← Quay lại trang sách

Chương 13

LIỀN tối hôm đó, Thúy được nghe Dượng Tám ở Ba Ngòi về kể chuyện ông chủ nhà máy nước đá Phụng Hoàng.

— Bây giờ coi như ổng giàu nhứt ở Cây Số Chín. Hai cái nhà lầu ba từng. Xe du lịch Huê kỳ. Bốn, năm cái xe jeep cho mướn. Hai nhà máy nước đá, một cái ở Cây Số Chín, một cái ở Đá Bạc. Ba máy xay gạo. Lại còn làm đại lý cho hãng xe Datsun.

Dì Tám trầm trồ liền:

— Ngon quá há. Giàu gì mà giàu dữ vậy?

— Mà má mày biết ông xuất thân ra làm sao không? Người ta nói cách đây hai năm ông thất nghiệp, ở trọ một nhà bà con ở Khu Máy Nước. Làm đủ nghề táp nham: thầu xây cất nhà tiêu, nhà tắm, nhà bếp, dạy mươi đứa nhỏ học vỡ lòng, chạy môi giới bán nhà và bán xi măng chợ đen. Làm ăn chẳng ra chi, chẳng có nghề nào là chuyên môn ráo, rốt cuộc nợ bù đầu. Ngày rời bỏ khu Máy Nước là ngày tàn của ổng rồi. Có một cái xe đạp khổ cũng bị xiết nợ. Vậy mà hai vợ chồng vô Cam ranh mới có hai năm đã thành triệu phú rồi.

— Chắc gia tài bữa nay cũng có tới mấy chục triệu chớ chơi đâu, mình hả?

— Sợ còn hơn nữa.

— Người gốc ở đâu vậy, mình biết không?

— Không rõ. Đâu bộ cũng người Tuy hòa hay Ninh hòa chi đó,

— Hay là người Quảng, người Huế?

Dượng Tám lắc đầu:

— Chắc không phải,

— Mình có gặp mặt chưa?

— Có. Bữa ông có kêu tôi lại đào cái giếng. Ngó người cũng còn nhỏ.

— Chừng bao nhiêu?

— Băm bảy, băm tám là cùng. Bà vợ cũng đâu lối băm ba băm tư.

— Trời ơi! Còn nhỏ mà mau giàu dữ chưa! Sướng quá. Bà vợ mặt mũi đẹp chớ, mình?

— Cũng dễ coi. Ngó mày mạy như vợ ông giáo Đệ. Cũng ốm ốm trắng trắng như vậy.

— Người hiền không?

— Chắc cũng không hiền lắm. Ui, mà thây kệ họ. Hiền dữ là chuyện của ông Trời ông Phật lo. Lo biên chép sao đó để mà thưởng phạt cho đúng, đừng bày đứa dữ làm giàu, đứa hiền chết đói, chết đạn.

— Dám lắm đó mình. Nghe ông Liên gia trưởng nói thời Mạt pháp, hội Long «qua» Long lại gì đó không biết mà mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình. Người nhơn đức thì còn, kẻ ác đức thì chết. Chị Năm thợ may mới hỏi chớ sao bà Vĩnh Hưng vừa cướp chồng người ta, vừa trai gái luột sổ với đủ thứ đàn ông vậy mà giàu thôi nứt đố đổ vách. Vừa rồi mới qua Nhật mổ mí mắt, lóc mỡ cho ốm bớt, ủi da cho trẻ.

Dượng Tám cười hả hả, rung rinh cả chiếc giường:

— Mày nói cái gì nghe gớm vậy? Cái gì lại lóc mỡ? Y như làm thịt heo vậy?

Thúy nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Có một chút bất như ý làm vấn vương đầu óc nó. Đó là câu nói của Dượng Tám “ Chắc cũng không hiền lắm”. Giá Dượng nói “Cả hai vợ chồng ăn ở hiền lành phước đức” thì câu chuyện thật đẹp đẽ hoàn toàn. Nhờ ở cố gắng, nhẫn nại, thông minh, chịu khó mà lập nên một cơ nghiệp trong hai năm! Con người có quyền và có bổn phận phải lanh lẹ, tính toán, tháo vát, nhưng nhất định không được gian xảo, độc ác, dữ tợn. Có một câu chữ Nho mà hồi xưa Ba nó hay nói: “Đại phú do Thiên, tiểu phú do Cần”. Ba nó giảng:

— Làm giàu lớn là nhờ phúc Trời, làm giàu nhỏ là do mình siêng năng. Phải siêng năng chịu khó trước rồi mới trông hưởng thêm phước Trời. Cái phước Trời lại cũng do lòng nhân đức của mình mà có.

Thúy vụt thấy như có một luồng điện chớp lên trước mắt, chuyển chạy qua cơ thể nó. Lời khuyên đó đi kèm với câu chuyện lập nghiệp với ông chủ hảng nước đá Phượng Hoàng như có gì phù trợ nhau và rọi sáng vào trí não của nó. Tại sao mình lại không áp dụng cho mình? — nó nghĩ. Tại sao mình lại chỉ sống qua ngày, chỉ biết vui buồn theo số bong bóng bán được nhiều ít? Đâu có lẽ rồi mình để cuộc đời của mình sẽ trôi tiếp, phiêu lưu vô định như vây? Bản bóng cao su rồi sau đó bán bún bò? Bán nước mía? Thúy lắc đầu. Không.

Phải chi có ai giúp mình! Bà Đức Lợi... Thúy rùng mình khi chợt nhớ đến bà Đức Lợi. Dì Tám thì nghèo. Họ hàng không có. Nhưng kìa, ông chủ hãng nước đá Phượng Hoàng có họ hàng nào giúp đâu? Ông ta lăn xả vào đời với hai bàn tay trắng, với cái xe đạp bị xiết nợ, với sự quyết tâm ngùn ngụt trong óc.

Đêm đó Thúy trằn trọc không ngủ được. Thân mình trăn qua trở lại trên chiếc chiếu rách, ý nghĩ “mình nên lập chí như thế nào” trăn qua trở lại trong óc. Mình còn nhỏ, không thể đi vô Cây Số Chín làm giàu. Tuổi của mình là tuổi đi học. Chỉ có học, nhưng mà học đâu phải là công việc một năm, nửa năm? Học với ai? Học cái gì? Phương tiện đâu mà học? Những ý nghĩ cứ chạy quanh các câu hỏi đó và nó lắng nghe những tiếng gà gáy trong đêm sâu.

Sáng hôm sau, một cái xe Lam ba bánh đi rải giấy quảng cáo vô tình đã đem lại cho nó câu trả lời. Lúc bây giờ nó đang vác cành cây bong bóng đi lang thang trên đường Lê Thánh Tôn. Khi nó đi ngược lại một đoàn nữ sinh đang đi tắm biển thì có một chiếc xe Lam ba bánh lạch bạch chạy tới. Một người ngồi trong xe tung ra một nắm giấy. Các cô nữ sinh ào lại lượm. Nó cũng chạy theo lượm được hai tờ. Mở ra coi. Đó là tờ quảng cáo lớp Anh văn thực hành. Đường rộng ít người đi, không có trẻ con, nó có thì giờ để đọc kỹ những lời quảng cáo:

“ Lớp Anh văn thực hành mở tại trường Trung học Thiện Đức. Do giáo sư Trương an Thạch, mười lăm năm kinh nghiệm và một ban giáo sư Việt Mỹ chọn lọc có máy ghi âm luyện giọng. Mỗi đầu tháng đều có khai giảng lớp mới. Xin ghi trước để chọn chỗ ngồi tốt”.

Một tấm ảnh chụp ngôi trường với học sinh vô ra. Những tờ quảng cáo như thế này, một kẻ lưu lạc trên đường phố như nó được dịp đọc luôn. Quảng cáo mở lớp Hè. Quảng cáo tiệm uốn tóc. Quảng cáo thuốc điều kinh bạch đái. Quảng cáo tuồng cải lương. Nó lật qua trang sau. Trang sau đầy kín chữ. Ở trên đầu ghi: “Bảng kê Động từ

bất quy” (List of irregular verbs). Trang giấy chia thành bốn cột. Động tự xếp theo thứ tự ABC, ở thể nguyên mẫu, ở thời quá khứ, quá khứ phân từ, nghĩa dịch sang tiếng Việt.

INFINITIVE PAST TENSE PAST PART NGHĨA

To be was been là, ở

To bear bore born sinh đẻ

To beat beat beaten đánh đập

.....

Thúy xếp gọn một tờ bỏ tủi, tờ kia cầm ngửa trên tay. “Hãy bắt đầu sự học bằng bảng kê động từ bất quy này. Khi đã thuộc hết thì có thể học một cuốn từ điển Anh Việt. Cứ học đã, tới đâu chưa biết”, nó thầm nhủ với nó như vậy.

— Te te... Bóng su đe...

Và tiếp theo, giọng nhỏ hơn:

— To begin... began... begun... bắt đầu.

To bend... bent... bent... uốn cong.

Chừng một tuần nay, nữ dược sĩ Nhã Uyên để ý thấy có một em bé bán bong bóng hay đứng lảng vảng trước hiệu thuốc Tây. Ngoài những lúc cất tiếng rao hay thổi còi te te hay thổi bong bóng bán cho lũ trẻ con, em bé hay ngồi ghé ở hiên hiệu thuốc, mở một tấm giấy ra nhìn, lẩm nhẩm nói gì đó rồi cất tờ giấy vào túi. Em không hay nói chuyện với ai, cũng ít hay la cà dòm vào các cửa hiệu hay các khách qua đường.

Cô dược sĩ lưu ý nhìn vào khuôn mặt của em bé và thấy đó là một khuôn mặt thùy mị với những nét đẹp đều đặn. Đôi mắt sáng thông minh. Cái mũi thẳng. Miệng nhỏ và môi đỏ. Mỗi khi em cười, nơi má có hiện ra hai núm đồng tiền xinh xinh.

Một hôm em đang đứng thổi cái còi te te thì một quân nhân Mỹ cao nghễu đi qua. Người quân nhân đứng lại nhìn em. Trên tay sẵn cầm một phong kẹo cao su, người quân nhân trao cho em nhưng em lắc đầu. Chừng như sợ em không hiểu ý, người quân nhân Mỹ nhét luôn phong kẹo vào túi em, nhưng em vội móc túi lấy ra đặt trả vào tay người quân nhân, vừa lắc đầu. Người quân nhân nhìn em giây lâu. Rồi nhún vai, y bỏ đi. Cô dược sĩ đứng nhìn từ đầu đến cuối. Khi người quân nhân đã bỏ đi xa, cô rời quầy ra đứng ở hiên. Cô lên tiếng gọi:

— Bong bóng!

— Dạ.

Em bé đi lại gần.

— Thưa cô, cô mua cái nào?

Cô dược sĩ chỉ một cái màu xanh dương: Em bé hạ thấp cành lá xuống, nhanh nhẹn tháo dây.

— Thưa cô, cô cho cháu năm đồng.

Cô dược sĩ nhận cái bong bóng nhưng chưa trả tiền vội. Cô hỏi:

— Người Mỹ Ịúc nãy cho em gói gì đó?

— Thưa cô phong kẹo cao su.

— Em có quen với ông ta?

— Thưa cô không.

— Sao em không nhận?

— Thưa cô...

Em bé lúng túng.

— Em không thích kẹo cao su phải không?

— Dạ.

— Em có thể nhận rồi đem bán lại hoặc đem cho một đứa nhỏ khác.

— Dạ.

— Thế tại sao em không nhận?

— Cháu không thích nhận quà của người lạ.

— Nếu cô cho em chẳng hạn, em cũng không nhận?

Em bé nhìn cô dược sĩ mỉm cười.

— Sao?

— Cháu chưa biết. Nhưng với người ngoại quốc thì cháu...

—... thì cháu biết.

Cô dược sĩ cười. Em bé cũng cười theo.

— Sao? Em có thể giảng cho cô nghe rõ không?

— Cháu thấy người ngoại quốc thường tỏ ý khinh dân tộc mình vì một số lớn dân tộc mình có tánh ưa xin xỏ. Xin không được thì ăn cắp.

— Em thường thấy?

— Dạ cháu thấy hoài. Ở trước cửa mấy cái Bar đầy dẫy người đứng xin.

— Tại họ nghèo...

— Nghèo nhưng chưa tới nỗi phải đi xin. Giả tỉ như không có người ngoại quốc tới đây thì xin ai? Đã nghèo mà còn ưa xài sang. Hồi xưa tổ tiên mình đâu có cần uống cà phê, dùng nước đá, quạt máy? Cháu nhớ hồi thầy giáo cháu có kể lại một chuyện xảy ra bên Đức thì phải. Hồi đó nước Đức mới bại trận, nghèo lắm, đói lắm. Cái gì cũng thèm, thèm thịt thèm đường, thèm cà phê thuốc lá. Quân đội Mỹ thắng trận và giàu, xài sang, hút thuốc lá có khi mới tới nửa điếu đã ném. Tức thì có năm ba người Đức đứng gần đó chạy lại lượm lên hút, có khi phải tranh giành đấm đá nhau. Một hôm nọ có một thiếu nữ Đức đi qua thấy có một quân nhân Mỹ vừa ném một điếu thuốc cháy dở. Điếu thuốc lăn lại gần chân cô ta và cô ta liền dùng gót giày dí nát tan tành điếu thuốc. Có mấy người Đức đang lăm le chạy lại nhặt lên hút đã phải vô cùng thất vọng. Có lẽ họ đang phẫn nộ. Người quân nhân Mỹ thì ngạc nhiên và cảm phục lòng tự ái dân tộc của cô gái nọ. Người Mỹ hay người nước nào cũng biết kính nể ngươi tự trọng.

Câu chuyện đó cô dược sĩ đã được đọc một lần trên báo.

— Em có trí nhớ tốt. Kể chuyên mạch lạc.

— Cháu chỉ nhớ mang máng. Chắc có nhiều chỗ kể sai. Lâu ngày quá rồi.

— Hồi trước em có đi học?

— Dạ thưa cô có.

— Em học tới lớp mấy?

— Dạ thưa cô cháu học tới lớp Đệ Thất.

— Ê! Bong bóng cao su! Đem bong bóng qua mua!

— Có đây! Có đây!

Em bé lật đật vác cành cây lên vai.

— Thưa cô cho cháu chạy qua bán bong bóng cho nó.

Cô dược sĩ trao một đồng bạc chì mười đồng. Nó cầm lấy.

— Để cháu chạy qua bán bong bóng cho nó đã rồi con trở lại thối năm đồng cho cô.

Cô dược sĩ gật đầu. Cô muốn cho em luôn năm đồng đó nhưng cô biết chắc là em sẽ không nhận. Làm như vậy sự chạm tự ái của em. Cô bâng khuâng bước vào quầy, nét mặt đăm chiêu dù rằng trong lòng thấy vui. Bởi niềm vui đó không đơn giản, không thể biểu lộ ra bằng một tiếng cười hay bằng một câu nói dễ dãi, ồn ào.

Khi em bé trở lại thối tiền, cuộc đối thoại lại tiếp tục. Cô dược sĩ hỏi trước:

— Từ nãy giờ cô quên hỏi tên em.

— Thưa cô cháu tên Thúy.

— Có một điều này cô cũng muốn hỏi em ngay. Cô thấy em cứ thỉnh thoảng mở một tờ giấy ra đọc rồi xếp lại. Tờ giấy biên cái gì mà hay vậy?

Thúy cười thành tiếng, móc túi áo lấy tờ quảng cáo lật mở ra trang « Bảng kê động từ bất quy » trao cho cô xem.

— Cháu ngồi không, học thuộc mấy cái động từ.

Cô dược sĩ đọc trang giấy rồi nhìn kỹ vào mặt Thúy. Tia nhìn dịu dàng.

— Em định học Anh văn để làm gì?

— Thưa cô, con không biết. Con chỉ mới biết học cái đã. Tự học tiếng Anh dễ hơn. Đọc lên rồi lẩm nhẩm vừa đi vừa nhớ. Học Toán thì phải mở sách ra ngồi coi.

— Lúc nãy em nói em học đến lớp Đệ Thất rồi em nghỉ học. Sao em nghỉ chi sớm vậy?

— Quê cháu bị chiến tranh, cháu lưu lạc vô đây. Cháu ở nhờ nhà Dì Tám cháu. Dì dẫn cháu đến ở nhà một bà Đại úy. Bà hứa cho cháu đi học nhưng rồi bà không giữ lời hứa. Được mấy tháng, bà đuổi cháu về trở lại nhà Dì Tám.

— Rồi sau đó?

— Cháu theo lên ở giúp tay cho một nhà tráng bánh ở trên Diên khánh. Kỳ lụt vừa rồi trôi hết nhà cửa.

— May mà không chết đuối.

— Dạ. Sau đó cháu đi Phan rang. Bị nghi ăn cắp tiền, cháu bị đánh mội trận gần chết. Cháu nhờ ông thầy bói đem về nuôi.

— Sao em không ở luôn với ông thầy bói?

— Dạ nhà ông thầy bói bị xét sổ gia đình, cháu bị lùa về nhốt ở Ty cảnh sát. Được thả ra, cháu theo xe đò về đây. Chưa hết. Nhà Dì Tám chật chội, Dì cho cháu sang ở nhà bà Mười Lùn. Cháu theo con Nhâm con bà Mười đi bán trứng vịt lộn. Tối gánh gánh đi bán, sợ tui Mỹ say và tụi cao bồi. Có bữa hai bên đánh lộn nổ súng, bọn cháu gánh chạy đổ trứng bể đèn.

— Vì đó mà em thôi bán trứng?

— Thưa cô không phải. Ông Mười Lùn ở làm bồi cho bọn Phi luật tân. Một bữa cháu nghe ông bàn với vợ để đợi vài năm cháu lớn ổng dẫn cháu theo làm bồi. Trời ơi, cháu nghe được sợ quá, về thưa với Dì Tám. Dì bắt cháu về. Cháu chọn nghề bán bong bóng. Chịu khó nắng nôi, chịu khó ăn ở chật chội nhưng mà Dì Tám thương cháu thiệt. Tuy Dì không phải là bà con chi với cháu.

— Em nói quê của em bị giặc giã, vậy quê của em ở miền nào?

— Dạ ở Xuân phước.

— Xuân phước tức là Xuân Long đi lên phải không?

— Dạ phải.

— Có phải là Đồng Tranh không?

— Dạ phải. Sao cô biết chỗ đó?

Gương mặt cô dược sĩ có vẻ xao xuyến. Cô cúi xuống gần Thúy hơn.

— Tại hồi trước cô có ở đó một thời gian.

— Hồi nào vậy cô?

— Hồi kháng chiến.

— Cô ở ngoài đó được bao lâu?

— Gần bốn năm.

— Trời ơi, dài ghê chưa. Chắc hồi đó cháu chưa sinh. Hồi cháu còn nhỏ má cháu hay kể lại rằng thời kháng chiến khổ lắm. Tây nó thả bom và bắn súng liên thanh xuống chợ Đồng Tranh hoài. Phải xuống hầm tròn núp máy bay, mỗi ngày có đến năm bảy lượt.

— Em ở gần chợ Đông Tranh hả?

— Dạ

— Vậy em có biết gia đình ông Tùng không? Ông Tùng làm y tá.

Thúy quay phắt lên nhìn cô dược sĩ làm cô ngạc nhiên:

— Sao vậy?

Thúy không trả lời. Chi đăm đăm nhìn cô dược sĩ. Cô đặt một tay lên đầu nó:

— Sao vậy? Sao em không nói? Em không biết ông Tùng hả? ông có người vợ có cái nốt ruồi nơi cằm.

Thúy lắc đầu không trả lời. Đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn cô dược sĩ. Đôi mắt đó chợt nhòa đi trong một giây và hai giọt nước mắt chầm chậm ứa ra chảy dài trên má.

— Sao em khóc?

— Dạ... thưa cô... ông Tùng... là...ba cháu.

Cô dược sĩ giật mình. Cô hỏi gấp:

— Thiệt vậy không con?

— Dạ.

— Có phải má con có cái nốt ruồi nơi cằm?

— Dạ.

Cô dược sĩ kêu to lên:

— Chị Trâm chị Hòa ơi, em nhỏ này là con của người quen của tôi.

Cô Trâm đứng bán thuốc, cô Hòa ngồi két lật đật bỏ chỗ chạy lại vây quanh Thúy. Thúy vẫn còn ròng ròng hai dòng nước mắt.

— Bốn năm kháng chiến, tôi tá túc nơi nhà của ba má em đây. Bây giờ ngẫu nhiên mà tôi gặp em lưu lạc nơi này. Anh Đại, lại cầm cái cây buộc bong bóng này ra sau nhà. Thôi, con đứng dậy theo cô lên gác. Sáng hôm sau anh nghỉ bán. Con lên trên gác để cô hỏi chuyện đã.

Thúy bỡ ngỡ trao cành lá cây buộc chuỗi bong bóng cho anh Đại. Anh huơ mạnh tay, nó sợ bong bóng chạm vào nhau nổ. Mỗi cái vốn tới ba đồng. Nó nói:

— Anh dựng dùm cho khỏi ngã. Bể bong bóng của em.

Đại cười:

— Mấy trăm mà sợ dữ vậy? Bể mấy cái, anh đền.

Thúy bước sau cô dược sĩ đi vào phòng trong, leo lên cầu thang. Cô Trâm cô Hòa đi kèm. Cô Hòa quay lại gọi:

— Đại ơi, nhờ anh Vĩnh coi dùm két cho mình một lát.

Căn phòng trên gác làm phòng riêng của cô dược sĩ. Tuy vậy, có kê đủ một bộ xa lông nhỏ, một bàn viết và một bàn phấn ngoài cái giường rộng trải ra trắng nuốt. Mỗi nguời ngồi trên một ghế sa lông. Cô dược sĩ bắt đầu:

— Cô lo sợ cho ba má con...

Cô im lặng, khó nói tiếp. Thúy đã quen với hoàn cảnh khốn khổ của mình nên trình bày liền.

— Sao con thoát nạn được một mình?

— Con đang đi học. Nếu ở nhà, con cũng bị chết luôn.

Cô dược sĩ đã chuẩn bị tinh thần để đón nghe những tin tức, những trường hợp bi thảm. Cô dàu dàu nét mặt rồi quay nói với cô Trâm, cô Hòa:

— Năm 1915, tôi chạy ra miền tự do. Lúc đó tôi được mười lăm tuổi. Yêu nước, thích phiêu lưu mạo hiểm, ưa làm nữ anh hùng, tôi lén bỏ nhà theo mấy chị du kích. Ba má cho người lùng tìm về mà cũng nhất định không về. Tôi theo bộ đội đi lọt qua Dốc Mỏ, tới tỉnh Phú yên. Những năm tháng phiêu lưu bắt đầu từ đó. Nào là đi học trường Trung học Bình dân Quảng ngãi, nào là theo quân y viện, nào là công tác tuyên truyền văn nghệ.., thôi, đủ thứ. Trong những ngày tháng phiêu lưu đó, tôi quen biết ba má Thúy. Lúc bấy giờ ba Thúy làm y tá, mới cưới má Thúy. Tôi tập sự ở Dân y viện hồi đó đóng tại Hà bằng nên quen với ba Thúy. Má Thúy rủ về ở chung. Cứ kêu bằng anh Năm chị Năm. Một hồi bị bệnh thương hàn thập tử nhất sinh, nếu không nhờ anh Năm chị Năm thì tôi không còn sống tới nay. Rồi tiếp tới năm xảy ra nạn đói. Pháp nó tấn công về mặt kinh tế, thả bom những công trình dẫn thủy, bắn trâu bò cày. Giá gạo tăng lên hai ngàn rưỡi đồng tín phiếu một ký. Nhiều nhà ăn cháo trừ cơm, nhiều nhà lên rừng đào củ mài, củ khoai khai mà ăn. Nhiều nhà làm thịt cóc ăn đỡ đói, bị trúng độc ói mửa mà chết. Tôi ăn ở nhờ nơi anh Năm chị Năm. Đến năm 1950 tôi mới lọt về trong này. Tôi đi học lại...

Bốn người đột nhiên im lặng, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ riêng. Tiếng xe rầm rầm, rẹt rẹt, lạch bạch đuổi nhau ở dưới đường. Cô dược sĩ nhờ cô Trâm pha nước uống cho mỗi người. Cái tủ lạnh nhỏ ở kề tay có sẵn những chai nước ngọt.

Khi Trâm rót đầy Bireley’s vào cái cốc đặt trước mặt Thúy, nó nói:

— Cô cho em uống ít thôi. Uống nhiều, đi nó xóc ruột lắm.

Trâm hỏi:

— Đi đâu?

— Dạ đi bán.

Hòa cười:

— Sao mà ghiền đi bán bong bóng vậy?

Thúy ngơ ngác nhìn sang cô Hòa:

— Dạ?

Cô dược sĩ đưa một bàn tay ra chỉ về cái cốc:

— Con uống đi.

Thúy “Dạ” và đưa cốc lên môi. Đứng ngoài nắng suốt mấy giờ, bây giờ những ngụm nước lạnh chạy có luồng trong thực quản, trong dạ dày. Nó nhìn gian phòng. Trắng và sạch và gọn. Dăm cành hoa rẻ quạt màu đỏ cắm trong một cái lọ cổ dài. Rèm cửa sổ xanh nhạt. Một tủ sách bằng gỗ trắng trong xếp đầy những cuốn sách gáy màu đỏ màu xanh có mạ chữ vàng. Nhìn khắp gian phòng. Thúy thích cái tủ sách hơn hết. Giá mình học giỏi để đọc được những cuốn sách cao quý kia!

Gió mát từ cửa sổ lùa vào làm phất phơ bay những tấm rèm cửa. Gió mát lại phát ra từ cái quạt trần cánh dài màu trắng. Cô Hòa nói chuyện với cô dược sĩ về vụ một ông Bác sĩ chích thuốc phá thai bị đưa ra tòa. Cô dược sĩ để tai nghe một cách lơ đãng. Dường như cô đang bận suy nghĩ gì đó. Thúy cảm thấy đã đến lúc mình nên xin phép lui. Quấy rầy thì giờ người ta nhiều rồi. Nó đứng dậy:

— Thưa cô…

— Sao? Con uống nữa đi chớ?

— Thưa cô, con xin phép cô cho con đi.

— Không. Con cứ ngồi uống đi đã. Cô... à, cô đang suy nghĩ một điều... ờ, cô đang tính đem con... đem về đây...

Thúy giật mình. Hay là mình nghe lầm? Nó không dám nhìn thẳng vào mặt cô dược sĩ nữa. Nó như kẻ có lỗi. Ừ, mình luôn luôn là kẻ có lỗi. Chỉ bởi một lý do là mình đang nghèo khó bơ vơ. Lăn trên những bàn tay tự xưng là từ thiện. Thúy chợt nghĩ đến bác Tư Lô, bà Đức Lợi. Những kỷ niệm đau buồn làm nó tắt mất niềm vui. Giọng cô dược sĩ:

— Mà không biết Dì Tám có bằng lòng không.

Trâm:

— Bằng lòng mê đi. Còn đợi gì?

— Biết đâu? Kinh nghiệm về bà Đức Lợi làm họ dè dặt.

— Nhưng cô thì khác, cô có ân nghĩa quen biết với ba má em. Vả lại, Dì Tám đâu có quyền chi?

— Nói vậy không được. Đó là người thương em hơn hết, lo lắng cho em hơn hết, lo lắng cho em hơn hết trong lúc này. Tình thương chân thành đó khiến Dì có quyền.

— Nhưng cô thương em cũng như Dì.

— Chưa chắc Dì đã tin như vậy.

— Thì mình nói cho Dì tin chớ.

— Ờ, mình sẽ nói. Thôi, bây giờ mình quyết định như thế này: Trâm! Trâm đưa Thúy qua hiệu Liên Hà nghe. Chọn cho em một bộ pyjama. Hai bộ áo đầm. Đôi giầy. Cái mũ. Hỏi ý em thích màu gì, kiểu gì. Xong đâu đó, đưa em lại hiệu Kinh Đô cắt tóc cho em. Đừng uốn sấy Ịàm chi. Em còn nhỏ. Trâm xuống lấy tiền dưới két. Sau đó, Trâm nói với chị bếp tắm rửa cho em. Chừng một giờ là xong xuôi đâu đó chớ gì.

Trâm:

— Dạ độ đó.

Cô dược sĩ nhìn xuống đồng hồ tay:

— Vậy là mười một giờ rưỡi tôi có thể lái xe đưa em về nhà Dì Tám để xin phép. Thúy này, đường vào nhà con, xe có chạy được không?

— Dạ thưa cô được. Xẹ đỗ ở đường lớn rồi đi bộ chừng hai mươi thước.

— Trâm và Hòa cùng đi với tôi luôn nghe?

— Dạ.

Cô dược sĩ nhìn lên tấm lịch treo tường:

— Hay chưa! Hôm nay thứ Sáu ngày Mười Ba. Ai cũng chê là ngày xấu nhưng đối với tôi, đó là ngày tốt nhất (Thúy cũng đang nghĩ như vậy) Nào! Chúng ta bắt tay vô việc liền. Tôi xuống Ty Thuế vụ bây giờ để trả lời về khoản thuế sản xuất họ hỏi hôm qua. Tôi sẽ trở về đúng Mười một giờ rưỡi.