← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA

Trên con đường từ nhà ra chợ, vú già và Huệ nhanh nhẹn đặt bước. Vú gánh hai bồ hàng. Tiếng đòn gánh dưới sức nặng, theo nhịp của bước đi kêu kẽo kẹt, hai bồ hàng đều đều lên xuống. Vú già có vẻ đon đả, lanh lẹn, một tay ruỗi theo chiều chiếc đòn gánh một tay vung ve theo với bước đi. Huệ theo sau, mau chân mới theo kịp vú. Nàng đi guốc, mặc chiếc áo trắng dài đã vá nhiều nơi. Một tay cầm chiếc nón chóp và một tay xách chiếc hòm gỗ con để đựng tiền. Được một đoạn đường, vú già ngừng bước rồi vừa đặt gánh hàng vừa quay lại bảo Huệ: “Hãy nghỉ một tý đã, cô ạ”.

Vú để chiếc đòn gánh lên trên hai chiếc bồ rồi ngồi bên vệ đường đưa cánh tay áo lau mồ hôi, Huệ cũng ngồi ngay bên cạnh vú, cầm chiếc nón quạt cho vú đỡ nóng. Vú vội cản tay nàng: “Thôi, cô mặc tôi, quạt thế thì còn gì là nón”. Huệ vội đứng dậy lấy ở trong bồ ra một chiếc quạt nan rồi quạt cho vú. Vú muốn tự quạt lấy, nhưng Huệ nhất định không nghe: “Để tôi quạt cho, vú nghỉ một lúc cho nó đỡ mệt rồi còn gánh hàng đi chứ!”

- Có lẽ bây giờ chợ cũng đã gần đông rồi đấy cô nhỉ, hôm nay đi hàng muộn quá. Giá tôi nghe bà, để bà quét nhà thì bây giờ đã tới chợ rồi. - Cũng chẳng muộn lắm đâu. Với lại mới sáng sớm, có tới nơi thì cũng còn ngồi đó chứ đã bán được cho ai!

Lúc đó mặt trời đã hé. Trên con đường nhựa từ cổng tòa sứ lên phố chợ đã thấy có nhiều người. Phần đông là những cô gái quê bán rau bán củi đóm hoặc tôm cá, lác đác pha vài cô hàng xén ăn mặc gọn gàng dễ coi. Mấy người đàn ông quần ống cao ống thấp khom lưng dưới những chiếc bồ to đầy gà vịt, chim và trứng. Bốn năm bà lão, ăn mặc rách rưới đủng đỉnh bước một, mang bán hai ba thùng trấu và một ít lá thơm để tắm hoặc gội đầu. Có cả những đứa trẻ xách đi bán những giỏ ổi, chanh hoặc xoài non. Họ tíu tít chuyện trò với nhau vì phần đông họ quen biết nhau cả, họ cười đùa chào hỏi nhau rất thân mật vì thường thường họ đã gặp nhau trên con đường đó nhiều lần. Có khi họ không biết tên nhau, không biết chỗ ở quê quán của nhau, nhưng họ cũng vẫn quyến luyến nhau như những người ruột thịt. Cái tính dễ dãi của họ khiến họ rất chóng thành quen thân với nhau. Họ toàn là những người quê mùa, mộc mạc, tính tình rất giản dị. Chẳng bao giờ họ tìm cách dò xét tâm tính nhau. Ta có cảm tưởng như người nào cũng thực thà ngay thẳng và đều giống nhau. Câu pha trò chẳng có ý vị cho lắm cũng đủ làm cho họ cười vang cả con đường. Họ nói chuyện của chính họ rồi họ mang chuyện người khác ra nói: họ cũng chê bai, chỉ trích hoặc khen ngợi. Khen ai thì họ bảo là cần cù, đảm đang, căn cơ, mực thước, tằn tiện, chí thú, mà chê ai thì họ thủ thỉ là ngoa ngoắt, gian trá, mỏng môi hay hớt, có một nói mười...

Mặt trời lên cao, cao mãi. Hai hàng cây bên rìa đường phố những tấm lá đầy sương, óng ánh dưới những tia nắng. Con đường nằm dài giữa một cánh đồng mênh mang những ruộng lúa đã giáp hạt. Thỉnh thoảng một luồng gió nhẹ lướt qua. Những bông lúa cọ vào nhau thành một thứ tiếng rì rào tựa như một trận mưa, hạt nặng và thưa. Vì là một tỉnh nhỏ nên chỗ nào cũng còn đượm cảnh quê của chốn đồng bằng.

Khi trời còn giữ cái mát mẻ ban đêm và còn đượm hơi sương đọng trên cây cỏ, khiến kẻ đi trên đường thấy da thịt mát dịu như vừa mới tắm ở suối lên.

Vú già đã thấy đỡ mệt. Vú lại đứng dậy quẩy gánh hàng đi thẳng về lối chợ.

- Gánh quàng lên rồi còn phải về xem cơm nước thế nào, cho bà trông hàng ở nhà chứ!

Vú vừa đặt gánh trên vai vừa nói với Huệ. Nàng mỉm cười đáp:

- Lúc nào tôi cũng thấy vú lo lắng hết việc nọ sang việc kia! - Chuyện! Bà thì bụng mang dạ chửa rồi lại yếu người, cô thì còn ít tuổi. Cụ thì đã bảy tám mươi rồi! Tôi chẳng lo liệu giúp bà thì có bỏ vương bỏ vãi ra đấy hay sao!

Nghe câu nói thực thà của vú già, Huệ cảm động trong lòng, nàng đã không ngờ rằng vú lại có thể tận tâm với người chủ được đến như vậy. Cả quãng đời của vú như phô rõ trong trí óc nàng: Huệ tưởng tượng ra vú là một đứa trẻ, lớn dần lên, rồi cũng qua cái tuổi nàng, rồi đi lấy chồng, có con, phải làm lụng vất vả như những người nhà quê đang cùng nàng theo con đường ra chợ, rồi chồng chết, con chết, trơ trọi một mình phải đem thân đi ở ngày hai bữa cơm, bao nhiêu công việc nặng nhọc, cho tới bây giờ ngày ngày gánh hai bồ hàng ra chợ cho nàng. Và nàng phải lấy làm lạ rằng sống cả một cuộc đời vất vả như vậy mà rất ít khi nàng thấy vú than phiền, vẫn bình tĩnh lo liệu công việc của chủ như công việc của chính mình mà chẳng hề muốn cầu lợi, chỉ ao ước khi nhắm mắt có người mua cho cỗ ván, rồi chôn cất cho được chu đáo. Nàng ngắm nghía vú già thoăn thoắt với gánh hàng, và những ý nghĩ trên đây khiến nàng hết sức thương mến vú. Nàng không còn thấy sự phải làm lụng vất vả và cái nghèo nàn trong đó nàng đang sống là một điều buồn bực. Cái gương nhẫn nại mà nàng luôn có bên mình đó đã gây trong lòng nàng sự mê mải và sự vui vẻ trong lúc làm việc.

Từ ngày bà Sinh bỏ nhà chồng để về ở với mẹ, chưa bao giờ trong nhà được dồi dào, tạm gọi là đủ ăn, đủ tiêu cũng đã là quá đáng. Bà cố công vật lộn mà vẫn cứ phải túng thiếu mãi. Tất cả của cải bà mang theo được về nhà mẹ là một đôi hoa tai và đôi xuyến vàng, những đồ nữ trang bà sắm khi chồng đã bổ đi làm được mấy năm. Bà bán lại được chừng hơn hai trăm đồng. Món tiền đó đã giúp bà có cái vốn để mở một cửa hàng buôn bán. Nhà không phải thuê vì bà ở chung với mẹ. Hai gian nhà gạch cũ kỹ ở một phố vắng vẻ của đời ông để lại và nay còn giữ để làm từ đường. Bà chắn hẳn thành hai gian. Gian trong kê bàn thờ còn gian ngoài vừa là chỗ ở vừa là cửa hàng. Bà đã định lại cân gạo như hồi còn ở Kim Thành với mẹ chồng. Nhưng bà đã thấy người yếu sức nhiều, không thể đang nổi việc buôn bán nhọc nhằn đó nữa. Bà bèn chuyên nghề bánh khảo. Bà không thạo nghề này cho lắm, nhưng thấy nhiều người bảo mất ít vốn mà có lãi nhiều, có thể kiếm ăn được, bà cũng nghe lời, mượn người làm rồi học nghề đó. Ngoài bánh khảo, bà còn buôn thêm các thức lặt vặt khác như đường, dầu hỏa, diêm, thuốc lào, thuốc lá... Cửa hàng lúc mới mở cũng không được đông khách cho lắm vì phố vắng. Dần dần được nhiều người biết tiếng rồi bán cũng khá chạy. Có nhiều người ở tận phố Chợ cũng xuống cất bánh của bà.

Bà Sinh sợ rằng lãi trong cửa hàng không đủ chi dùng, bà lại đóng một ít ngăn kính cho Huệ mang hàng ở nhà ra chợ bán thêm. Mọi việc lặt vặt, bà đã có vú già giúp. Mới đầu Huệ đã từ chối không muốn ra chợ bán hàng, e người ta chê cười là con một ông phán mà đi bán hàng xén. Thực ra thì đã có rất nhiều dị nghị về chỗ đó, nhưng mẹ nàng vẫn cố kiếm lời khuyên nhủ nàng:

- Mẹ cũng chẳng muốn con phải vất vả thế. Nhưng bây giờ cậu con ruồng bỏ, lâm vào cảnh nghèo thì phải làm mà ăn chứ. Có đi ăn cắp ăn trộm của ai mà sợ. Con ông nào bà nào thì lúc thiếu cũng phải đành chịu vất vả. Con nên chịu khó một tý. Mẹ con mình ở chung với nhau rồi lại có cả bà nữa. Gặp rau ăn rau, gặp cháo ăn cháo, dù sao cũng còn sướng hơn là ở với cậu. Một ngày bất quá cũng chỉ hai bữa cơm chín rồi thì cái con Nga nó lại hành hạ đủ vẻ.

Muốn cho con dễ nghe lời mình, bà kể lại tất cả những cái khó nhọc của bà hồi còn nhỏ: Sống với một người mẹ nghèo, lấy chồng nghèo rồi lại phải buôn bán nuôi mẹ chồng, nuôi chồng ăn học, nuôi con. Tất cả những kỷ niệm thời xưa đó, bà muốn quên hẳn đi, nhưng bà đã phải tỉ mỉ nói lại cho con nghe để làm một bài học. Bà nhắc đi nhắc lại cái hồi bà còn cân gạo ở Kim Thành:

- Có khi mợ đã phải một mình đi từ làng nọ sang làng kia đong từng thúng gạo rồi thuê thuyền chở về nhà rồi lại chở ra ga để mang lên tỉnh. Những lúc nắng ráo thì còn khá, chứ phải những ngày mưa phùn gió bấc như tháng chạp hay giêng hai thì gạo ướt người ướt, rét cóng cả chân tay. Cứ như những lúc ấy thì mợ tưởng được lãi tới hàng vạn cũng chẳng thiết, nhịn đói còn hơn. Nhưng còn phải nuôi mẹ, nuôi chồng nuôi con bỏ đấy cho ai! Nếu sợ hãi sự vất vả hay cho làm ăn như thế là xấu mặt thì có lẽ mợ đã tìm cái chết để thoát thân tự bao giờ, chứ còn sống đâu đến ngày nay!

Nghe lời mẹ khuyên như vậy, nàng cũng vui vẻ theo vú già gánh hàng ra chợ. Lúc mới đầu nàng cũng thấy thẹn thùng khó chịu. Nhưng rồi nàng quen dần. Sáng sáng, nàng trở dậy rất sớm, xem lại hai bồ hàng, thiếu thức gì nàng lấy thêm ở cửa hàng nhà rồi lồng quang gánh cho vú già gánh đi. Muốn cho đỡ tốn, buổi trưa vú mang cơm ra chợ cho Huệ hoặc ngay từ buổi sáng, nàng mang theo một gói cơm nắm với mấy con tôm kho hay tí muối vừng. Ở nhà bà Sinh trông nom vào cửa hàng. Những lúc bận bịu quá thì người mẹ già giúp đỡ bà chút ít.

Chiều tới, khi chợ đã tan, vú già lại ra đón Huệ. Mỗi ngày hai buổi gánh đi gánh về nhiều khi vú cũng thấy mệt nhọc, yếu sức. Đã một lần bà Sinh ngỏ lời muốn mượn thêm một đứa ở gái gánh hàng để vú già đỡ vất vả, nhưng vú tỏ ý không bằng lòng:

- Bà cứ vẽ vời cho thêm tốn. Trong nhà đã túng thì cũng phải tằn tiện. Con còn khỏe mạnh chán. Gánh hai bồ chứ bốn bồ con cũng gánh nổi. Mệt thì lại nghỉ, chứ lo gì...

Nghe lời vú, bà Sinh phải buồn cười rồi đành thôi không mượn thêm người. Huệ thì yếu sức quá không thể gánh nổi hai bồ hàng, nên bà cứ để vú già đi chợ với con gái.

Chiều nào đi đón Huệ, vú cũng không quên mang theo chiếc bị cói để đựng thức ăn của Huệ mua về. Thường thường cứ khi chợ gần vãn, Huệ xếp dọn hàng lại rồi xem trong chợ có gì thì mua. Mua về chiều bao giờ cũng được giá rẻ, tuy không được tươi ngon nhưng mang về khéo nấu, khéo gia giảm cũng tạm ăn được. Có hôm nàng mua thịt, có hôm mua cá. Trở về nhà, sợ để sang ngày hôm sau sẽ thành thiu, cả nhà xúm lại mỗi người một việc để nêm nướng ngay. Vú già dóm bếp, bà Sinh rửa nồi, sắp các đồ gia vị, còn Huệ thì dao thớt thái hay chặt. Người này khen rẻ, người kia khen rẻ.

- Cái mớ cá này cô con mua rẻ hơn mớ cá hôm nọ. - Vú thì bao giờ cũng khen cô vú mua rẻ. - Bà có ra chợ bà mới biết cô con mua bán thế nào! Gớm, mặc cả từng đồng trinh! Đừng có hòng ăn lãi của cô con! - Không ăn lãi thì có dễ nó cho không! - Thưa bà, không cho không nhưng cũng lỗ tới quá nửa!... Ngày sau ai mà lấy được cô con thì thực tốt số!

Huệ thẹn thùng, mắng yêu vú già:

- Thôi đi vú! Vú chỉ được cái thế!

Rồi cả nhà cất tiếng cười vang.

Trong lúc đó thì Tài cúi khom lưng bên người bà già nghêu ngao nhai đi nhai lại hai câu cách ngôn dưới một bài luân lý:

Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư!

Cá không ăn muối cá ươn

Con cãi cha mẹ trăm đường con hư!

Cá không...

Huệ ngắt lời em: “Thôi đi! cá này chỉ có cá ươn!”

Cả nhà lại được một dịp cười to.

Cái cảnh vui vẻ trong gia đình như trên đây, chiều nào cũng có dưới một ngọn đèn hoa kỳ ở ngoài sân hoặc trong mờ mờ tối của lúc ngày gần tàn hẳn. Cái vui đó đã khiến mọi người quên hẳn được những khó nhọc suốt từ sáng sớm. Bà Sinh ở nhà mỗi lúc thấy trong lòng buồn bực, chỉ mong mỏi tới lúc con về để lại được thấy diễn lại dưới mắt cái cảnh trên đây; nó mang lại cho cõi lòng bà chút hương vị của một cảnh đời nghèo nàn, vật lộn, tựa như một bóng mát ở gữa một quãng đường nắng chói.

Công việc trong nhà bây giờ thành bận rộn hơn, vì bà Sinh đã đẻ. Huệ cả ngày ở ngoài chợ, một mình vú già nào thổi cơm nào thu vén các việc vặt trong nhà. Mỗi ngày vú lại thêm chậm chạp, nên công việc không được trôi chảy cho lắm. Bà Sinh phải trông nom cửa hàng. Bà định mướn vú nuôi con, nhưng thấy không được dồi dào đồng tiền, bà đành phải tự nuôi lấy. Nói là nuôi lấy, nhưng sự thực thì chỉ khi nào đứa trẻ đói, bà mới ôm trong lòng cho bú, khi nó đã no nê bà lại giao cho người mẹ già trông nom. Bà không hề muốn vậy, nhưng vì nhà ít người bà cũng đành lòng. Người mẹ già suốt ngày ngồi bế cháu và ru cháu. Khi nó đã ngủ bà đặt xuống một góc giường rồi sờ mó đi giặt những tã và quần áo bẩn. Có khi chính bà phải tắm hay rửa chân tay cho cháu. Chân dận đôi dép da trâu có quai, bà lẹp kẹp, rón rén đi tìm chậu nước, miếng xà bông... Bà thong thả, khoan thai trong mỗi việc cũng như trong lúc bà đi đứng hay ăn nói. Sức bà đã yếu nhiều nên chỉ phải bận rộn về một đứa cháu mà hôm nào nó không chịu chơi, hay quấy khóc bà cũng thấy nhọc mệt trong người.

Một đôi khi thấy mẹ phải vất vả vì đứa cháu tựa như một kẻ đi ở vú, bà Sinh cũng bực tức, nao nao trong lòng. Bà như tự hổ rằng mình đã xấu số để đến nỗi lúc trẻ phải nhờ vả vào mẹ rồi tới khi đã đi lấy chồng và đã gần trở về già rồi phải nương náu vào người mẹ già mà đáng lý chính bà phải đỡ đần. Bà liên tưởng đến nhiều bà mẹ khi đã gây dựng được cho con cái có vợ có chồng thì an nhàn trong lúc đã yếu sức, rồi nay đi chơi chỗ này, mai đi thăm nơi khác với chúng bạn để gọi là “khuây khỏa cái tuổi già”. Mang so sánh những bà lão già đó với người mẹ của bà, bà Sinh thấy một sự trái ngược khiến bà đem lòng thương mẹ, nhiều khi đến như muốn khóc. Về phần người mẹ già, thì tất cả cái vui sướng của bà hiện nay là có Tài, đứa cháu giai bao giờ cũng sống bên bà. Với cái vui sướng đó trong lòng bà quên hết mọi cái vất vả hàng ngày. Bà đã quen với sự khó nhọc từ lâu. Khi còn nhỏ bà cũng đã sống trong một gia đình nghèo làm ruộng ở hạt An Lão. Bà lấy một người chồng cũng nghèo. Sau hai năm, chồng bà xin được việc ở sở Thiên Văn Kiến An. Hai vợ chồng đưa nhau đến ở tỉnh đó. Bà góa chồng ngay từ khi ngoài ba mươi, nhưng bà không nghĩ đến sự tái giá. Trong thời kỳ chung sống với chồng bà chỉ phải buồn vì một nỗi là không được mụn con giai. Đẻ bốn lần, vớt vát còn lại một người con gái là bà Sinh bây giờ. Từ ngày chồng chết và con gái đi lấy chồng, bà sống bằng món tiền trợ cấp con con của nhà nước. Cái ngày con gái về ở với bà, bà chỉ có phiền lòng vì nỗi con mình không góa mà cũng như góa. Còn sự vất vả và cái nghèo của bà Sinh và mấy đứa cháu không làm bà suy nghĩ cho lắm. Lòng nhẫn nại của bà khiến bà giữ được cái bình tĩnh trong cảnh sống đó, không thù hằn, ghen tị với những kẻ giàu sang sung sướng hơn bà. Cái đức tính nhẫn nại đó như đã là một cái của hồi môn bà tặng lại cho bà Sinh. Cũng bởi thế mà bà rất sung sướng thấy con gái mình không hề nản lòng trước những nỗi đau khổ và dù sao vẫn cần cù gắng sức làm lụng nuôi con. Mỗi lần nghĩ đến người chàng rể ở xa, bà chỉ tự bảo: “ Chẳng qua là số kiếp”. Bà không thấy thù ghét chàng rể đó và chẳng bao giờ bà mong mỏi cho cặp vợ chồng mới đó phải chia lìa nhau để cho bà Sinh lại được trở về ở với chồng. Cái ý nghĩ đó bà thấy tàn ác quá. “Khổ kiếp này, thì mát mặt kiếp sau”. Đó vẫn là những lời bà mang ra để an ủi cái cảnh gia đình của con gái bà. Tưởng nhớ lại hồi mới gả chồng cho con, bà chỉ còn buồn tiếc mẹ ông Sinh, một người bạn cũ bà đã làm quen vì cùng ở một phố cũng góa chồng và nghèo nàn như nhau nên đã luôn luôn cấp đỡ lẫn nhau. Có lẽ cái cảm tình của bà đối với người dâu gia đó đã làm bà sẵn lòng tha thứ cho người chàng rể độc ác của bà. Nghĩ đến tấm lòng thật thà, ngay thẳng của người bạn cũ và nghĩ đến ông Sinh đã quá nhẫn tâm với con gái mình bà chỉ biết nói thầm: “Sinh con ai sinh tính!”

Từ ngày bà Sinh thêm đứa con gái trong nhà tuy bận rộn hơn, nhưng cũng được vui vẻ thêm. Có đứa bé trong nhà, mọi người đều có cảm tưởng như bớt hiu quạnh. Sự đông đúc vì có thêm một nhân mạng bà Sinh tưởng như đã bù đậy được sự trống trải của lòng bà vì thiếu chút tình yêu của chồng.

Khi đứa con vừa lọt lòng, cô đỡ hỏi bà đặt tên là gì. Bà nghĩ mãi để tìm một cái tên. Tính giản dị của bà không muốn con có một cái tên đỏm dáng. Giữa lúc còn phân vân, cô đỡ cất tiếng:

- Cô em có cái bớt trên vai, bà ạ.

Bà Sinh mỉm cười đáp liền:

- Thôi thì đặt tên cháu là Bớt...

Bà sung sướng nhìn đứa con út của bà và bà phải lấy làm lạ rằng bà đã không hề liên tưởng gì tới chồng, người mà nhờ đó bà mới có đứa con cuối cùng này. Tuy mọi hy vọng của tuổi già bà đặt cả vào Tài và sự rung động của tình mẫu tử, bà đã biết khi đẻ Huệ, tuy đối với đứa con út này bà cũng có một cảm giác vui sướng của một người mẹ hiếm con. Mỗi lần thấy những gia đình đông đúc, bảy, tám người ríu rít bà lại buồn vì nỗi đã đẻ tới sáu lần mà nay cả đứa gái út này nữa mới là ba. Bà cũng thừa hiểu rằng có thêm một đứa con mà lại nghèo, ắt rồi nó cũng sẽ không được sung sướng trong sự đầy đủ, nhưng lòng ao ước có nhiều con đã khiến bà quên ngay những ý nghĩ đó và sung sướng ôm ấp đứa con mới đẻ trong hai cánh tay. Khi còn ở với chồng luôn luôn thấy Huệ và Tài bị hắt hủi, bị cha ruồng bỏ và người dì ghẻ thù ghét, bà chẳng hề ao ước có con: bà vẫn tự nghĩ: “Đẻ ra rồi bố nó không thèm nhìn nhận đến, để cho “kẻ khác” nó ghét ngấm, ghét ngầm như thằng Tài ấy thì chẳng bõ!” Nhưng ngày nay bà đã như được tự do, và bà chẳng còn sợ rằng các con sẽ bị kẻ khác hành hạ, nên tuy túng thiếu bà cũng thấy sự có thêm con là vui...

Bà buồn cười nhất là Tài. Từ ngày có đứa em gái bé, những lúc đã học và làm bài xong, mà được bế em thì vui thích lắm. Những ngày nghỉ thì Tài không còn đi đâu khỏi nhà. Chỉ ra vào quanh quẩn bên em, bế em rồi ru em ngủ. Ngồi ngất nghểu trên chiếc võng cói treo ngoài mái hiên, Tài ôm chặt em trên ngực rồi nghêu ngao hát. Cậu không hề học những bài hát ru em bao giờ nên những bài như: “Ru em, em ngủ đi rồi...” cùng những bài thông thường khác, cậu đều không biết. Cậu chỉ hát ru bằng những bài học thuộc lòng đã học ở nhà trường: “Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi...” hay là:

Xuân đi học coi người hớn hở,

Gặp cậu Thu đi ở giữa đường...

Những bài hát đó bà Sinh nghe thấy lạ tai, nên mỗi lần Tài cất tiếng hát bà Sinh lại bảo con:

- Mày hát những bài quái quỷ gì ấy!

Vì vậy bao giờ rỗi rãi bà lại dạy truyền khẩu để Tài học những bài hát ru em. Những lúc rỗi rãi như thế rất hiếm, nên đã bao lâu mà bà chỉ dạy Tài được có một bài: “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân...”

Tài ít bài hát quá, và toàn là những bài ngắn ngủi cả, mà khi hát cậu lại không biết ngân nga kéo dài giọng, cậu hấp tấp đọc như đọc ở nhà trường, nên chỉ sau muời lăm hay hai mươi phút cậu đã hết cả câu hát. Cậu mệt nhọc nằm mơ màng moi óc tìm câu hát rồi dần dần cậu ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Trong lúc đó thì cô em bé trố hai mắt nhìn trần nhà, chân tay co ra co vào, đập lên đập xuống o oe “nói chuyện” một mình. Bà Sinh thấy vậy buồn cười nói:

- Thế là ông Tài ông ấy ngủ rồi! Ông ấy bỏ mặc kệ em. Ra ông ấy ru ông ấy ngủ chứ không phải là ru em.

Có khi bà gọi cả nhà ra xem. Tài nằm ngủ bên đứa em còn thức. Rồi mọi người nhìn nhau mà cười. Bà ngắm nghía Tài ngủ, nghĩ tới những lo lắng hằng ngày của mình, bà không khỏi tự bảo:

- Trẻ con vô tư lự có khác. Thật là dễ ăn dễ ngủ!

Thuyết, người bạn của Nga, đã bỏ nghề cô đầu. Cái nhà hát của nàng, sau khi Nga đi lấy chồng, được hơn một năm thì bị đổ. Hường bị bịnh sốt rét thương hàn chết. Mấy người bạn đã phải bỏ tiền chôn cất cho nàng. Món tiền kiếm ra ngày một kém đi, vì ngay gần đó một nhà cô đầu có nhiều đào hát ở Hà Nội về mở, sang trọng hơn nhà hát của Thuyết nên đã cướp được khách của nàng. Những khách quen biết của Thuyết cũng bỏ nhà hát của bốn người bạn đó để tới nhà mới mở. Vì thế thành có cuộc chia rẽ. Họ buồn rầu trước cái cảnh tàn lụn ấy. Nhưng sự sống bắt buộc họ không thể sum họp được nữa. Trong cái thời kỳ cùng chung sống với nhau, họ đã thân mật với nhau và thương yêu lẫn nhau, một phần vì họ tự thấy mình là những người đáng cả, nhưng một phần cũng bởi họ nhận thấy rằng có dựa lẫn vào nhau thì sự sinh sống mới dễ dàng. Khi phải chia rẽ nhau, Vân đi hát cho một người chủ ở ngay tỉnh. Còn Nhiên về hát ở Phủ Lý, Thuyết thì về Hải Phòng, hát cho một nhà ở con đường Huyện Rào.

Về đó được ít lâu, nàng làm quen với Thiều, chủ một hiệu ảnh nhỏ ở đầu cầu đất. Chẳng bao lâu hai người yêu nhau rồi lấy nhau. Hiệu ảnh ở Hải Phòng không được đắt hàng cho lắm. Thiều bèn dọn sang Kiến An ở ngay giữa phố chợ. Muốn kiếm thêm lãi và khỏi rỗi rãi cho đỡ buồn, gian nhà thuê, Thuyết đã chia ra làm đôi, một bên là cửa hàng ảnh, một bên nàng mở một hiệu bán vải, vải chúc bâu, thâm tây, vải ta và các thứ khăn mặt bông.

Huệ và Tuất - một người bạn của Huệ - thường tới đó cất thêm vải đi bán. Dần dần quen thân, Thuyết đã cho hai người cất chịu và hơn thế, lại bán lại bằng một giá rẻ hơn với các người khác. Một lần Huệ bị sốt xoàng phải nghỉ chợ mất hai ba ngày, Thuyết chỉ thấy có một mình Tuất bèn hỏi thăm:

- Cô Huệ đâu mà tôi thấy vắng mấy ngày liền? - Chị ấy mệt. - Mấy ngày không được gặp cô ta tôi cũng nhớ đáo để. Cô ta vui tính mà hiền lành có vẻ ngoan ngoãn quá! - Ấy, con ông phán đấy chị ạ, nhưng bây giờ mẹ chị ta bị chồng bỏ thành ra phải buôn bán kiếm thêm tiền cho nhà. Đáng lẽ thì cũng được chân giày, chân dép rồi đi học trường này trường khác cơ đấy!

Những câu nói đó đã làm Thuyết chú ý. Nàng vẻ suy nghĩ hỏi:

- Thế bố cô ta bây giờ lấy ai?

Tuất không hề biết gì về cái đời qua của Thuyết nên cứ điềm tĩnh trả lời:

- Khốn nạn! Lấy ai! Lấy ngay một con cô đầu. Nó khôn khéo lắm cơ. Nó đã mưu mô quyến rũ được người chồng đến nỗi phải bỏ hẳn vợ cả!

Những câu nói này lại càng gợi ý tò mò của Thuyết và càng khiến nàng suy nghĩ.

Tuất cũng bán hàng xén như Huệ, nhưng nàng còn bán đèo thêm hàng đăng ten nữa. Hai người ngồi ngay bên nhau. Thường thường cứ người nọ ra chợ trước thì lại ngóng đợi người kia, rồi mới cùng dở bồ hàng. Tuất thì nhà nghèo, mẹ già, bố làm tùy phái ở tòa sứ, mỗi tháng hơn chục bạc lương nên nàng cho sự phải đi buôn ngoài chợ là một điều rất thường. Nhưng nàng rất thương hại Huệ. Cứ mỗi lần nghĩ tới bạn, nàng lại không khỏi than phiền hộ bạn bằng câu:

- Khốn nạn! Chẳng ra gì cũng là con một ông phán!

Lòng thương đó đã khiến nàng luôn tìm cách an ủi và giúp sức Huệ trong sự buôn bán. Vì thế mà hai người đã thành lưu luyến với nhau như hai chị em ruột. Huệ luôn rủ Tuất về nhà chơi, bà Sinh thấy Tuất nhu mì chịu khó mà lại thân với Huệ cũng đem lòng yêu nàng. Đã nhiều lần Tuất ở đây dọn dẹp hộ các việc vặt rồi cùng ăn cơm cả nhà Huệ. Tuất nhiều tuổi và lại có vẻ từng trải hơn Huệ nên mỗi lần được gần nàng bà Sinh vẫn bảo nàng:

- Cô cứ coi nó như em ấy, rồi bảo ban em nó buôn bán hộ tôi. Khốn nạn! Cũng mới tập tành thôi đấy, chứ từ trước đến giờ đã biết gì là buôn với bán đâu!

Sự thân mật của bà Sinh lại càng làm cho sự thân mật giữa đôi bạn gái đó thêm chặt chẽ. Bởi thế mà Huệ đã mang mọi chuyện nhà ra nói với Tuất. Nàng lại còn được nghe cả bà Sinh nói thêm nữa. Vì vậy mà Tuất đã biết được đủ mọi điều, biết được cả tên Nga, nàng hành hạ bà Sinh ra sao, nàng khôn ngoan độc ác đến bậc nào. Người ta tưởng như nàng đã sống trong cảnh đó.

Tuất đã thực thà kể lại cho Thuyết nghe. Khi Thuyết đã được biết rõ ràng câu chuyện, bỗng nhiên nàng có ý nghĩ rằng chính nàng đã gây nên cái tan nát của gia đình bà Sinh. Nàng nhớ lại rõ ràng khi gặp Nga ở Nam Định, nàng đã xui đẩy Nga cướp lấy chồng riêng về phần mình. Nàng hối hận. Rồi nghĩ đến cái cảnh không con của nàng từ khi lấy chồng, nàng tưởng như đó là một trừng phạt của trời bởi lẽ nàng đã gây cái khổ cho bà Sinh. Nàng bèn lân la tìm cách làm quen với bà. Trong câu chuyện, nàng giấu giếm cái quá khứ mà nàng sợ nhiều người sẽ chê bai. Nàng cũng không nói cho bà Sinh biết là nàng có quen Nga. Nàng chỉ như lấy địa vị một người thấy kẻ khác khổ thì tỏ tình thương yêu, lưu luyến. Bà Sinh cũng thực thà nói lại hết mọi cái khổ bà và các con đã phải chịu đựng từ ngày có Nga về ở. Từ đó Thuyết lại càng tìm cách gần gũi bà Sinh rồi đã nhiều lần khi bà túng bấn, nàng đã cho vay tới năm, bảy chục. Sự tốt bụng của nàng đối với bà Sinh một phần gây nên bởi lòng trắc ẩn của nàng trước cái đau khổ của một kẻ bị ruồng bỏ, nhưng một phần cũng bởi nàng muốn chuộc lại cái lỗi xưa, họa may Trời có “thí cho mụn con”. Những món tiền nàng bỏ ra cho bà Sinh vay, không bao giờ nàng tính lãi và nàng cũng không hề đòi hỏi. Bao giờ bà trả cũng được. Nàng không giàu hơn bà, nhưng chồng làm cũng kiếm ra tiền và nàng buôn bán cũng có lãi khá. Mà trong nhà lại tiêu dùng rất ít.

Từ ngày được quen biết Thuyết, bà Sinh cũng bớt lo lắng, vì mỗi lần túng thiếu đã có nàng tạm cho vay mượn. Bà Sinh vẫn thường tự bảo: “ở hiền thì phải có phen gặp lành chứ!”

Giữa lúc có tình thân mật đó trong hai người thì xảy ra một chuyện không hay cho bà Sinh. Nga được Nhiên cho biết tin: Thuyết đã đi lấy chồng và ở Kiến An. Một lần nàng ở Nam Định về Kiến An thăm Thuyết. Thuyết mang chuyện bà Sinh ra nói và nàng thấy Thuyết có vẻ thân mật với bà Sinh nhiều, nàng bèn tìm cách phá sự lưu luyến đó, mục đích là để Thuyết không nghĩ đến cách giúp đỡ bà Sinh nữa. Nàng đã bịa hẳn chuyện bảo Thuyết:

- Chị cứ gần gũi những người ấy thì chỉ có hại cho chị. Người ngoài mà người ta biết đến thì không còn ai muốn đi lại với chị nữa đâu. Ấy là bà ta chưa biết chị là cô đầu đấy. Nếu đã biết rõ rồi thì phải biết! Ngồi đâu bà ta cũng chỉ có nói xấu. Bà ta là ghét cay ghét đắng những người cô đầu đấy!

Thuyết hơi có ác cảm với Nga từ ngày biết rõ chuyện nhà bà Sinh nên nàng cũng thực thà đáp:

- Ghét là ghét những người làm khổ bà ta thôi chứ, sao lại ghét được tôi. - Gớm ra bây giờ chị bênh vực bà ta... Thì chính chị trước kia đã bảo tôi cướp lấy chồng bà ta...

Thuyết hơi có vẻ sượng ý ở chỗ đó nên nói một câu như để lảng sang chuyện khác:

- Cái đó là việc riêng nhà chị tôi không biết đến!

Nhưng Nga vẫn không quên cái ý định độc ác của mình nên nàng không thể rời được. Nàng thì thầm ra chiều thực thà và bằng một giọng rất ngọt.

- Đừng có cho bà ta vay vỏ gì rồi mà chị mất hết vốn đấy, em nói thực. - Ấy tôi cũng đã cho giật tới sáu bảy chục đồng. - Thôi thế chị liệu mà đòi ngay đi kẻo rồi không vớt được đồng xu nhỏ!

Nàng ghé tận tai Thuyết:

- Em nói thực, chị đừng có ngờ vực nhé. Chẳng phải là em độc ác gì đâu! Cái dạo ấy em cũng đã nghe lời chị về gây chuyện nọ chuyện kia với bà ta. Thế mà bà ta đanh đá quá, không có cách gì cả. Em đã toan bỏ chồng để về Thái Bình với chị cơ đấy. Nhưng may sao đánh đùng một cái bà ta lại bỏ nhà rồi về Kiến An ở với mẹ. Mà cũng chẳng tại chồng đánh đuổi gì đâu!

Nàng ra vẻ bí hiểm nhìn Thuyết:

- Chị có hiểu tại sao không?

Chẳng còn để cho Thuyết kịp suy nghĩ, nàng lại tự trả lời ngay:

- Vỡ nợ chứ còn làm sao nữa! Tháng nào chồng lĩnh lương cũng đưa cho đủ cả thế mà cờ bạc rồi lại cứ đi vay vỏ những chỗ quen biết mỗi người một hai trăm, lãi mười phân thì lại mang đi chỗ khác cho vay mười lăm, hai mươi phân. Cứ giấu giếm chồng, kiếm lãi để đập vào những cái lúc thua, nhưng cái lãi chẳng đủ kịp cái thua. Thế là bỏ ngay tỉnh Nam Định tếch về cái đất Kiến An này đấy...

Nga nghỉ một lát rồi kết luận:

- Chứ nào có phải em tàn ác gì đâu... khốn nạn! Chị lại không hiểu hay sao! Cái đời đi làm lẽ được sống yên thân ngày hai bữa với manh quần tấm áo là tử tế lắm rồi, còn hòng gì mà chị bảo tàn ác với người ta.

Thấy Thuyết ra vẻ suy nghĩ, như đã tin lời mình, Nga lại tiếp ngay:

- Chị liệu mà đòi cái món nợ ấy mau mau lên, cứ được tròn vốn là đã tốt lắm rồi, đừng có hòng ăn lãi... Cái tay chuyên môn đi vay quỵt đấy...

Sau câu chuyện trên đây với Nga, Thuyết thành ra nghi ngờ bà Sinh. Nàng thấy Nga, người bạn cũ, gần gũi nàng hơn bà Sinh nên nàng tin lời Nga hơn, cái thiện cảm của nàng đối với bà Sinh đã bị tiêu tán, và nàng đem lòng ghét bỏ bà. Nàng luôn luôn thúc giục để đòi bà món nợ bảy chục đồng.

Thực là một điều bất ngờ đau đớn cho bà Sinh. Vì ngày đó trong nhà bà đang phải tiêu pha nhiều. Đứa con gái út bị sài, phải tốn về tiền thuốc mất tới ngoài hai chục: rồi lại gian nhà trong bị cũ nát, bà phải sửa chữa lại cũng mất tới ngoài ba chục nữa. Bà đã cố nói với Thuyết xin tạm khất; nhưng nàng đã thành nghi ngờ nên cứ nhất định đòi cho bằng được. Cái món nợ ấy lại thành một mối lo ngại cho bà. Bao giờ cũng vậy, khi ta đã yêu chuộng ai mà bỗng nhiên có người nói những điều không hay về kẻ đó khiến ta phải tin thì không những ta mất hẳn thiện cảm mà ta lại còn ghét bội phần. Vì vậy mà Thuyết không những không còn chút lòng thương đối với bà Sinh, nàng lại còn cố làm những điều không hay cho bà. Nàng vừa ra công đòi nợ, vừa đi kể những chuyện xấu về bà Sinh với hết tất cả mọi người quen biết nàng. Bà Sinh phải lấy làm lạ về sự thay đổi tính tình đó. Và bà rất ngạc nhiên khi thấy bao nhiêu người thì thầm với nhau về việc bà bị vỡ nợ, rồi trốn nợ mà về Kiến An. Hầu hết mọi người quen biết bà trước kia thương bà về nỗi bị chồng ruồng bỏ, nay được cái tin đó đều cho là người gian dối rồi tìm cách xa lánh bà và nhìn bà bằng con mắt khinh bỉ. Huệ bực tức nhất về cái tin không hay đó. Nàng nghiệm thấy rằng từ khi có cái tiếng đồn đó mẹ nàng bỗng mất hết sự vui vẻ trong mọi công việc hằng ngày. Hơn nữa, nhiều khi mẹ nàng lại còn thành ngơ ngẩn như người không hồn. Thuyết có kể lại chuyện này cho Tuất nghe. Nàng cũng nói thực rằng chính Nga đã kể câu chuyện vỡ nợ của bà Sinh cho nàng nghe. Nhưng nàng chỉ nhận Nga là người bạn quen trong việc buôn bán, mới được biết nhau trong ít lâu nay. Tuất lại thầm kín kể lại cho Huệ. Huệ thấy Thuyết trước kia đã là người tốt với nàng và cả với mẹ nàng mà nay bỗng có ác tâm về câu chuyện bịa đặt của người dì ghẻ, bèn tìm lời phân trần, nhưng Thuyết vẫn không thể nào quên được lời bạn. Huệ không hề đem lòng thù Thuyết. Nàng đã hiểu rằng đó là một mánh khóe Nga mang ra để làm cho gia đình nàng ở cái tỉnh nhỏ này thêm phần đau khổ. Đã có lần nàng thổn thức khóc nói với Tuất.

- Thực là khổ quá chị ạ. Không ngờ mợ em phải về đây sống với bà em, mà cũng chẳng được yên thân. Không hiểu người ta còn làm khổ mẹ em cho đến bao giờ.

Đáp lại những nhời than thở đó, Tuất chỉ biết thở dài bảo bạn:

- Chị cũng chẳng nên buồn bực, cứ vui vẻ mà làm ăn.

Thế rồi lại một lần nữa, Nga đã tốn công từ Nam Định về Kiến An để dò xét xem những lời nàng nói với Thuyết đã có kết quả gì chưa. Nàng nghe Thuyết kể lại chưa đủ; nàng còn đi hết chỗ nọ, chỗ kia, dò la không khác một kẻ giết người tới thăm nơi xảy ra án mạng để xem xét những điều mà tội ác của mình đã gây nên. Sở dĩ nàng đã cố theo đuổi làm khổ bà Sinh ngay khi bà đã xa chồng, vì nàng vẫn sợ sự tái hợp giữa chồng và người vợ cả. Cái khổ nàng gây làm cho bà Sinh phải cam chịu sẽ làm tăng sự uất ức và nhất là sự thù ghét của bà đối với chồng. Và như thế thì không khi nào hai người còn nghĩ tới sự chung sống nữa. Đó là điều mà Nga vẫn để ý tới. Nàng đã thừa hiểu rằng khi đã có sự tái hợp thì nếu nàng không bị khổ như bà Sinh hiện thời ít ra nàng cũng chịu thiệt thòi đôi chút về mọi phương diện.

Lần này Huệ được gặp Nga ngay ở chợ. Nàng tức tối trỏ cho Tuất biết... biết mặt Nga. Vốn đã ghét Nga sẵn từ trước nên vừa thấy Nga, Tuất bĩu môi:

- Rõ cái quân gian ác ra mặt!

Nga đi lang thang ra mấy dãy hàng rồi quay ra trước mặt Huệ. Huệ uất ức nhưng cố nén vẻ tức bực, nàng không hiểu lúc đó nên hành động ra sao. Nàng muốn nhảy lên hành hạ Nga một trận cho bõ ghét, nhưng nàng vẫn rụt rè. Cả Tuất cũng thấy tức tối thay cho Huệ. Giữa lúc Nga qua đó, Tuất hầm hầm nét mặt nói to:

- Cái quân cướp chồng người ta mà không biết nhục.

Như đã có kẻ bắt đầu cho sự khiêu khích, Huệ cũng tiếp lời Tuất:

- Cái hạng cô đầu giang há, giang hồ, mà cũng đòi lên mặt bà!

Những người ngồi gần Huệ và Tuất vừa thấy Nga qua đó mà lại nghe thấy hai câu nói trên đây trừng trừng nhìn Nga, Nàng thẹn thùng quá, không thể nào giấu nổi sự giận dữ bèn quát to với Huệ:

- À, cái con này mày bảo ai giang há, giang hồ?

Sự khai chiến đã bắt đầu. Và Huệ tin sẽ có Tuất giúp sức nên không hề nể lại:

- Mày định sừng sộ với ai! Mày đừng có tưởng tao sợ cái mặt mày!

Huệ còn nhớ cái cảnh đánh nhau giữa mẹ và Nga ngày nào, nàng bèn đứng dậy túm ngay lấy tóc Nga giựt mấy cái liền. Nhưng Nga nậy được tay Huệ ra rồi hất nàng ngã gục xuống, nằm ngất trên nền gạch. Mọi người hoảng hốt, nhìn Huệ vẻ thương hại. Đối với Nga, ai ai cũng như thấy cái cáu kỉnh sôi nổi trong người. Tuất thấy bạn bị đau quá, không còn thể tự chủ được, cầm đòn gánh đánh luôn Nga trên lưng hai cái. Huệ đã tỉnh hẳn, chạy vội lại túm ngang người Nga xé chiếc áo dài. Một người ở xa kêu lên:

- Cứ xé tan tành nó ra, chỉ cậy nhớn bắt nạt!

Huệ vừa giằng co với Nga vừa kêu lên:

- Nó cướp chồng của mẹ tôi. Nó làm mẹ con tôi khổ sở. Rồi bây giờ nó còn theo dõi về tới đây để hành hạ ngấm ngầm mẹ con tôi.

Nhiều người trong chợ đã xúm đông lại. Huệ thừa lúc đông người đó cố tìm cách làm Nga xấu hổ để từ nay nàng không dám trở về Kiến An nữa. Và Huệ cũng muốn trả thù về những cái đau khổ nàng đã phải chịu trong ít lâu nay và cả khi nàng còn ở chung với cha ở Nam Định. Nàng nhìn mọi người quanh mình:

- Các ông các bà ạ, nó làm cô đầu chán rồi nó quyến rũ cha tôi để đến nỗi gia đình nhà tôi bây giờ tan nát. Nó cướp của cướp người, rồi nó lại còn về đây phao đồn là mẹ con tôi trốn nợ...

Mọi người chòng chọc nhìn Nga như để nhớ kỹ mặt mũi người đàn bà độc ác ấy. Nga biết rằng còn ở lại đó chỉ xấu mặt với nhiều người khác, bèn vấn tóc rồi vội vàng che chỗ áo dài rách đi ra ngoài chợ.

Một bọn người xúm nhau vào bàn tán:

- Ấy, cô ả cứ xoăn xoe hỏi tôi là cô Huệ dọn hàng từ bao giờ...

- Chị ta lại còn vờ hỏi mẹ cô ta bây giờ kiếm có đủ ăn không, ra chiều thương mến người ta lắm!

Một bà hoa tay lên trời:

- Tôi nhìn mặt cũng đủ ghét. Cứ loanh quanh bên tôi hỏi nọ hỏi kia, tôi chả thèm nói lại nửa lời.

Một bà còn ít tuổi ra chiều ta xét đoán giỏi:

- Tôi mới trông cái vẻ mặt tôi cũng biết ngay là con người điêu ác thành tinh.

Một bà khác nghiêng người ghé sang bà láng giềng:

- Cái kiếp chồng chung tranh giành nhau, bao giờ cũng khổ. Một trăm đám là y như một trăm. Chẳng cả khổ thì lẽ khổ. Không có đám nào là thuận hòa với nhau được từ trẻ tới già!

Rồi bà cất tiếng ví:

Đói lòng ăn nắm lá sung

Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng,

Một bà nữa như hưởng ứng cái ý nghĩ của bà trên:

- Tôi nhờ giời có hai cháu gái. Tôi cũng vẫn bụng bảo dạ gả cho thằng cu ly cu leo nào mà chồng một vợ một còn hơn gả cho cái hạng ông nọ bà kia mà phải chung chồng...

Thế rồi từ đấy các bà như quên hẳn cả bán hàng, xúm nhau lại kể cho nhau nghe những câu chuyện về chồng chung. Bà nào cũng có một chuyện để nói cả. Bà này kể chuyện ông láng giềng, bà kia kể chuyện người cùng thuê nhà chung có hai vợ chín con. Rồi lại một bà mang hẳn ngay chuyện nhà, nhà mình ra nói: “Ấy, tôi cũng đã phải cái kiếp chồng chung mất mấy năm đấy! Bây giờ cái con kia nó chết rồi! Nghĩ mà khổ?”. Bà nào không biết chuyện có thực thì cố nặn nọt bịa ra để gom góp vài lời với các bạn cho vui câu chuyện.

Dần dần các bà cũng thành uể oải, nhạt tiếng, xì xào với nhau được một lúc nữa thì lại quay về giá hàng đắt với rẻ.

Tuất và Huệ đã vuốt lại mái tóc, đã rũ bụi trên áo cho nhau và lại ngồi sau cửa hàng...

Bà Sinh bỏ Nam Định về Kiến An được ít lâu thì cái tin đó vỡ lở ra. Chính ông Sinh đã cố tìm cách giữ kín, nhưng không ngờ Huyên đã mang ra nói hết với mọi người trong sở.

Từ hôm được Huệ trả lời lại mấy câu ở cổng sở, Huyên đã tưởng là Huệ có cảm tình riêng với chàng. Rồi từ ngày đó chẳng hôm nào chàng không đi qua nhà ông Sinh để có dịp được trông thấy Huệ. Chàng rất vui sướng bao giờ cúi đầu chào Huệ mà được nàng chào trả lại. Chàng đã xây đắp một giấc mộng trong óc: Cần cù đi làm để dành tiền rồi một hai năm nữa xin thêm nhà một món tiền để lấy Huệ. Thuê một gian nhà chừng bảy tám đồng, sắm một ít đồ dùng cần thiết. Ngày ngày hai buổi chàng đi làm, Huệ ở nhà săn sóc cơm nước cùng thu dọn mọi việc. Chàng đã ngắm nghía Huệ kỹ càng đến nỗi chàng đã hiểu cả rằng Huệ không được khỏe cho lắm, nên chàng đã tính trước khi Huệ đẻ sẽ mượn vú sữa để nàng được có sức mà đẻ những đứa sau.

Với cái ý định lập gia đình đó, Huyên đã cố sức tỏ ra là một người chăm chỉ và hết sức lễ phép với ông Sinh ở sở. Những lúc các bạn tụ họp nhau bàn tán về “ăn chơi” mà có ông Sinh thì bao giờ chàng cũng lên mặt đứng đắn chê trách các bạn và có khi lại khuyên can để tỏ cho ông Sinh biết chàng là một người đứng đắn, chỉ có nghĩ đến công việc làm ăn tu chí. Ở trong sở, mỗi lúc rỗi rãi mà nghĩ đến Huệ chàng lại viết chữ HUYÊN bên cạnh chữ HUỆ. Chàng sung sướng thấy cả hai tên đều có chữ H đứng đầu. Chàng cho đó là một sự do số mệnh xui nên và chàng tin chắc là chàng sẽ lấy được Huệ. Càng nắn nót viết hai chữ H hơi chếch nhau một tý. Chàng đắc chí nghiêng đầu ngắm nghía rồi tủm tỉm cười với tờ giấy.

Song bẵng hẳn đi một dạo, Huyên không thấy bóng Huệ. Một hôm chàng đánh bạo tới chơi nhà ông Sinh. Chàng không thấy Huệ, không thấy Tài và cả bà Sinh mà lại có một người đàn bà lạ. Chàng đánh bạo hỏi dò. Ông Sinh trước còn luống cuống tìm cách giấu giếm. Nhưng sau hết thấy ở sở Huyên vẫn là người kín đáo, đứng đắn ông bèn nói thực cho chàng rõ. Huyên thành tức tối về nỗi Huệ đã xa hẳn mình. Chẳng hiểu tại sao chàng lại tin chắc Huệ đã yêu mình và hẳn hôm ra đi đã buồn phiền lắm. Chàng đem lòng ghét ông Sinh và cái thất vọng của chàng đã xui chàng nói hết với mọi người trong sở câu chuyện riêng của gia đình ông Sinh. Ở tỉnh nhỏ như Nam Định cộng lại mọi công sở chỉ độ bốn hay năm sở và những người làm cũng không lấy gì làm đông lắm. Cứ người nọ kể cho người kia, rồi chẳng bao lâu trong gia đình mọi công chức, ai cũng biết cái việc đó. Họ bàn tán, phê bình. Phần đông họ đều chỉ trích ông Sinh là người bạc bội. Người này bảo “già còn chơi trống bỏi”, người kia mỉa mai nói:

- Nhân lão tâm bất lão!

Từ ngày đem lòng ghét ông Sinh, mỗi lần nói tới ông, Huyên chỉ dùng mấy tiếng: “Con dê già thành Nam”. Chàng đã cố công gom sức với mấy người bạn nữa đặt một bài vè tám câu như dưới đây:

Thành Nam có chú phán Sinh

Tuổi thời bốn mốt, si tình gớm ghê

Nào trai nào gái đề huề,

Thế mà chú vẫn muốn kề đùi non

Chú chê bà cả hết son,

Chú ôm một ả tý hon trong lòng

Muốn cho già trẻ... ung dung,

Chú tống bà cả khỏi vùng thành Nam!

Chàng đem đánh máy thành tới chục bản rồi phát cho bọn trẻ con bán báo và bán hàng rong ngoài phố. Chàng lại ra công dạy cho những đứa không biết đọc thuộc lòng nữa. Chàng dặn chúng hễ ế hàng thì cứ bảo khách qua đường nếu mua hàng sẽ hát vè cho mà nghe. Vì thế mà chẳng bao lâu bài vè ấy đứa trẻ nào cũng thuộc. Lúc nào người ta cũng thấy chúng bô bô hát. Ông Sinh bị chúng bạn ra chiều ghét bỏ, khinh thường. Vì nhiều người đã công nhận rằng bà Sinh là người đảm đang, yêu chồng thương con. Bài vè của Huyên đặt ra thì dần dần những trẻ cũng chán tai, rồi cũng không còn ai nhớ tới nữa. Nhưng còn dư luận, còn lời chê trách của bạn đồng nghiệp, ông thấy khó xóa bỏ được. Ông bèn lập mưu: Ông mượn ông Tùng về Kiến An tìm người vợ cả về. Đó là ông làm cho lấy lệ. Ông đã tin rằng không khi nào vợ cả ông còn chịu trở về sống bên Nga nữa. Ông hành động như vậy chỉ cốt để có thể tỏ cho các bạn biết rằng ông tuy có lấy vợ lẽ nhưng ông không hề ruồng bỏ vợ cả. Nếu có người nào không tin lời, ông sẽ lấy ông Tùng ra làm chứng. Bởi có ý định ấy nên ông đã cố nói khó với ông Tùng giúp hộ. Ông này nhận lời ngay. Không phải ông là người ưa thích giúp đỡ các bạn. Ông Tùng rất ghét dính dáng đến việc người khác. Ông làm cùng sở với ông Sinh. Ông quả thực là một người làm khuôn mẫu cho hết thảy mọi người nào muốn sống một đời ngăn nắp. Một ngày hai buổi ông đi làm. Cuối tháng bao nhiêu lương ông đưa cả cho người vợ. Từ tiêu vặt cho đến sự may mặc, ông đều phải hỏi ý vợ trước đã, hai vợ chồng bàn định cân nhắc mãi rồi mới tiêu pha mua bán. Bà vợ rất tằn tiện, lại có thêm hai đức tính là chịu khó và biết tháo vát. Bà không muốn ăn dưng ngồi rồi như nhiều bà vợ công chức khác. Bà đã mở một cửa hiệu bán thuốc lào ngay gần chợ Rồng. Thêm vào cái nghề đó bà còn buôn cất lông vịt. Chồng đi làm, vợ xoay xở buôn bán. Cả hai đều cần mẫn như nhau. Nên sau bảy tám năm đã tậu được chiếc nhà cho ông Sinh thuê hiện giờ. Người vợ chỉ loanh quanh với việc nhà, còn việc người ngoài bà không muốn dính líu tới. “Can gì mà mang khó vào thân!” Đó là lời bà thường tự bảo mỗi khi có ai nhờ bà giúp hộ việc gì. Ông Tùng cũng như đã lây cái tính đó của bà, nên ông rất ít giao thiệp với người ngoài và lại rất ít khi muốn để ai nhờ đến mình, bất cứ bằng cách gì! Nhưng lần này ông đã nhận lời giúp ông Sinh đi nói với bà cả về Nam Định. Bởi lẽ ông muốn cầu một chút lời. Đã từ lâu, từ ngày ông Sinh mới thuê nhà của ông và ông đã biết mặt Huệ, ông có ngay ý định muốn hỏi Huệ cho người con giai thứ hai của ông. Ông thấy Huệ có vẻ nhu mì, chín chắn. Cái tin bà Sinh bỏ chồng đi với các con đã làm ông áy náy tiếc rẻ. Ông phàn nàn với vợ: “Thực là không may cho mình! Cái con bé kháu khỉnh quá! Bà mà được dâu ấy thì thực không còn gì quý bằng!” Bây giờ thấy ông Sinh nhờ ông đi tìm bà Sinh và các con về, ông hy vọng bà Sinh sẽ không từ chối và rồi ông lại có dịp được gần gũi cả hai ông bà và Huệ. Chắc hẳn rồi ông sẽ lấy được Huệ cho con giai ông.

Tới Kiến An, lúc mới đầu, ông chỉ bảo là tới thăm “bà và các cháu”, và ông tỏ ý “rất tiếc đã có chuyện không hay đó”. Sau mấy tách nước trà và tàn mấy điếu thuốc lá ông mới bắt đầu vào câu chuyện thực. Ông cứ nhắc đi nhắc lại:

- Bà nên nghĩ cho chín thì hơn. Chả nên giận ông ấy mãi. Bây giờ ông ấy hối hận lắm rồi. Bà nên nể tôi là chỗ quen biết từ lâu.

Bà Sinh không muốn nói lại những chuyện không hay đã qua, nên bà cũng chẳng hề muốn kể lại nhưng cái tàn ác của chồng. Bà vẫn nghĩ rằng dù sao thì cũng là chồng mình mà kể lại những điều đó chỉ là nói xấu chồng, người ta sẽ đem lòng khinh bỉ. Vì vậy, trái hẳn với ý ta tưởng, bà không nói lại với ông Tùng rằng chồng bà đã hắt hủi bà. Bà cố che đậy câu chuyện không hay giữa bà và người chồng. Bà chỉ ngỏ lời chê trách Nga là không được tốt bụng đối với bà. Bà nói với ông Tùng:

- Giữa ông ấy với tôi thì chả có điều tiếng gì cả. Vợ chồng vẫn tử tế với nhau, nhưng phải cô hai, cô ta lắm điều khó chịu thì tôi đi. Chứ lỗi không phải ở ông ấy.

Bà đã cố nén lòng nói ra những câu đó để khỏi mang tiếng là người vợ bạc bội bêu rếu chồng với người khác. Bà tự nghĩ: “Thôi thì để cho ông ấy đẹp mắt với chúng với bạn một tý mà mình cũng chẳng mất vàng mất bạc gì!” Nhiều khi bà tưởng như nếu có dịp bà sẽ trả thù chồng một cách đau đớn, nhưng cứ mỗi khi cái dịp đó tới bà lại rụt rè rồi không dám làm như ý muốn.

Ông Tùng cố ý năn nỉ, khuyên dỗ, bà chỉ biết trả lời:

- Tôi bây giờ già rồi. Chẳng còn nghĩ tới sự sinh đẻ nữa. Ở đâu thì cũng chỉ ngày hai bữa cơm. Nhờ giời về đây cũng tạm đủ ăn rồi, lại còn mẹ già. Ông cứ về nói với ông ấy hộ tôi như vậy. Tôi chẳng dám thù hằn gì ông ấy cả.

Ông Tùng hơi thất vọng về nỗi bà Sinh đã từ chối. Vì đã có câu chuyện bất hòa, chồng một nơi, vợ một nơi như vậy thì công việc hỏi Huệ cho con trai cũng khó khăn. Đối với ông Sinh thì ông như hơi thẹn thùng về nỗi giúp mà không thành công. Ông cứ thực thà kể lại lời bà Sinh với ông Sinh. Và mỗi lần có dịp ông kể cả với hết mọi người khác. Thế là công việc “cải chính” để khỏi mang một tiếng xấu của ông Sinh đã có đôi chút hiệu nghiệm. Ông ra vẻ bằng lòng lắm. Ông luôn luôn bảo bạn:

- Đấy, ông xem có phải là tôi độc ác gì đâu. Thế mà họ cố đặt điều, rồi lại vè để nhạo báng tôi, để làm tôi mất hết thể diện với bà con. Trăm sự nhờ ông, có ai dị nghị điều gì không hay xin nhờ ông nói đỡ hộ tôi.

Lần này là thứ nhất ông Tùng giúp kẻ khác; ông cho là một dịp rất quan trọng và ông tưởng như mình là một đại ân nhân, không có mình thì ông Sinh “đến chết đi được”. Ông sung sướng thấy những lời cải chính của ông có kết quả tốt cho ông Sinh ngay. Ông thành hăng hái theo đuổi công việc ấy. Và từ ngày đó, trái hẳn với thói quen, ông không săn sóc tới việc nhà nữa, chỉ lo việc người. Trong vòng hơn một tháng trời ông chỉ ăn xong rồi tới nhà mọi người loanh quanh trong vài chuyện vặt rồi sau hết ông mang câu chuyện giữa ông và bà Sinh ra kể. Ông vẫn nói hay cho bà Sinh và ông bênh vực cho ông Sinh là người vẫn tử tế. Ông chỉ quy tội cho một mình người vợ hai. Kết cục câu chuyện bao giờ ông cũng gật gù trịnh trọng thêm câu:

- Thế mà thiên hạ cứ đan kép mãi ra...

Với kẻ nào nghi ngờ, ông không rụt rè nói ngay:

- Khốn nạn, thì chính tai tôi nghe tiếng, chính mắt tôi trông thấy!

Chẳng bao lâu cái dư luận không hay về ông Sinh đã gần mất hẳn. Và mọi người như lại có chút cảm tình với ông. Người còn tìm cách nói ông vẫn là Huyên, ông dò xét mãi và biết rằng bài vè là chính của chàng. Ông bèn tìm cách hoạnh họe chàng trong mọi công việc. Huyên như đã thất vọng nhiều và không còn thiết gì tới sự làm ăn nữa. Chàng ra vẻ không cần, bảo với các bạn:

- Trù tớ thì tớ sợ quái gì! Làm thì làm không làm thì thôi!

Thế rồi chàng vẫn cứ bảo với mọi người rằng sự thực thì là bởi “muốn cho già trẻ ung dung, chú tống bà cả khỏi vùng thành Nam”. Vừa nói chàng vừa hát lên hai câu đó trong bài vè của chàng. Ông Sinh tức tối quá. Thế rồi Huyên đi Hòa Bình. Huyên làm ra vẻ coi thường... Ngày ra đi chàng còn tới Sở để chào các bạn. Chàng bô bô nói to để ông Sinh nghe tiếng:

- Tớ đã đổi hai câu vè cuối cùng của tớ rồi!

Rồi chàng cất tiếng ngâm cho các bạn nghe:

Muốn cho tránh được tiếng tăm.

Chú bèn mời tớ đi thăm... xứ Mường.

Họ cười lên với nhau, cũng có người muốn giữ kẽ, sợ ông Sinh để ý ghét bỏ, thì khó làm ăn, không dám cất tiếng cười to chỉ khẽ khúc khích ngầm trên đống sổ.

Bắt đầu từ ngày Huyên phải đi Hòa Bình là ông Sinh được yên lòng sống bên Nga. Ngày hai buổi đi làm, tối ngoan ngoãn ngủ nhà. Có ai còn nhớ dai mà nhắc nhỏm đến chuyện ông ruồng bỏ vợ cả thì ông thản nhiên nói:

- Tôi chẳng ruồng bỏ bà ta bao giờ, tôi vẫn quý bà ta như vàng. Nhưng bà ta cứ nhất định đi thì tôi biết làm thế nào! Không tin thì cứ hỏi ông Tùng, ông ấy đã biết rõ hết cả mọi điều rồi đấy. Việc gì tôi phải giấu giếm!

Thế rồi ông cứ yên trí sống trong cái gia đình mới của ông, không hề bận lòng về vợ cả và mấy đứa con đã theo mẹ ra đi. Ông cũng chẳng hề thấy áy náy hối hận. Chẳng bao giờ ông để ý dò xét xem những người xa ông sống ra sao và bằng cách gì. Trong gia đình ông đã có Nga và đối với những người quen biết thì ông đã có Tùng.