← Quay lại trang sách

Chương sáu

Từ hôm gặp Di đến nay Thu cảm thấy lòng nặng nề hết sức. Từ trước tới giờ Thu rất khâm phục trước bản lĩnh và nghị lực của Di. Thu cứ ngỡ Di là người có nhiều tham vọng và đòi hỏi rất cao về đối tượng của mình, nào ngờ Di quá yếu đuối và rất thiếu thực tế.

Ngày trước Thu thường đến nhà Di và đôi khi bắt gặp ánh mắt của An nhìn Di là lạ. Có lần Thu ghẹo nhưng thấy Di trả lời rất nghiêm, biết Di không thích nên không dám chọc nữa. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến Di. Thu cố nén cái cảm giác thất vọng, cố dìm một lời trách cứ âm thầm. Như thể Di đã phụ lòng tin của Thu, như thể Di đã đem đổi một món trang sức quí báu để lấy một thứ quá tầm thường.

Thu biết Di ấp ủ một mơ ước rất mãnh liệt là muốn sống với nghề viết lách. Thu chưa hề nghe Di thố lộ về chuyện tình cảm, vẽ vời về người trong mộng như các bạn khác. Di chỉ nói với Thu về ngôi nhà trong tương lai của mình. Một căn nhà lá rất, rất nhỏ có giàn mướp leo lên tận mái. Mảnh vườn rộng trồng cây ăn trái mỗi thứ một cây. Một hàng rào dâm bụt cao cao bao quanh và một khoảng sân chừa lại cho muôn loài cỏ dại.

Thu thì đơn giản hơn Di nhiều lắm. Thu hài lòng với cuộc sống của mình và gắn kết chặt chẻ với mọi thứ chung quanh, Thu đã lên Sài Gòn học nhưng rồi nhớ nhà chịu không nổi phải trở về, xin đi dạy để sống với gia đình.

Hàng ngày nhìn mấy đứa học trò bày những trò tinh nghịch, tìm cách qua mặt thầy cô trong những lần thi cử Thu cứ cười thầm trong bụng. Đôi khi chúng quá quắt Thu muốn phạt nhưng rồi không nở ra tay vì nhớ đến tâm trạng của mình thuở trước. Trong lớp Thu dạy có một đứa rất giống Di. Nó cũng hay trêu đùa và rất lém lĩnh. Nó biết Thu thương nên hay vòi vĩnh, và đáp lại bằng cách bày tỏ tình cảm một cách rất riêng, rất bất ngờ làm Thu vô cùng xúc động cũng giống như Di vậy.

Buổi học đầu năm không khí có phần uể oải, vài chỗ ngồi còn bỏ trống, tụi học trò nghe giảng chỉ bằng một lỗ tai. Thu dạy môn văn, ráng nói hết sức để đưa bài giảng lên đầu, nếu may mắn sẽ chui vào tim của chúng một ít. Hôm nay Thu giảng về bài thơ HƯƠNG CAU của KIÊN GIANG HÀ HUY HÀ, một nhà thơ chân chính đã cống hiến cuộc đời của mình cho văn chương, sống thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần mà Thu vô cùng cảm mến:

Hương cau thơm nức ngôi sao mẹ

Thơm ngát mái nhà, thơm áo cơm

Con thở trong mùi hương bát ngát

Thịt da mái tóc quyện mùi thơm...

Bài thơ nói về hình ảnh một người mẹ quê tảo tần nuôi con ăn học, hy sinh mọi thứ cho con của mình:

Bán đôi bông cưới mua thang thuốc

Mua bánh tai heo vở học trò...

Thu giảng bằng một cảm xúc sâu lắng vậy mà tụi nó đáp lại một cách vô cùng hời hợt làm Thu hụt hẩng quá. Chuông reo ra về. Thu dẫn chiếc xe PC ra cổng chưa kịp nổ máy bỗng nghe tiếng gọi từ sau lưng:

-Chị Thu.

Thu quay lại nhìn, gương mặt tiều tụy của An làm Thu hết hồn, chưa kịp hỏi An đã lên tiếng trước:

-Nghe nói chị có qua nhà chị Di, chị có gặp chỉ hông vậy?

Thu muốn trả lời là mình không gặp Di nhưng nhìn tia mắt quá khẩn thiết của An. Thu lại gật đầu, An hỏi tiếp:

-Chị có địa chỉ của chị Di hông? Cho em xin!

Lần nầy thì Thu lắc đầu:

-Lo nói chuyện nên chị quên xin, với lại hôm ấy chị sợ về trễ kẹt xe nên ở chơi có một chút hà!

Có lẽ An biết Thu nói dối nên cứ trù trừ mãi không chịu đi. Mấy đứa học trò đi ngang qua có đứa quay lại nhìn chăm chú. Thu bỗng đâm bực nên buột miêng nói với An:

-Chị Na có nhờ chị nhắn với Di là đừng có liên lạc với An nữa, nếu không nghe là chỉ mét má Di đó!

Mặt An bỗng trắng bệt như tờ giấy, hỏi dồn:

-Chị có nói lại với chị Di hông vậy?

Thu gật đầu rồi cố tránh ánh mắt An, nổ máy cho xe chạy trước.

An vẫn còn đứng lại giữa đường bất động, một đứa học trò đi ngang vấp vào rồi cự nự:

-Cha nội nầy, làm cái gì mà đứng án giữa đường!

Nỗi buồn trộn lẫn sự bực tức đang dâng lên cuồn cuộn trong lòng An. An biết tính Di rất dễ bị tổn thương, nghe những lời nói đó Di sẽ chẳng bao giờ cho An gặp mặt. Có lẽ suốt cuộc đời nầy, cho tới lúc chết An vẫn giữ mãi trong lòng những điều muốn nói mà chưa nói được với Di.

Tối hôm đó An hầu như thức trắng. An đã thảo cho mình một kế hoạch, quyết định sẽ lên Sài Gòn tìm Di. An cứ trông cho trời mau sáng để đi đánh điện cho Lưu, báo cho biết An sẽ lên thăm và nhờ ra bến xe đón An giùm.

Đã hai hôm nay An đứng chờ Di trước cổng trường Khoa Học. Mỗi sáng An đều đến thật sớm lúc những ngọn đèn đường chưa tắt, ra về khi những con lộ đều sáng trưng ánh điện, vậy mà vẫn không thấy Di xuất hiện. Cứ mỗi lần có mái tóc dài thấp thoáng từ xa là tim An lại đập dồn dập. An đứng phía bên kia đường tập trung nhìn vào hai cái cổng chính và phụ của trường với vô số sinh viên ra vào. Phải đảo mắt liên tục nên bị chóng mặt, vậy mà không dám nhắm mắt lại lâu vì sợ Di đi huốt.

Ngày kế tiếp rơi vào chủ nhật. An mượn Lưu chiếc xe đạp rồi mua một cái bản đồ để đi tìm Di. Nhớ lời Thống nói nhà Di trọ ở trong hẻm gần chợ. An len lỏi vào những con hẻm và chui vào mấy cái chợ chồm hổm, vừa đạp xe thật chậm vừa ngước mắt nhìn lên sợi dây phơi đồ trên ban công để tìm những chiếc áo của Di. An nhớ rất rõ áo Di từng chiếc một. Từ những bộ đồ bình thường Di mặc ở nhà cho đến những chiếc áo điệu Di mặc khi ra đường. An chuyển tầm nhìn xuống thềm nhà, kiếm đôi dép quai đen quen thuộc. Trực giác nhạy bén của An liên tục đưa ra những tín hiệu sai lạc. An cứ hy vọng rồi lại thất vọng, tim cứ đùng đùng nảy lên rồi chùn xuống và hơi thở thì co giản như một cái lò xo. Đến tối mịt khi An quay về nhà Lưu thì người đã mệt phờ đến không thể mở miệng nổi. Lưu nhìn An lắc đầu ngao ngán, trong mắt Lưu lúc nầy An không khác gì người mất trí.

Lưu lén đi đánh điện tín báo cho gia đình An biết tin, dù An không nói nhưng Lưu biết đời nào má An cho phép An nghĩ học lên Sài gòn để thăm Lưu. Từ lúc gặp An đến giờ, An chẳng nói gì với Lưu hết, chỉ khi Lưu hỏi thì mới trả lời cụt ngủn và tâm trí để tận đâu đâu. Trông An ốm và phờ phạc đến độ Lưu sợ An gục tại nhà Lưu thì khổ lắm.

Cả nhà An đang lo cuống cuồng đến độ má An bị bệnh. An là con trai duy nhất trong năm người con nên bà thương và đặt hy vọng vào An nhiều nhất. Ba An mất khi An vừa hai tuổi. Bà phải xoay sở đủ cách để năm đứa con được học hành đến nơi, đến chốn. Trước đây bà rất thương Di vì Di cũng mồ côi cha và hiếu học. Nhưng từ khi Di ra đi và An học hành sa sút thì những gì Di để lại trong bà chỉ là lòng oán trách. Dù vẫn biết rằng trong chuyện nầy An chính là người khởi xướng, Di chỉ bị cuốn theo mà thôi. Bà trách Di không hướng An về mặc tích cực, nếu Di khéo léo thì chắc An sẽ dốc sức học, không phải mắc bệnh và không còn ham học nữa.

Ngày hôm sau An lại đến trường Di. Ông già bán sách trên lề đường đã quen mặt nên cho An tờ báo cũ lót xuống đất ngồi cho đỡ mỏi. An ngồi nhìn lên hàng cây liêm xẹt nở hoa vàng ối, nhớ đến cái biệt danh mà An đặt cho Di,"Liêm xẹt cô nương", để đáp trả vì Di gọi An là "Công tử đạo chích" khi phát hiện An lấy trộm kẹp tóc của mình. An không nhớ tại sao lại gọi Di như vậy, vì ở chỗ An cây Liêm xẹt rất ít và An cũng không yêu thích nó. Bây giờ An bỗng ước ao hóa thành cái cây to với cả trăm cánh tay xòe rộng ấy! An sẽ đứng mãi đó chờ Di mà không bị ai xoi mói, cho đến khi nào Di xuất hiện thì An sẽ trở lại là mình.

Ông già bán sách chắc đã có kinh nghiệm trên tình trường, chẳng hỏi han chi, thể hiện sự thông cảm của mình bằng cách bẻ nửa ổ bánh mì thịt dúi vào tay An và giục "ăn đi". Thỉnh thoảng ông lại đưa ca nước cho An uống mà không nói một lời. Đến chiều An trả ơn bằng cách xếp những quyển sách vào hai cái bao bố cho ông rồi bưng một bao đặt lên sườn xe phía trước, cái còn lại thì lấy thun ràng vào cái bọc ba ga phía sau. An đứng nhìn theo cái lưng gò lên vì chở nặng mà cảm thương cho cả ổng và mình.

Về đến nhà Lưu, An quá đổi ngạc nhiên khi thấy chị ba của mình trong phòng khách, vừa thấy An là chỉ ôm chầm lấy, vừa khóc nức nở, vừa nói:

-Em về nhà liền đi, má bịnh nặng lắm!

Từ hôm trở về nhà đến nay, tối nào An cũng mang tập ra bàn ngồi học đến khuya cho má vui. An cố nhét từng con chữ vào đầu, cũng giống như má đang nhăn mặt nuốt từng ngụm nước đắng nghét trong chén thuốc. Ngày xưa còn Di An học rất hăng, một phần sợ quê với Di, một phần có cớ để mượn Di chỉ bài, để được ngồi sát bên Di hít mùi chanh tỏa ra từ mái tóc của Di mới gội. Đôi khi An cố tình chạm má vào mái tóc của Di. Di né ra xa rồi trêu:

-Coi chừng lây chí cho Di đó!

Nhờ vậy mà năm nào An cũng được cùng Di đi lảnh thưởng. Năm ngoái, lảnh thưởng xong An không chở Di về nhà liền mà chạy ngược về hướng núi, vòng qua con lộ đất băng qua đám ruộng để về nhà. An đạp rất chậm và Di cũng không thúc giục, hai đứa nói rất ít. An huýt sáo khe khẻ bài "Con đường tình ta đi". Di lẩm bẩm hát theo, nhớ đến đấy An bỗng buột miệng huýt sáo làm mấy bà chị cứ nhìn mãi miết.

Chủ nhật, An lấy cái túi to cho vào mấy cuốn tập, thơ, truyện, một chai nước, hai gói mì tôm và nhét thêm cái võng nhà binh rồi đạp xe vô núi. An tìm được một chỗ ở lưng chừng núi, xa con lộ và ít người qua lại rồi máng cái võng qua hai cây me, nằm ngữa mặt nhìn trời.

Mặt trời bị đám mây che bớt, rót ánh nắng rất dịu chiếu qua những chùm lá nhỏ lao xao, những đốm trắng rung rinh rớt xuống người An như bầy bướm chập chờn thoắt bay, thoắt đậu. An lấy tập ra cố học được chữ nào hay chữ nấy, những con chữ bỗng cứng đầu một cách lạ lùng. An xếp lại, nằm nhắm mắt tưởng tượng giá mà có Di ngồi bên lúc nầy, không biết giờ nầy Di đang làm gì? Có vừa giặt đồ vừa hát như những chủ nhật ngày xưa. Nỗi buồn từ đâu bay tới đậu xuống chân rồi trườn dài lên ngực, mi mắt nằng nặng. An mở vội ra rồi ngước lên trời như kiếm tìm một lời an ủi.Trời cao xa và vô tình quá chẳng hề động lòng trước nỗi thống khổ của An. An rút cây viết gài trên miệng túi ra, miết tay lên hai chữ "Hè xa" vàng ố, tự hỏi lòng sao thế giới chỉ thiếu có một người mà trở nên hoang vắng và điêu tàn quá đỗi!

Đến trưa An lấy gói mì ra bẻ từng mẩu nhỏ cho vào miệng nhai. Mấy con kiến bò quanh quẩn bên chân. An bóp vụn rồi cho chúng môt ít vậy mà bị chúng chê, chẳng những không thèm ăn mà còn kéo nhau đi chỗ khác.

An mở tập ra cố học rồi lại xếp vào, moi trong túi ra cuốn tạp chí "Thời nay", mở đại một trang trúng ngay môt bài thơ có cái tựa rất dài "Thơ cứ mọc như râu như tóc":

Thôi em chớ kêu căng như vậy!

Được tôi yêu là quí vô cùng

Thơ không đọc làm sao ngó thấy

Cái đam mê vời vợi, điên khùng

.......

Thôi em chớ là em tôi nữa

Đâu có buồn, đâu có nói ngông

Thơ cứ mọc như râu, như tóc

Tôi cứ già trong nỗi nhớ mong

Thôi em chớ là em tôi nữa

Tôi thất tình, phải vậy hay không?

An đọc mà khâm phục cái khí phách của nhà thơ ấy quá. Chắc ông ta lớn tuổi hơn cô gái nhiều lắm nên mới có cái giọng la rầy, mắng mỏ như vậy! Chẳng bù với An, nói với Di cứ chọn lọc từ lời, chỉ toàn nói ngọt thôi mà còn bị giận lên, giận xuống.

Buổi trưa mây kéo nhau đi trốn hết bỏ lại cả một bầu trời trơ trọi. Những tia nắng không bị ngăn cản, xuyên thẳng xuống trái đất như vô số thanh kiếm bén ngót vừa nung hừng hực nóng. Gió khi cần lại bỏ đi mất biệt. An thòng chân xuống đất đẩy chiếc võng đu đưa ước gì An ngủ được và nơi kia Di cũng ngủ để cả hai cùng bay đến và gặp nhau trong mộng. Ýnghĩ vẩn vơ ấy càng làm An xao xuyến càng đẩy giấc ngủ ra xa tít.

Quá bận bịu với mối tình của mình, An có lẻ là một trong số rất ít những người không quan tâm đến thời cuộc. Lệnh tổng động viên ban ra và tiếp đến tất cả các ngôi trường đều đóng cửa, rồi đến ngày ba mươi tháng tư, chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc. Những ngày nầy má An luôn bồn chồn lo lắng, số tiền bà gửi ngân hàng bị mất trắng. Những người được bà cho mượn vốn làm ăn cũng nhân cơ hội nầy xù luôn không trả. Không khí trong gia đình tối đi còn lòng An lại le lói một tia hy vọng, nghe đâu việc làm ăn của má Di đang gặp khó khăn. Bà không còn khả năng chu cấp và cho con học tiếp, có lẻ Di sẽ nghỉ học về quê. An mong đợi từng ngày, từng ngày, chờ hoài chờ mãi mà chẳng nghe tin gì của Di hết cả.

Một buổi chiều khi An đang ngồi chép lại tập thơ "Đoạn trường vô thanh" của Phạm Thiên Thư, bỗng nghe mợ của Di nói với má An là Di đã đi lấy chồng rồi. Bao nhiêu cái chuông trên thế giới như cùng lúc gióng lên, tạo thành cơn lốc âm thanh làm nổ tung mặt đất. An như bị xé ra thành trăm ngàn mảnh nhỏ. Cây viết chết cứng trong những ngón tay đã chết. Cả trái tim, cả hơi thở của An cũng cùng rời bỏ thân xác mà đi!

An như người sắp chết đuối vừa ngoi lên mặt nước lại bị nhận chìm sát đáy, chút hi vọng mong manh đã rời bỏ An mà ra đi mãi. An thấy mình vô cùng trơ trọi, cảm giác như cả thế nhân đều dồn về một phía, An một mình ở phía bên kia.

Hàng ngày An ra khỏi nhà rất sớm, đạp xe đi loanh quoanh mà chẳng biết ghé vào đâu. Một lần An vô tình đi trở lại con đường đất ngày xưa. Cái rẫy bắp ấy năm nay cũng đã trổ cờ, lay lay như tấm thảm thật dầy màu tím bập bềnh trong gió. Năm trước cũng vào mùa nầy An chở Di đến đây, cũng ghé vào cái rẫy bắp nầy...

An cho xe chạy chậm sát lề, những tàu lá nhám cứa vào mặt nghe ran rát. Trong đầu An cái dáng cúi nghiêng và những sợi tóc nổi loạn của Di tái hiện. Cái vòng ôm rất nhẹ hôm ấy hồi sinh và lại làm An thót bụng. Từ hôm đó nó vẫn còn để lại trên eo An một vết phỏng mơ hồ, không phát tác ra ngoài mà cứ chìm dần vào bên trong, co lại thành hạt mầm rất nhỏ chờ điều kiện thuận lợi là nhoi lên. Cảm giác nuối tiếc quá mãnh liệt làm An gần như tê dại. An dừng xe, ngồi dựa lưng vào cây ô môi rất già bên cạnh đường, ngước mắt nhìn những trái đen thui dài như cây gậy lòng thòng đu đưa. Mấy cái tổ chim hình chiếc giày, nhà của bầy chim se sẻ, cũng lắc lư nhè nhẹ. Cuộc sống của An bây giờ cũng giống như những cái tổ chim kia, liên tục đương đầu với mưa gió, ráng bám víu để rồi một ngày cũng phải rời bỏ cành cây...

Trời dần sụp tối, chút nắng chiều chìm dần rồi biến mất. An uể oải đứng dậy ra về, giá không bị bầy muỗi đói bao vây chắc An sẽ ngồi lại mãi. Con đường đất đầy những ổ gà do dấu chân bò từ những mùa mưa trước để lại làm chiếc xe cứ xóc nẩy liên tục làm An nhớ đến cái lần chở Di. Hôm ấy Di ngồi phía sau cứ kềm chặt cái yên sợ té. Một lần bánh xe sụp vào lỗ sâu cả người Di ngã về phía trước áp chặt vào lưng An, hai khối mềm mềm tựa vào lưng êm ái quá, vậy mà làm An ê buốt tận chân răng.

Cái quán nhỏ nằm sát đường vắng teo làm An cảm động. An sờ túi rồi ghé vào kêu một xị rượu ngồi uống khan, rượu cay làm nước mắt cũng cay. An ngữa cổ cho ngụm rượu cuối cùng chảy vào tận đáy, lớp cặn buồn tích lũy bên dưới trổi dậy. An cứ ngữa mặt hoài như cố tìm kiếm ông trời, để hỏi ổng coi làm việc cái kiểu gì mà để cho thế gian buồn bả thê lương và con người ta điêu linh đến vậy!

Về đến nhà chắc đã khuya lắm, An đưa tay gõ cửa, thật lâu, rất lâu má mới đi ra. Má nhìn An, tia mắt là hợp chất của những nỗi thất vọng, u buồn và chán nản. Bà hỏi An, giọng nhỏ hết mức và gay gắt hết mức:

-Sao không đi luôn đi?

An chạy ra cái đường mương phía sau nhà tắm, cúi mình ói ra cái thứ nước vừa cay vừa đắng. Má không thèm đi theo mà bỏ vào vườn nằm, sức chịu đựng của bà đã cạn. An chui vào phòng nằm vật xuống giường không thèm giăng mùng. Bầy muỗi đói báo tin cho nhau, vội vàng kéo đến, hối hả như sắp dự một bữa tiệc sau cùng.

Quá nửa đêm An choàng tỉnh, cổ họng khô rát bò ra nhà sau uống nước, chợt lập lại một thói quen đưa tay sờ lên miệng túi móc cây viết ra, cây viết chỉ còn cái nắp mà thôi. Một đợt chấn động dấy lên, An buông người rơi xuống ghế. Cảm giác tuyệt vọng như lấp hết các khoảng trống bên trong An và cả bên ngoài...Sao ông trời đối với An quá bất công, cho An những khoảnh khắc vui tươi ngắn ngủi rồi bòn rút sinh lực An, bắt An đóng thuế suốt quảng đời còn lại. Thôi đến đây là quá đủ, An thật sự không còn sức để vay mượn và chi trả nữa. An sẽ ra đi, Di hãy sống giùm An cái quảng đời sau cùng Di nhé! Kiếp sau của tụi mình An chắc chắn không còn đến trễ hơn Di nữa đâu!

An mở tủ, lấy lọ thuốc sốt rét anh Khanh để lại trút ra tay ba viên rồi rót thật đầy ly nước, thuốc quá đắng nên An nuốt vội. An trở vào phòng nằm im, ly nước đầy thấm đẵm cả người An rồi tràn ra ngoài làm ướt hết hai gò má.