mà chịu khó nhắm mắt cho thật kỹ. Nơi một ngón tay trái ông móc một cái kiểng bằng đồng nhỏ, tay mặt cầm cái dùi. Cứ đi chừng hai mươi thước thì gõ keng keng. Thúy âm thầm đi bên cạnh, lúc thì cầm một đầu gậy, lúc thì đưa vai cho ổng thầy vịn.
Keng keng... Keng keng.
Phố này quẹo qua phố khác, người hai bên đường tò mò đứng nhìn rồi thản nhiên bước đi. Đường Thống Nhất... cầu Ông Cọp... cầu Nước Đá.
Tét tét tét tét, tiếng còi thét nhức tai, thầy trò rảo cẳng vào đứng dạt bên đường.
— Xe nhà binh hả con? Nó chở cái gì mà chạy rầm rầm dữ vậy?
— Dạ toàn xe trống. Chạy cả công voa.
— Nhớ dắt thầy đi trong bờ lề nghe con? Xe Mỹ với xe Đại Hàn nó chạy ẩu lắm. Khi nghe tiếng còi thì mình tránh đã không kịp.
— Dạ, con toàn đi trên bờ lề.
Keng keng... Keng keng. Rẽ qua đường Hai Bà Trưng, rẽ qua Quốc lộ Mười một. Lũ trẻ nhỏ chạy tủa ra:
— Ra coi ông thầy bói bay ơi! Ông thầy bói bay ơi!
— A! Ông thầy bói đui. Ổng nhướng nhướng con mắt.
— Có cái kẻng nữa bay ơi! Ông thầy, bói cho tui một quẻ!
Một đứa trạc mười tuổi, ở trần, từ trong nhà chạy ra:
— Thầy bói nói mò. Thầy bói nói dừa.
Thầy Huyền Linh im lặng rảo chân bước. Thúy thì sợ nhất là những đứa chơi ác ném đá. Con nít chuyên môn bắt chước, hễ có ném đá là chục đứa ùn ùn chạy lượm đá ném tới tấp. Cái dù ông thầy bị toẹt phải vá lại một miếng lớn là cũng do một hòn đá lớn của một đứa ném trúng. Đứng lại bắt đền, đôi co với lũ con nít thì cũng chẳng ăn gì, ông thầy đành chịu thua lầm lũi bước.
— Ê, thầy bói! Thầy bói!
Thầy Huyền Linh đứng lại:
— Ai kêu đó con? Như giọng người lớn.
Thúy nhìn quanh quất.
— Lại đây!
Thúy hướng về người đàn bà đứng gọi, dắt thầy rẽ xuống con đường nhỏ vào một căn nhà gạch. Người đàn bà tuổi chừng ba mươi, mặt trét nhiều phấn. Cô ta mặc bộ áo ngủ bằng lụa màu vàng. Cô ta mời thầy:
— Mời thầy ngồi.
Thầy Huyền Linh an tọa nơi mép của một chiếc đi văng gỗ. Thầy hỏi ngay:
— Cô xin điều chi? Bói quẻ gia đạo hay công danh?
— Dạ thưa thầy xin quẻ tình duyên.
Ông thầy móc túi lấy một cái khăn đỏ, chậm rãi trải ra trước mặt. Và không biết bằng cách nào mà khi khăn trải xong thi đã có bốn đồng tiền kẹp nằm ở lòng bàn tay. Bằng hai bàn tay, thầy nhúm bốn đồng tiền nâng cao ngang trán vừa lẩm nhẩm khấn. Có nhiều tiếng Nam mô lẫn lộn giữa những tiếng nói rì rầm. Rồi thầy chợt cất cao giọng:
— Cô tên chi?
— Dạ Nguyễn thị Ngà.
— Tuổi gì?
— Dạ thưa thầy cháu hăm ba tuổi.
— Quê ở đâu?
— Dạ ở Sađec.
Thầy trở lại rì rầm trong việc khấn vái. Chừng như để cho thân chủ yên tâm là thầy đang lo cầu khẩn về mình, thầy chợt to giọng đọc tên tín chủ, niên canh và sinh quán trú quán: Nguyễn thị Ngà (chữ Ngà ông nói nhỏ lại) nhị thập tam tuế, sanh tại Sađéc xứ, ngụ tại Ninh thuận Đạo... Ông cong lưng vái ba vái rồi trao tiền cho thân chủ:
— Cô gieo quẻ đi.
Thân chủ ném đồng tiền xuống mặt vải. Ông thầy lấy ngón tay mò. Rồi lại thu tiền giao cho thân chủ bảo gieo nữa. Cô Ngà lại ném xuống và ông thầy lại lấy tay mò. Phải bốn lần như vậy, ông thầy mới thu tiền về, trầm ngâm suy nghĩ. Thân chủ hồi hộp chong mắt nhìn thầy và lần nào Thúy cũng thấy hồi hộp Ịây. Thầy đằng hắng một tiếng lớn làm thân chủ giật mình rồi mới khề khà bình giải lời Thánh dạy.
Sau tín chủ Nguyễn thị Ngà, người tín chủ tiếp theo không coi bói mà hỏi số mạng. Thầy hỏi tuổi:
— Ông năm nay bao nhiêu tuổi?
— Dạ đúng ba mươi.
— Vậy là đi tuổi Canh Thìn. Mạng Kim, sao Thúy Diệu. Ông sinh vào năm Kim Tinh chiếu mệnh, Tử vi có sao Trực phù. Hỉ thần, Đà la, Diệu y, Lâm quan, Long đức, Hóa quyền, Hồng Loan chiếu. Ông sanh trưởng vào một nhà đạo đức, ông bà hiền phước nhờ đó mà thoát nhiều tai nạn, khỏi sa vòng pháp luật. Phàm cái tuổi Canh Thìn thì khôn ngoan quán chúng nhưng sinh bất phùng thời, từ năm hăm ba tuổi đến nay, hễ tính một đường thì nó đi một nẻo. Ông sinh nhằm mùa hạ, có tài mà không gặp thời. Số này là số hoa trổ muộn mà. Phải từ ba mươi hai tuổi trở lên, làm ăn mới trụ.
Qua óc nhận xét non nớt của nó. Thúy không tin bao nhiêu ở sự ngay thiệt của nghề thầy nó. Với người nào thầy cũng khen quẻ lành số tốt. Nếu đang nghèo thì nói ba bốn năm nữa sẽ giàu. Gần như người nào cũng sắp có tin hay ở xa về, có quới nhơn phò trợ có trung vận hay hậu vận tốt. Có người nói thẳng:
— Bữa trước thầy nói tháng này làm ăn phát tài, buôn một lời mười mà tôi lỗ kỳ này gần sập tiệm.
Thì thầy an ủi:
— Cái vận của bà nó khiến vậy đó chớ. Không tán tài thì nó hao cách khác. Mà thà tán tài còn hơn. Vì còn của còn người, người làm ra của. Mà không có sao đâu. Qua Thu thì nó vượng trở lại.
— Thầy nói rõ ràng là tôi phát tài ngay trong tháng này mà.
— Đúng vậy. Đúng vậy. Đáng lẽ là trong tháng này. Nhưng cái hạn của bà nó nặng quá. Phải giải lần lần. Bà có âm phù dương trợ, phúc đức tại mẫu mà. Bà lo chi? Sanh là đàn ông thì làm quan to, sanh làm đàn bà thì là bà lớn.
Vân vân. Thầy nói một lát thì người giận dữ cho mấy cũng hóa ra hiền lành, và trên sự thất bại hiện tại, người ta tha hồ mà xây hy vọng. Không, Thúy không thích cái lối dỗ ngọt kiểu đó. Nó gần gũi với một sự lừa dối. Nhưng Thúy không thể ghét ông thầy Huyền Linh. Bởi ông xấu với người ta nhưng mà tốt với nó. Những bữa gặp bà khách rộng rãi, thầy khen toàn những buôn bán phát tài thăng quan tiến chức, bà thưởng cho bốn, năm trăm bạc thì thầy thưởng cho nó năm đồng ăn cà rem. Ngộ nghĩnh nhất là lúc đó tiếng chuông keng keng của thấy được đáp lại bởi tiếng chuông leng keng của thằng bán cà rem và thầy hỏi:
— Con có khát nước không?
— Thưa thầy không. — Thúy thường nói dối như vậy.
— Cho con năm đồng đây con mua cà rem.
Nhiều bữa thầy được bổng hậu, thầy cho luôn mười đồng. Thúy để dành, trong bụng nhầm tính. Khi nào có đủ một trăm sẽ mua một cái nón mới để hôm nào về thăm Dì Tám thì đem biếu Dì. Dì cứ ước ao có được một cái nón mới, thứ nón bài thơ mỏng, nhẹ, kéo dầu trong láng mướt. Cứ mỗi lần được thầy cho tiền là Thúy tính nhầm trong óc. Được bốn mươi đồng rồi. Còn sáu chục nữa. Được năm chục rồi, còn năm chục nữa.
Sau một tháng theo thầy, nó đã thạo trong công việc dìu dắt. Thầy Huyền Linh giao cho nó cầm kẻng và cầm dùi luôn. Nó tự tính độ đường, đi một chặng chừng bao nhiêu bước thì khua chiêng keng keng., Thầy Huyền Linh bỏ cái gậy ở nhà và thầy chỉ để tay lên vai nó để nó dẫn bước cho thầy.
Bà vợ ông thầy Huyền Linh người ốm yếu, tính hiền lành. Thường ngày bà ít khi bước ra khỏi nhà. Ông bà có một đứa con trai lên bảy tuổi cũng hiền lành nhút nhát như mẹ. Trong nhà có hai người cháu trai ở nhà quê chạy giặc tới tá túc. Cả hai đang học nghề ở một xưởng mộc gần đó. Người anh tên là Bỉnh, người em tên là Lược. Hai anh em đều là người chơn chất, còn mang cốt cách cần cù của người con trai nhà quê.
Một bữa tối trong khi mọi người đã an giấc ngủ thì chợt nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Ông thầy hỏi:
— Ai đó?
Một tiếng nói dõng dạc:
— Cảnh sát. Mở cửa mau để soát thẻ gia đình.
Ánh đèn bấm rọi xuyên lên mái nhà. Thím Huyền Linh đánh diêm xoẹt xoẹt châm đèn. Tiếng gọi cửa vội vã thêm:
— Mở ra mau. Mở mau.
— Dạ... Dạ, — Ông thầy trả lời.
Thúy nhìn anh Bĩnh anh Lược. Hai người mặt mày nhớn nhác. Họ nói thì thầm với nhau rồi nhẹ tay mở cửa sau. Họ len nhẹ qua cửa thì chợt ở đẳng sau nhà đèn bấm loé lên, tiếng súng lên đạn lách cách và có tiếng hô ‘‘ Đứng lại! Chạy tao bắn!’’ Hai người lính nai nịt bằng súng ống lọt vô nhà bằng ngả sau. Vừa lúc đó thì thím Huyền Linh đã mở được cửa trước. Ba người lính bước vào từ cửa trước. Hai người lính khác, một người nắm cổ áo anh Lược một người nắm tay anh Bỉnh lôi từ cửa sau vào nhà. Một người nói:
— Hai anh này bỏ chạy trốn…
— Dạ thưa không, — anh Bỉnh run run nói. Dạ cháu ra sau đi tiểu.
Người lính kia nạt lên:
— Đi tiểu cái gì hai đứa? Đi tiểu sao lại chạy?
- Dạ...
— Đưa giấy tờ coi.
Anh Lược lại lục ở cái va li thiếc đặt ở đầu giường. Người cảnh sát. — đầu có đội mũ lưỡi trai nên dễ nhận, — hỏi ông thầy:
— Đưa thẻ gia đình coi.
Bà thím ‘‘ Dạ ‘’ và lại mò ở cái trang thờ ông Địa. Thím cầm tờ khai gia đinh màu xanh.
— Tăng Cổn là ông phải không?
Ông thầy đứng dậy:
— Dạ.
— Còn Nguyễn thị Búp là ai?
Bà thím:
— Dạ, là tui.
— Tăng Thọ bảy tuổi?
Bà thím chỉ thằng con đang đứng ngơ ngác nhìn:
— Dạ, là thằng con tui.
Ông Cảnh sát quay lại nhìn Thúy:
— Còn con này?
— Dạ con nhỏ giúp việc.
— Sao không có ghi tên trong thẻ gia đình?
— Dạ nó mới tới.
— Có trình cho Liên gia đại biểu để ghi tên trong sổ vãng lai không?
— Dạ thưa...
— Không có chớ gì. Thôi, con nhỏ, ra đứng đây.
Thúy liu riu lại đứng ở chỗ ông cảnh sát chỉ. Trong khi đó thì mấy người lính kia đang coi giấy tờ của anh Bỉnh và anh Lược, ông cảnh sát lại gần.
— Sao? Còn hai anh này sao?
— Dạ trốn quân dịch.
Anh Lược run khựng:
— Dạ bẩm ông... dạ bẩm thầy... cháu... con... ở nhà quê mới ra.
— Muốn ở đâu thì ở. Thẻ kiểm tra đâu?
Một ông lính chìa một thẻ kiểm tra:
— Dạ một đứa có một đứa không.
Ông cảnh sát cầm lấy thẻ chăm chú đọc:
— Đúng tuổi quân dịch. Vậy là cả hai trốn quân dịch. Một đứa thiếu giấy tờ.
Người cảnh sát quay lại ông thầy:
— Ông thay áo rồi lên Ty Cảnh sát luôn. Ông chấp chứa, ông giúp phương tiện cho kẻ...
— Dạ thưa ông Chính phủ, tôi mù lòa...
— Ông cứ đi xuống Ty rồi thưa với cấp trên.
— Dạ thưa ông...
— Thôi mau lên. Tôi không có thẩm quyền giải quyết. Con nhỏ nầy nữa. Mau. Tất cả anh em, dẫn họ ra xe.
Anh Bỉnh, anh Lược, Thúy và cuối cùng là ông thầy Huyền Linh líu ríu đi giữa những cây súng. Sợ hãi lật đật quá nên ông thầy quên vịn vào vai Thúy. May mà lúc nãy khi đối thoại ông nhớ nhắm kín hai con mắt.
Leo lên một chiếc G.M.C lớn, trên đó có hai dãy người đã ngồi sẵn. Thanh niên có. Sồn sồn có. Có cả mấy cô mặc áo ngủ màu xanh màu đỏ và mặt trát đầy phấn. Họ vui vẻ cười nói như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Chuyến lục soát nhà thầy Huyền Linh là chuyến chót nên xe chạy thẳng về Ty cảnh sát. Súng ống và những vòng dây kẽm gai làm Thúy sợ run lên. Tất cả cùng xuống xe, đi một đoàn băng qua sân, vào một dãy nhà thấp. Ngồi đợi ở hai cái băng gỗ đặt dọc mái hiên. Có người buồn quá ngồi bệt luôn dưới sàn xi măng. Từng người một được đẩy vào bàn giấy để lập biên bản.
Thúy ngồi im lặng nhìn vơ vẩn lên vòm trời màu đen. Có vài ngôi sao nhỏ tít đang nhấp nháy rung rinh. Hồi nhỏ ở nhà quê dường như đêm tối có nhiều sao hơn trên nền trời. Má hay kêu mấy đứa ra ngồi ngoài sân, ngồi trên chiếc chiếu để cùng nhìn lên các ngôi sao. Em Tựu đi lững chững, ngã vào lòng má rồi đứng dậy đi, lại ngã vào lòng anh Tuấn, rồi đứng dậy di lại ngã vào lòng Thúy. Tiếng má dịu dàng:
— Coi chừng! Té trúng đau đó con. Thôi, không chơi vậy nữa. Lại tập hát với má.
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
Ba ông sao sáng
Bốn ông sáng sao...
Hàng cau đứng ven bờ sân bung xoè những ngọn lá cong lên trời. Chúng yên Ịặng như đang mong đợi một cái gì, một ngọn gió, một ánh trăng sắp lên. Hương thơm của hoa bưởi ngào ngạt trong không khí. Tiếng uệnh oạng của những con ểnh ương vang đầy nghẹt ở dãy ruộng trước nhà. Chúng nó như kêu gào rằng ở ngoài này tối quá, rằng nằm trong cỏ ngứa quá, rằng ngâm chân trong nước lạnh quá. Chắc chúng đang thèm được ngồi tụ họp êm đềm trên một vuông chiếu như thế này, người nào cũng yêu thương tràn trề người ngồi cạnh bằng tất cả tấm lòng. Tiếng uệnh oạng, tiếng uềnh oang, tiếng của nhái, của ễnh ương hay của chẫu chuộc... mọi thứ tiếng đó tạo thành cuộc đời, cuộc đời êm ái, cuộc đời bây giờ đã thành Quá Khứ, đã xa hẳn, đã mất hẳn.
Thúy nghe ướt nơi má, lấy tay rờ lên thì thấy má mình đã ướt đầy nước mắt. Hai dòng nước mắt đang bò xuống chầm chậm gần tới môi, gần tới cằm gây một cảm giác nhè nhẹ, nhồn nhột. Nó nhắm đôi mắt lại và cảm thấy cái hố nước mắt đó trào ra để chảy thêm.
Chợt một tiếng ồm ồm bên tai làm nó giật mình:
—Tới phiên con này. Vô!
Nó đứng dậy, không kịp lau nước mắt, bước vào phòng. Một người mặc quân phục ngước nhìn nó:
— Em tên gì?
— Dạ con tên Lê thị Thúy.
Người ấy cúi xuống viết trong một cuốn sổ lớn.
— Mấy tuổi?
— Dạ mười hai.
— Quê quán?
— Xã Xuân phước, quận Đồng xuân.
— Trú ngụ tại?
— Dạ con ở nhà ông thầy của con.
— Tên gì?
— Dạ con không biết tên.
— A, ông thầy bói đó hả?
—Dạ.
Người quân nhân lật qua trang trước chắc để tìm cái tên ông thầy. Hí hoáy viết rồi ngẩng lên nhìn Thúy:
— Em ở nhà đó mà không có ghi tên trong sổ gia đình. Như vậy là cư trú bất hợp pháp, nghe chưa?
— Dạ.
— Em làm gì ở đó?
— Dạ để dắt ông thầy đi bói.
— Ở đầy tớ phải không?
—Dạ con không biết. Con đang ở cho bác Tư xích lô thì bác gái dẫn con qua ở cho ông thầy.
Người quân nhân chu dài cái miệng ra suy nghĩ vừa nhíu mày nhìn lâu lên mặt Thúy. Rồi chợt bật lên nói:
— Thôi được. Mai hay.
Tối đó, Thúy nằm ngủ trên một trong những chiếc chiếu trái giữa sàn xi măng của một căn phòng dài, cửa sổ có chấn song sắt và cửa ra vào được khóa kỹ. Mệt quá nên nó ngủ hồi nào không hay, ngủ giữa những người đàn bà lạ. Nó xa cách thầy nó được lùa vào một phòng khác.
Trưa hôm sau nó được dẫn ra phòng giấy. Cũng cái phòng khi hôm nhưng số người ngồi làm việc đông. Nó được đẩy tới một ông mập mạp có cái mặt đầy mụn đỏ. Ông mặc sơ mi trắng nên có vẻ hiền hơn những ông mặc ka ki ngồi cạnh. Ông cất tiếng ồ ồ:
— Mày cư ngụ bất hợp pháp, đáng lẽ tao giam, nghe chưa? Nhưng thấy mày còn nhỏ. Vậy tao tha cho. Hãy trở về nguyên quán của mày, nguyên quán nghĩa là... ờ ờ... là xứ sở của mày đó, về làng mày đó, về chỗ bà con của mày đó. Đừng có lang thang ở đây nữa. Nghe chưa? Hễ cảnh sát bắt một lần nữa là tao không tha. Nghe chưa? Thôi cho đi ra.
Thúy muốn «Dạ», muốn «Dạ» nhiều lần mà ông không để hở một chỗ nào để nó chen tiếng “Dạ” vào đó. Nó cũng không biết giải thích cách nào cho ông ta hiểu rằng xứ sở của nó không có nó nữa mà về, làng của nó còn đâu nữa mà về? Nhưng mà ông ta đã nói “Thôi, cho đi ra” tức là mình phải đi ra gấp, ra khỏi nơi này đi. Phải coi như đó là một ân huệ. Còn chuyện làng xóm xứ sở là chuyện sau.
Nó vội vàng bước mau ra khỏi cái sân quá dài quá rộng. Gần như vừa đi vừa chạy. Cứ sợ có tiếng kêu “Ê! Con kia! Vô đây tao hỏi lại... tao coi lại... tao xét lại”. Nó đi tới cái cổng có hai người bồng súng gác. Nó quíu chân, một bàn chân thọc vướng vào ống quần làm nó suýt té. Nhưng may, rồi nó cũng đi lọt qua khỏi cái cổng.
Trời ơi! Thế giới tự do kia! Xe cộ ào ào vùn vụt kia! Người đi lại nhởn nhơ kia! Trẻ nhỏ chạy chơi vui vẻ kia! Nó nhập cuộc với mọi người an ổn vô cùng, nhẹ nhỏm vô cùng. Chân của nó như không chạm xuống mặt đất.
Tìm về nhà ông thầy thì thấy cửa đóng. Một cái ống khóa lớn khóa trái cửa lại. Hỏi người hàng xóm thì biết rằng bà thầy sợ quá dọn về nhà người em ở mãi dưới Thanh phong.
Không dám đứng lâu trước cửa bởi tự nhiên nó bỗng lây cái sợ của bà thầy. Nó đi ngược lại, không dám ghé nhà bác Tư Lô. Nó đi trở lại con đường Thống Nhất. Nơi này hàng ngày nó gõ keng keng để dìu chân ông thầy Huyền Linh. Những cửa hiệu vẫn tấp nập như không hề có sự đổi thay gì. Cũng những cái áo mưa treo thùng thình, những cái lò đốt bằng dầu lửa sơn xanh. Hiệu thuốc tây có xếp một núi sữa hộp, hiệu bán đồ sắt ngỗn ngang, hiệu ăn sắp bàn từng dãy.
Nó đi lần về phía cầu Ông Cọp... cầu Nước Đá. Đến bến xe đò. Tự nhiên lời nói của ông cảnh sát mập mập đánh vào tai nó “Về xứ sở của mày... Bắt một lần nữa tao không tha”. Xứ sở của nó bây giờ? Bà con làng nước của nó bây giờ? Tất cả chỉ còn có Dì Tám. Muốn hiểu thế nào thì hiểu, nó hiện giờ chỉ còn có dì Tám. Nghèo nàn, thiếu thốn nhưng Dì Tám không bỏ nó. Chật hẹp bẩn thỉu nhưng ở cái nhà của Dì Tám nó chưa bị lục soát và dẫn đi. Chỉ còn có Dì Tám làm cái cọc giữa dòng để thân phận rong rêu của no tạm bám víu gởi thân.
Nó leo lên chiếc xe đò mà mới hồi nào nó theo bác Tư Lô bước lên ngồi. May trong túi còn bảy mươi đồng, gom góp tiền của ông thầy Huyền Linh cho. Nhiều bữa ông biểu ăn cà rem mà nó chịu nhịn đợi về nhà tu một hơi nước lạnh. Bảy mươi đồng đủ tiền một vòng xe. Mất cái mũ lác và bộ quần áo lấy ra không được. Phải chi bà thầy đừng có nhút nhát quá. Vốn liếng đã chẳng có thêm, trái lại cứ mỗi ngày mỗi bớt. Bảy mươi đồng bạc trong túi lát nữa đã hết sạch. Về với Dì Tám với hai cái túi sạch trơn, không một bộ quần áo để thay, không còn cái mũ lác trên đầu. Nghĩ đến cái mũ trên đầu, nghĩ đến Dì Tám, nó nói thầm:
— Dì ơi, con thương Dì, con ăn nhịn để dành mong có đủ một trăm đồng để mua cái nón đem về tặng Dì. Thế mà số con lao đao kiểu này thì cái mộng ước của con biết bao giờ con mới thực hiện được?