← Quay lại trang sách

Chương 6

Dư Vĩ không ngờ cuộc đời Lâm Phong lại trải qua nhiều sóng gió đến thế. Chính những biến cố ấy đã tác động tới tư tưởng, tình cảm của cậu. Dư Vĩ còn bất ngờ hơn vì số phận cuộc đời cậu lại bị ảnh hưởng sâu sắc bởi một người phụ nữ như Nghiêm Trâm. Lâm Phong đã tập trung rất nhiều bút mực để viết về người phụ nữ này chứ không tản mạn, rời rạc như khi miêu tả các cô gái kiểu Lâm Miên ở phần trước.

Trong phần này Lâm Phong còn tả rất nhiều cảnh dâm loạn, như cảnh thầy giáo khoa Văn nhìn thấy Lâm Miên và bạn trai cô làm tình, cảnh Trình Nhất Đào sống chung với bạn gái, những cảnh loạn luân mà Giai cấp vô sản xem được trên mạng, rồi cả cảnh cậu thủ dâm ra sao. Những chi tiết này kể cũng khiến người đọc ghê tởm. Chắc đây chính là điều mà Tiếu Nhân nhắc tới.

Lâm Phong không mang phần tiếp của tiểu thuyết đến. Dư Vĩ sắp phải đi Thượng Hải tham gia hội nghị Công tác tư vấn tâm lý cho sinh viên đại học trên phạm vi toàn quốc, phải viết bài giới thiệu tình hình tư vấn tâm lý cho sinh viên đại học ở nước ngoài nên anh không đi tìm Lâm Phong được. Anh nghĩ, chắc cậu sẽ tới gặp anh.

Vụ liên quan đến Lâm Miên trong tiểu thuyết là có thực, chỉ có điều tên nhân vật đã được thay đổi. Dư Vĩ về trường công tác ít lâu thì biết chuyện này. Nhà trường và cô sinh viên đó vẫn không thỏa hiệp được với nhau. Thực ra, Dư Vĩ đoán, cô sinh viên – thôi, gọi cô ấy là Lâm Miên – không để tâm lắm đến chuyện thắng hay thua; cô ta chỉ muốn nhờ chuyện này để đánh bóng tên tuổi, mong trở thành người nổi tiếng, mặc dù đây không phải là chuyện tốt đẹp gì. Nhưng chuyện này lại có ảnh hưởng rất lớn tới nhà trường. Kể từ đó trở đi, nhà trường đã rất cố gắng trong việc tăng cường công tác quản lý; thậm chí việc xây dựng khoa Tâm lý học và thiết lập phòng chuyên tư vấn tâm lý ở khu sinh viên đều có liên quan phần nào với sự việc này. Qua đó có thể thấy, cuốn tiểu thuyết cậu viết đích thực là tiểu thuyết tự truyện, phần lớn các sự kiện được miêu tả đều có thực.

Hằng ngày Tiếu Nhân vẫn về nhà ngủ. Bố cô lại nhắc đến cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng nhật ký của Lâm Phong, cô bèn đòi Dư Vĩ:

“Anh không nói với Lâm Phong, em và bố em cũng không kể với ai thì làm sao có người biết được? Huống hồ, cậu ta viết là để cho người khác xem cơ mà! Nhưng sao lại viết trơ trẽn vậy nhỉ?”

“Coi em kìa, không thích truyện của người ta mà vẫn cứ đòi đọc.” Dư Vĩ trêu.

“Không phải em mà là bố em. Còn lâu em mới thèm đọc loại tiểu thuyết bệnh hoạn đó.”

“Đừng nói vậy, Tiếu Nhân, anh nghĩ em nên đọc nó. Chỉ có điều phải đọc với thái độ nghiêm túc của một người nghiên cứu, đọc bằng tất cả sự cảm thông của lòng mình. Nó không phải là cuốn tiểu thuyết mua vui rẻ tiền, cũng không đơn thuần là tác phẩm văn học. Nó là một cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa rất nghiêm túc đấy.”

“Không đọc đâu, em thèm vào nghiên cứu cái thứ đó.”

Thấy không thuyết phục được Tiếu Nhân, Dư Vĩ đành giao hẹn với cô: Trong mười ngày Dư Vĩ đi công tác, họ phải tranh thủ đọc xong, đến khi anh quay về sẽ lấy tiếp phần sau. Tiếu Nhân mang cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong về rồi, Dư Vĩ cũng vội thu thập tài liệu để viết bài. Ngày kia lên đường, chỉ còn chưa đầy hai ngày nữa. Có rất nhiều tài liệu phải tìm ở thư viện trường và ở trên mạng.

Ăn xong cơm tối, Dư Vĩ đang chuẩn bị đọc tài liệu thì có người gõ cửa, tưởng là Tiếu Nhân, hóa ra lại là Lâm Phong. Cậu ta cầm trên tay một tập bản thảo, Dư Vĩ biết đó là phần sau của cuốn tiểu thuyết. Lâm Phong rụt rè hỏi Dư Vĩ đã đọc hết phần trước chưa, Dư Vĩ nói đọc rồi, rất chân thực, rất có giá trị. Nói được một lát, Dư Vĩ bắt đầu cao hứng, anh nói anh có sự đồng cảm sâu sắc với nhiều đoạn mà Lâm Phong viết trong tiểu thuyết, đặc biệt đoạn viết về người “chị họ” đó rất tốt.

Họ nói khá nhiều chuyện. Dư Vĩ khuyên Lâm Phong nên viết nhiều tiểu thuyết nêu ra được vấn đề như thế, đặc biệt là những mâu thuẫn, xung đột trong nhân tính bị coi nhẹ nhưng rất phổ biến đó.

Được Dư Vĩ khích lệ, Lâm Phong cũng cảm thấy cuốn tiểu thuyết mình viết là có giá trị, Dư Vĩ bảo, khi nào chỉnh sửa kĩ càng, có thể gửi bản thảo cho một số nhà xuất bản, biết đâu sẽ gây được tiếng vang lớn. Dường như Lâm Phong cũng rất tin tưởng vào việc đó. Dư Vĩ biết, nguyên nhân căn bản khiến Lâm Phong không muốn để người khác đọc chẳng qua là sợ bị chê cười ‐ một là sợ người khác chê cậu viết không hay, thậm chí toàn viết những chuyện tục tĩu; hai là sợ người khác nói cậu đang viết về chuyện của bản thân, sợ người khác nhìn thấu nội tâm mình. Xuất phát từ nguyên nhân này nên họ còn đề cập sâu hơn về tiểu thuyết thể tự truyện.

Lúc ra về, Lâm Phong như biến thành người hoàn toàn khác. Có lẽ đây là lần đầu tiên Lâm Phong hiểu và đánh giá cao bản thân mình. Cậu hỏi xin lại Dư Vĩ phần trước của tiểu thuyết, Dư Vĩ nói cứ để chỗ thầy, đợi thầy đọc xong phần sau sẽ gửi hết lại cho em, có một số chỗ thầy còn muốn xem lại cho kĩ. Lâm Phong tưởng thật nên vui mừng ra về.

Qua buổi nói chuyện này, Dư Vĩ cũng không ngại việc đưa tiểu thuyết của Lâm Phong cho người khác đọc nữa.

Phần sau của tiểu thuyết có khoảng mười mấy vạn chữ, Dư Vĩ đặt tạm lên bàn để khi nào về sẽ đọc tiếp. Anh còn dự tính là sẽ cùng Lâm Phong nghiên cứu, chỉnh sửa cẩn thận cuốn tiểu thuyết này và giúp cậu xuất bản.

Lâm Phong vừa về, Dư Vĩ vội tập trung vào công việc ngay. Trời vừa sáng, bản thảo cũng viết xong, anh liền yên tâm đi ngủ. Buổi trưa, Tiếu Nhân gọi điện thoại, nói gia đình cô muốn tạm biệt anh, bảo anh tối đến nhà chơi. Dư Vĩ biết đây không phải là ý Tiếu Nhân mà chắc chắn là ý của bố cô. Anh đồng ý. Buổi chiều sửa lại bài viết một lượt rồi in ra. Sau khi xong hết mọi việc, anh liền đến nhà Tiếu Nhân rất sớm.

Lúc đến nhà cô mới có năm giờ. Nhà văn già kể đêm qua đã đọc xong phần đầu cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong; những điều cậu ta viết khiến ông vô cùng sửng sốt.

“Chú không ngờ bây giờ trường đại học lại đổ đốn thế này. Tiếu Nhân chưa bao giờ kể cho chú nghe. Thỉnh thoảng chú cũng thấy báo chí viết về những chuyện tương tự nhưng vẫn tưởng đó chỉ là hiện tượng cá biệt.”

“Thực tế còn nghiêm trọng hơn cả như vậy cơ ạ. Bây giờ nó đã trở thành một vấn đề xã hội cần được giải quyết gấp.”

“Nhưng Dư Vĩ à, chú cứ tưởng cái này, cùng lắm cũng chỉ là một bài dưới dạng báo cáo văn học, nói khó nghe một chút là còn không bằng báo cáo văn học. Một nhà văn – chú muốn nói là một nhà văn chân chính phải là một kiến trúc sư tâm hồn của nhân loại, phải đứng từ trên cao để nhìn nhận vấn đề, phải biết lựa chọn tài liệu nguyên thủy và vận dụng linh hoạt các tài liệu nguyên thủy này để phục vụ cho tư tưởng của anh ta. Cậu sinh viên này có tư tưởng gì? Những cái mà cậu ta viết, chỉ là làm trò vui cho thiên hạ, nói chính xác hơn là dùng ba cái chuyện sex để kích gợi độc giả. Những thứ này, hiện tại xã hội có ít đâu? Hiện nay không phải là có các nhà văn LingLei[1] đó sao? Những người được mệnh danh là các nhà văn nữ xinh đẹp viết bằng cơ thể, không phải chuyên viết về những cái đó sao? Có giá trị gì? Đương nhiên rồi, các hiện tượng này cũng được phép tồn tại nhưng không nên khuyến khích.”

[1] : LingLei là xu hướng văn học phản ánh một xu thế tồn tại thực trong xã hội Trung Quốc. Đó là thế hệ LingLei (chiết tự nghĩa là “khác người”, “chơi trội”), một lớp người tự xưng là “tân hiện đại” (đã có cả tạp chí mang tên Tân hiện đại), theo đuổi lối sống bất cần, nổi trội, và tự do làm những gì họ thích... Vệ Tuệ, Miên Miên, Xuân Thụ… được mệnh danh là những “nhà văn thân thể”, chẳng những dùng thân thể để sáng tác mà còn dán cả mình vào trang bìa rồi bộc bạch đó là “tôi” ‐ ND.

Dư Vĩ cố gắng nói với ông bằng giọng ôn tồn:

“Thực ra cháu cũng rất mâu thuẫn. Mặc dù cháu không còn thấy lạ trước những điều mà cậu ta miêu tả, nhưng đây là lần đầu tiên những vấn đề này được đề cập đến dưới dạng một cuốn tiểu thuyết. Ở nước ngoài, có rất nhiều nhà tâm lý học nghiên cứu về hành vi tình dục và các chứng bệnh tâm thần của nhân loại, sau đó họ đều trở thành triết gia, trở thành các nhà tư tưởng quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của tư tưởng nhân loại, ví dụ Freud, Jung... Tại sao chúng ta lại không quan tâm đến vấn đề này? Không những không coi trọng mà hình như còn bịt mắt nói chưa bao giờ xảy ra. Và đến khi những thứ này được xã hội chú ý thì lại nói ngay là đạo đức suy đồi, rất ít người có thể đứng từ góc độ tâm lý học để nhìn nhận vấn đề; đây không phải là đảo ngược phải ‐ trái hay sao? Mặc dù tầm tư tưởng của cậu ta không cao nhưng lại có ý thức cầu tiến; mặc dù trình độ viết văn của cậu ta không cao nhưng cậu ta đã miêu tả rất chân thực, không giả tạo. Hiện nay các nhà văn đều có một nhận thức khá phổ biến là dùng những cái cao xa để xóa mờ nhân tính vốn rất chân thực, khiến những điều được miêu tả trong tiểu thuyết cũng phần nào giả tạo. Cháu cho rằng hiện tượng này còn đáng sợ hơn.”

Hai người tranh cãi, mặt đỏ tía tai, cả hai đều liếc nhìn tivi, đợi đối phương nói trước. Mẹ Tiếu Nhân đi ra, cười bảo Dư Vĩ:

“Ông ấy thì suốt đời chỉ thừa nhận một quan điểm thôi, chẳng ai cãi thắng được ông ấy đâu, kể cả có thắng thì ông ấy cũng không chịu công nhận. Cháu đừng đếm xỉa gì nữa, cứ kệ ông ấy.”

“Không, cô ạ, thực ra cháu không hiểu những chuyện này đâu, cháu chỉ đứng từ góc độ người ngoài cuộc để đánh giá thôi, cháu không có quyền phát ngôn.”

“Nhưng cô nghe cháu nói, thấy rất có lí, ông ấy nói ngang quá.”

Nhà văn già quay đầu lại, châm một điếu thuốc rồi nói:

“Đâu nào, ai dám bảo tôi ngang? Tôi là người thích tranh luận, nhưng ai nói có lí, sau khi tranh luận xong tôi cũng ngẫm nghĩ cẩn thận lại đó chứ?”

“Xong chuyện mới ngẫm nghĩ, trước mặt thì ngang như cua. Tính ông ấy là vậy đấy.”

“Cháu cũng vậy. Hồi bố cháu còn sống, tính ông cũng giống chú, cháu và bố cháu rất hay tranh luận với nhau, mẹ cháu toàn mắng hai bố con.

Nhưng nếu không tranh luận thì bố cháu lại bảo nhạt nhẽo. Kì cục như vậy đấy.”

Họ cười lớn, không khí sôi nổi hẳn lên. Nhà văn già cũng cười:

“Chuyện của đàn ông, đàn bà không hiểu được đâu. Đàn ông không đánh, không quen nhau.” Lúc ăn cơm, nhà văn già hỏi Dư Vĩ:

“Sau những năm 1970 có nghĩa là gì?”

“Tức là chỉ các nhà văn và nhà thơ sinh ở thập kỷ 70 mà mấy năm gần đây thường hay nhắc đến.”

“Càng lúc tôi càng không hiểu nổi. Cái cậu sinh viên Trình Nhất Đào trong tiểu thuyết ấy, đặt tên câu lạc bộ thơ là gì không đặt, lại đặt ngay là Hở Mông. Dù không biết làm thơ nhưng tôi vẫn biết thưởng thức thơ. Cậu bảo thế là thế nào?”

Tiếu Nhân tham gia:

“Cái này thì con có quyền được phát ngôn rồi. Con cũng là người sinh ở thập kỷ 70. Thế hệ bọn con là thế hệ phản truyền thống, những việc trước kia thế hệ bố mẹ không dám làm, bọn con lại dám làm. Những cái bố mẹ cho là chính thống, chuẩn mực thì bọn con lại không thích.”

Hôm sau, Dư Vĩ lên tàu đi Thượng Hải.

Mười ngày sau, anh lại đi Thâm Quyến. Thầy hướng dẫn người Mỹ của anh đến Trung Quốc giảng dạy, nơi dừng chân đầu tiên là Đại học Thâm Quyến, thầy nói muốn gặp anh ở đó. Lần này anh lại đi mười ngày. Trong hai mươi ngày đó, anh đều tập trung thời gian để thảo luận và tìm hiểu các vấn đề về tâm lý học. Các căn bệnh tâm lý của thanh niên Trung Quốc giống như bụi gai đang nảy mầm, và sinh viên đại học lại là đối tượng chính của những căn bệnh này. Anh còn giới thiệu cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong với biên tập viên một nhà xuất bản, hứa sẽ bảo Lâm Phong sớm gửi tiểu thuyết đến cho họ. Đồng thời, trong lần đại hội đó, Ban chấp hành Hội Nghiên cứu Tâm lý Thanh niên Trung Quốc hết nhiệm kỳ; do có bằng tiến sĩ ở nước ngoài và nhờ tên tuổi của thầy hướng dẫn, Dư Vĩ đã được bầu là Hội phó kiêm Tổng thư ký. Anh vui vẻ đảm nhiệm trọng trách. Một điều khiến anh mừng hơn là thầy giáo hướng dẫn của anh đã đăng ký được một công trình nghiên cứu có tiền tài trợ lớn từ quỹ UNESCO, ông muốn anh tham gia vào công trình này.

Chỉ trong vòng hai mươi ngày ngắn ngủi, sự nghiệp của anh đã có những bước chuyển lớn.