← Quay lại trang sách

Chương bảy

Di sinh con trai thứ nhì vào đầu mùa mưa và gần cuối mùa hè, vì sinh mổ nên hai mẹ con phải cách ly mỗi người một nơi. Từ ngày lấy chồng đến nay đây là lần đầu tiên Di được hoàn toàn rảnh rổi. Chiều chiều Di ra cái băng gỗ kê ngoài hành lang nhìn xuống khoảng sân nhỏ. Năm nay mùa hè rất nóng, nhựa cây như cô đặc hơn mọi năm nên nhuộm lên hoa một màu còn hơn màu đỏ.

Ba đứa bé gái, có lẻ cha mẹ là nhân viên bệnh viện, đang bình thản chơi đùa. Chúng lượm những bông phượng rơi nằm dưới đất, ngắt mấy cái lá đài thổi phồng lên như những bong bóng nhỏ xiú, đập mạnh lên trán cho nó vỡ ra rồi cười với nhau. Những cô y tá đang luyện môn cầu lông để chuẩn bị cho cuộc thi sắp đến. Tiếng trái cầu chạm vợt làm nền cho những tiếng kêu ré vì thích thú hoặc thất vọng của họ không hiểu sao lại khuấy đảo lòng Di. Một niềm tiếc nuối nằm sâu dưới đáy bỗng trào lên, len vào tận cùng những góc xa xôi nhỏ bé nhất, ép những giọt nước trào ra khóe mắt. Từ ngày lấy chồng Di cứ khóc suốt nên người chồng có lần quá bực bội đã quát:

-Bộ cô hối hận lắm hả?

Lần nầy Di khóc nhiều nhất, nước mắt cứ tuôn hoài không sao kềm lại được. Tại sao nhìn những đứa bé chơi đùa với mấy cánh phượng, màu áo trắng và tiếng cười vui ấy lại làm Di đau lòng đến vậy? Nỗi tuyệt vọng làm tim trĩu nặng, như thể một điều gì rất đẹp đã rời bỏ Di và trôi xa mãi. Cảm giác nầy cũng giống như ngày xưa, khi vuột tay làm bay mất cái bong bóng rất đẹp, rất yêu thích rồi cứ khóc và nhìn theo cho đến khi mất hút.

Tuần lễ sau Di xuất viện và bồng con về nhà. Tối đó cô em chồng mang vào cho Di một lá thơ, cổ nói:

-Ở quê gữi lên cho chị nè!

Di lật đật mở ra xem, thơ của chị Ba, Di hỏi:

-Ai mang đến vậy, đàn ông hay đàn bà?

-Đàn ông.

Di chạy vội ra, người mang thư nầy chắc chắn là bà con, bạn bè hoặc lối xóm, sao đến tận đây mà không vào thăm Di? Di rất khao khát, rất muốn nghe tin tức của quê nhà, cô em chồng nói vói theo:

-Tui có mời mà y hổng chịu vô nhà, đi liền hà!

Di vẫn cắm đầu chạy miết ra đường, nhìn dáo dác chẳng thấy bóng ai quen thuộc.

Sau thời gian nghỉ hộ sản Di đem con về quê gửi má. Đây là lần đầu tiên Di về nhà sau gần ba năm lấy chồng đi biệt, xe chạy ngang qua nhà mợ để xuống bắc qua sông. Di liếc mắt nhìn vào con hẻm cũ, không còn người áo trắng đứng tựa hàng rào, cây vú sữa vẫn ở đó giữa mảnh sân ngập lá. Chiếc võng ngoài hiên nằm im ru vì trời không gió, còn lòng Di thì tan tác như một cơn bão vừa mới đi qua!

Một tuần sau khi Di đang ở chỗ làm thì nhận được điện tín má gửi lên, bảo về gấp vì con bệnh rất nặng. Sờ túi còn đủ tiền xe, Di nhờ người bạn làm chung ghé nhà chồng báo tin rồi tức tốc về quê liền. Ra đến bến xe, chiếc sau cùng về tận nhà Di đã rời bến. Vậy là phải đi xe chuyền từng chặng một, mất thì giờ và tốn tiền gấp đôi. Đến chặng cuối còn cách nhà hai mươi ba cây số thì trời đã sập tối, bến xe vắng ngắt và trong túi cũng cạn tiền Di đành cuốc bộ. Nóng ruột vì con Di chẳng hề thấy mệt, cũng không còn sợ mấy con chó vừa đuổi theo vừa sủa ào ào. Di đi suốt bốn tiếng đồng hồ không nghỉ chân cũng không dám dừng lại uống nước thì đến nhà nội, vậy là còn cách nhà Di hơn hai cây số. Di ghé vào nhà bác Tư ở gần sát lộ, nhà bác đã tắt đèn đi ngủ. Di gọi cửa hồi lâu, người anh con của bác ra mở, bộ dạng của Di làm anh sửng sốt, anh hỏi:

-Trời đất ơi! Cô tư đó hả, đi đâu mà ghé giờ nầy?

-Em từ Sài gòn về, con em bệnh nên phải về đón nó liền. Em đi xe chuyền nên về tới bắc Năng gù là hết xe phải đi bộ từ đó về đây.

Thấy ánh đèn và nghe tiếng nói chuyện mấy ông anh con cô Ba và bác Sáu kéo đến. Bây giờ Di mới cảm thấy đuối sức vô cùng, bèn nói:

-Em ghé mượn chiếc xe đạp đi về nhà cho nhanh, với lại em mệt quá đi hết nổi rồi!

Mấy ông anh không nói một tiếng chỉ lắc đầu từ chối. Trong đời Di đã có những lúc bị chết đuối bởi lòng người, nhưng lần nầy thì niềm tin nhỏ nhoi trong lòng Di đã hoàn toàn phá sản. Di thất thểu bước đi, chân đau và lòng nhói buốt!

Vừa chạm cổng rào Di cất tiếng gọi liền:

-Má ơi!má

Như đã chực sẵn từ bên cửa, giọng má vọng ra cùng lúc với tiếng mở chốt lách cách:

-Sao về trễ dữ vậy con?

-Hết xe suốt, con phải đi từng chặng nên mới lâu như vậy.

-Con đi bằng gì về mà má không nghe tiếng xe?

-Con đi bộ từ bắc Năng gù về đây đó má!

Giọng má thảng thốt:

-Trời đất ơi! Tội nghiệp con tui quá!

Di nói tiếp, giọng đầy uất nghẹn:

-Con ghé nhà mấy bác mượn chiếc xe đạp chạy về mà hổng ai cho hết!

Má lại kêu trời mà chẳng nói tiếng nào. Di chạy ào vào phòng, chị ba đang bồng bé Phúc, con của Di, trên tay. Di nhìn con, chới với trước gương mặt gầy đến bày cả xương gò má, hai cánh tay có ngấn hôm trước bây giờ khẳng khiu và đôi mắt của con nhìn Di như đong đầy lời trách móc. Di đưa tay ôm lấy con, chị Ba né ra rồi hối:

-Em đi tắm, thay đồ liền đi rồi hãy bồng con.

Má trút nước từ bình thủy ra cái xô nhựa rồi bảo Di:

-Pha nước ấm ấm tắm cái mình thôi, còn cái đầu khoan có gội.

Di đang tắm thì nghe mùi cá kho vọng vào thơm phức mới nhớ từ sáng đến giờ chưa có cái gì trong bụng, má hối:

-Lẹ đi rồi ra ăn ba hột cơm để có sữa, thằng nhỏ nó nhớ sữa mẹ chớ hổng có chịu bú sữa bò.

-Má nói chị ba cho con mượn bộ đồ, con đi mình không hổng có đem món gì theo hết.

Má lòn tay qua cửa đưa cho Di bộ đồ của chị. Di lau mình chưa kịp khô, mặc đồ nhanh như chớp rồi chạy vội ra bồng con liền. Con ốm và nhẹ quá, nỗi ân hận như cái bàn bào gọt lòng Di từng lát. Di ôm con, nước mắt rơi đầy trên mặt, rớt cả lên miệng con, hai bờ môi nhỏ xíu hé ra hớp lấy. Di trật áo cho con bú đứa bé vùi đầu vào ngực mẹ nút rất mạnh rồi nhả ra khóc. Di cũng khóc ngất như con rồi buột miệng nói:

-Mẹ xin lỗi con, mẹ xin lỗi con, mẹ không còn sữa cho con nữa rồi!

Má bưng mâm cơm chạy vô lật đật, hỏi bằng giọng thảng thốt:

-Cái gì vậy, thằng nhỏ có sao hông?

-Con hết sữa rồi má ơi! Mấy ngày trước sữa căng làm con nóng lạnh, con phải vắt đem bỏ, còn bây giờ con con đói mà con không còn đến một giọt...

Má vội đặt mâm xuống giường ôm chặt hai cái vai run và cái lưng cúi gập của Di, giọng má nghẹn ngào:

-Tội nghiệp con gái của tui!

Chị Ba quay mặt sang bên để che hai cái gò má ướt đẫm, chị bảo Di:

-Đưa bé Phúc cho chị, em ăn cơm đi để một chút xe tới đi không kịp đó!

Di cứ ôm con miết, chị Ba phải lấy muổng xúc từ miếng cơm đút cho Di. Miếng cơm đẩy những lời ăn năn mà Di muốn nói với con chìm vào nơi sâu thẵm: "Con ơi! mẹ của con dại khờ đến ác độc, mẹ nở bỏ con ở lại mà ra đi một mình, để mỗi lần sữa căng là mẹ lại nhớ con đứt ruột vì biết rằng con của mẹ đang đói lắm! Cả đời nầy mẹ sẽ không tha thứ cho mình, cái lỗi nầy mẹ trả cho con đến suốt đời cũng chưa hết!"

Chị Ba ép Di ăn cho đến miếng cuối cùng. Chị dẹp cái mâm rồi lấy lược chải tóc cho Di, giọng chị ngậm ngùi:

-Sao tóc em thưa quá vậy?

-Em bị rụng tóc, mỗi lần chải đầu tóc dính đầy lược luôn.

-Hồi trước tóc em đẹp lắm em có biết không?

Di không trả lời chị, bây giờ Di rất sợ những câu bắt đầu bằng từ "hồi trước".

Má bắt chị Ba đưa Di lên Sài gòn. Chị Ba đang học sư phạm ở Long Xuyên, chị đưa Di đến nơi xong là phải quay về trường liền để hôm sau kịp vào lớp.

Ba giờ sáng chuyến xe đầu tiên bắt đầu chạy, họ phải đi rất sớm để trốn mấy cái trạm gác. Lúc nầy dọc theo đường trạm gác mọc lên như nấm, bắt đồ lậu từ biên giới tuồn sang và ngay cả gạo, thịt heo cũng bị coi là hàng quốc cấm. Cứ mỗi lần đến trạm gác là hàng hóa trên xe bị lôi xuống, mọi ngóc ngách bị xới tung. Chị lái buôn nào quen thân với lơ và tài xế thì được giấu hàng ở nơi kín đáo không bị phát hiện. Do vậy mà nghề tài xế được vọt lên hàng đầu. Cho nên mới có một câu chuyện vui có thật rằng một vị kia, có bằng cữ nhân hẳn hoi nhưng muốn cưới được vợ phải nói dối rằng mình làm tài xế!!!

Xe bị kẹt ở bắc Mỹ Thuận. Di xuống xe đi mua nước sôi để pha sữa cho con. Trụn bình khuấy sữa xong Di dốc ngược bình sữa, nhểu mấy giọt lên tay để kiểm tra độ nóng, không một giọt nào chảy ra dù Di cố lắc. Một cái rùng mình chạy dọc sống lưng, thì ra không phải bé chê sữa bò mà vì sữa không thoát ra được. Di mở cây kim tây đang gài miệng túi, nhúng vào nước sôi rồi khoét cho cái lỗ rộng ra mang lên xe cho con bú liền. Bé nút một hơi cạn hết bình làm chị Ba sững sờ kinh ngạc. Di giải thích cho chị hiểu rồi hai chị em lại khóc với nhau, tên lơ xe chẳng biết ất, giáp gì nạt té tát:

-Lên xe là không được khóc nghe mấy bà nội!

Vừa về Sài gòn, ngày hôm sau Di đưa con vào bệnh viện, bé bị viêm phổi và được điều trị ngoại trú. Di phải nghỉ việc để chăm sóc con, bé bú được nhiều nên mau hết bệnh, sau một tháng gương mặt bé đã hồng hào trở lại. Nụ cười đầu tiên của bé như bóng đèn 100 watt mới được thay, chiếu sáng xua tan nỗi lo âu, ân hận trong lòng Di.

Di trở về cuộc sống của những ngày mới về nhà chồng, túi bụi với việc nhà và hai con. Thậm chí ban đêm Di cũng không ngủ được trọn giấc. Người chồng, một phần vì ham vui, một phần cố tránh tia mắt trách móc của vợ cùng những lời cằn nhằn của mẹ và mấy chị nên cứ đi miết cả ngày, có khi suốt cả đêm. hôm nào ngoan lắm là gọi cửa lúc một, hai giờ sáng, rồi ngủ một giấc đến trưa mới dậy. Cái thói sa đà ấy bị má chồng ghi vào sổ nợ của Di. Di bị chê là không biết chìu, để chồng chán sinh ăn chơi, bồ bịch...

Bây giờ Di mới thắm thía cái nỗi bất công mà ông trời dành cho phụ nữ trong hôn nhân. Những bổn phận chồng chất lên vai, nghĩa vụ tỷ lệ nghịch với quyền lợi, càng ngoan ngỏan lại càng bị áp đặt. Có khi Di trách má, tại má ngày xưa cứ dạy Di chiụ thua, chịu thiệt. Má cứ nói hoài cái câu:"một điều nhịn chín điều lành" nên Di không dám chống đối. Di quá nhút nhát không dám nổi loạn, cũng không dám ôm con về quê sợ làm gánh nặng cho má, sợ má đau lòng và xấu hổ với bà con lối xóm.

Cái niềm vui mà ái tình mang đến cho Di cũng quá ư ngắn ngủi, không tươi đẹp, rực rở như Di tưởng tượng. Thần tình yêu với đôi cánh dang rộng đưa người ta lên chín tầng mây mà Di đọc, thấy từ phim và sách, xuất hiện trước mặt Di sao tàn tạ quá! Chẳng những không có nét hùng tráng oai nghiêm của một vị thần mà còn thiếu hẳn vẻ trong sáng, lãng mạn của một chàng trai rất đổi bình thường. Khi thì y bạo ngược như một tên cướp. Khi thì như một kẻ đòi nợ vô cùng riết róng. Khi lại mang lại dáng dấp của một người ăn xin bám dai như đĩa. Hiếm hoi lắm ông ta mới tử tế ban tặng cho Di những gói quà nho nhỏ. Những lúc ấy Di lại nghi ngại, e dè không dám chạm tay vào. Như thể đó là tờ giấy bạc, con chim bồ câu hay bông hồng trong tay mấy nhà ảo thuật. Ngày xưa Di đã kỳ vọng ở ông rất nhiều còn bây giờ người mà Di tri ân nhất chính là những nhà bào chế đã tạo ra mấy viên thuốc trắng tinh, nhỏ xíu mà Di uống đều đặn vào mỗi buổi sáng.

Thời kỳ nầy Di có hai người bạn nhỏ: Đó là con chó Phốc bị chủ vượt biên bỏ lại và một con vịt xiêm lai nhỏ.

Một sáng Di mở cửa thấy con chó nằm mẹp trước thềm nhà, bộ lông rụng gần hết, đói đến kêu không nổi. Di lấy cái lon sữa bò còn sót chút cặn sắp bỏ, rót nước nóng vào tráng lớp sữa dưới đáy lon, rót ra tô cho nó uống. Nó cúi đầu nốc một hơi, liếm cái tô sạch bách rồi ngước mắt nhìn Di. Di đi bới thêm cho nó một tô cơm nguội, chan một muổng mỡ rồi rưới thêm mấy giọt nước mắm. Nó xực hết rồi lấy lưỡi lau cái tô rất kỹ.

Từ hôm ấy nó cứ quanh quẩn trước nhà. Má chồng Di sợ nó lây ghẻ cho con chó bẹt giê đang nuôi, cứ cầm cây xua hoài mà nó chẵng chịu đi. Cậu con út vốn tính nhân hậu năn nỉ mãi. Thế là nó được đem tắm thật sạch, được cho nhập hộ khẩu và được khai sanh với cái tên mới là "Xà mâu". Chừng hai tháng sau, bà Tám cô ruột của má chồng Di đến chơi rồi xin nó. Ban đầu chẳng ai chịu cho, bà ta đánh vào chỗ yếu của má chồng Di, bả nói:

-Nhà cháu bị liệt vào hàng giàu có, bị để ý dữ lắm mà còn nuôi thêm chó, lại là chó tây nữa chớ! Coi chừng bị đánh tư sản đó!

Vậy là con chó bị đem đi, tội nghiệp chú em chồng vừa cho nó vào bao vừa rơi nước mắt. Di chạy thật lẹ lên lầu cố né tia mắt và tiếng kêu của nó, đang như những cái gai cố ghim sâu vào tim Di vậy!

Người bạn còn lại, con vịt xiêm lai, xuất thân từ đám trứng vịt lộn để quên. Một bầy sáu con nở một lượt rồi chết dần chỉ còn mình nó. Nó có một khẩu vị khác thường, rất thích ăn nước đá và bao giấy kiếng bọc bên ngoài mấy gói thuốc lá. Nó là tên bụi đời thứ thiệt, cứ sáng ra là chẳng bao giờ gặp, tối mịt mới mò về nhà, đến sát bên chân Di rồi nằm mẹp xuống. Di bỏ dép đặt cái chân trần lên mình nó rồi nhẹ nhàng chà tới chà lui. Nó cứ nằm im ru, tận hưởng sự ve vuốt một cách lười biếng, cho đến khi Di mỏi chân hoặc bận công việc phải dừng lại mới chịu đứng lên đi ngủ. Tết năm ấy là cái tết đầu tiên và sau cùng của nó, mà nó cũng không được hưởng đủ ba ngày, mới mùng hai đã bị một chiếc xe Hon đa cán dẹp nát đầu ngay trước mắt Di. Kể từ đó Di cương quyết không nuôi hay thương bất cứ một con vật nào nữa cả!

Niềm vui lớn nhất của Di ngoài hai đứa con là những bức thư của chị Ba. Cứ đều đặn mỗi tuần chị gửi cho Di một lá. Ông phát thư lần nào trao cũng cười đáp lại Di. Di mua giúp ông một đòn bánh tét nhưn chuối, rồi cả ông và Di đều nói cám ơn cùng một lúc.

Cái thư kỳ nầy có vẻ nặng hơn mọi lần. Di giặt đồ thật nhanh rồi vào phòng đóng chặt cửa lại và mở thư ra đọc. Cái thư nào của chị ba cũng bị lem vì Di cứ vừa đọc vừa khóc, bởi lý do đó mà Di phải đọc một mình để không bị ai bắt gặp. Di hấp tấp mở thư, ba tờ giấy đôi đầy kín chữ. Chị báo cho Di biết chị đang đi thực tập trong một ngôi trường rất nghèo ở một vùng nghèo nhất nước. Chị tả cho Di về những đứa học trò thuộc dân tộc thiểu số. Chúng mặc những cái áo có ít nhất là ba miếng vá. Chúng cười đùa thật hồn nhiên và hay mang vào lớp tặng cô giáo bất cứ thứ trái cây gì chúng hái được trên đường. Có một đoạn Di vừa đọc vừa cười sặc sụa khi chỉ kể là được học trò thương cũng khổ. Có một lần chỉ đau bụng quá mà tụi học trò cứ tò tò bám theo làm không thể nào chui vào lùm cây giải quyết được. Phải vận nội công hết mức để kềm lại, đau tới đổ mồ hôi hột đến tụi nó phải kêu lên:

-Cô ơi, sao mặt cô xanh lè vậy?

Có một đoạn chỉ tả cảnh buổi chiều làm Di vô cùng xúc động:

"...Chị rất mê những tia nắng cuối ngày thật hào nhoáng nầy. Em có biết không? Chị tưởng tượng là ở trên kia, có những con sông, cánh đồng và làng mạc làm bằng bông gòn. Gió rải đều những cụm mây thành những hình thù gần như đồng dạng, cong cong giống như một đàn cừu trắng đang cúi đầu gậm cỏ. Có những đám mây như cánh đồng trồng đầy bông cải đang mùa thu hoạch. Những đám mây ở gần mặt trời mang màu đỏ chói chang, cuồn cuộn như dung nham trào ra từ núi lửa. Như thể thiên nhiên đang cố vét hết nhiên liệu của mình để thấp sáng cả bầu trời và mặt đất trong một lần sau cuối, phối thành một màu gam màu vô cùng rực rở. Chị nín thở, không thể diễn tả được cái điều đang làm mắt chị rưng rưng, cảm xúc của chị đang bay rất cao còn ngôn từ thì ì ạch đuổi theo và không thể nào bắt kịp. Nếu có em ở đây chị chắc rằng em sẽ làm được một bài thơ thật hay, mà em còn làm thơ không vậy?...",

Di đã trả lời cho chị như thế nầy:

"Chị rất thương!

Đọc thư chị lần nào em cũng vừa cười vừa khóc. Cảm giác nuối tiếc dâng lên từng đợt trong lòng như sóng, chị hỏi em có còn làm thơ hay không hả? Cây viết, ngoài lúc viết thư cho chị ra em rất ít khi cầm đến, tâm hồn em bây giờ nặng nề và cùng mằn lắm! Âm nhạc, thơ văn và sách báo đối với em là một mặt hàng xa xí, hay như một người tình đã rời bỏ em hoặc bị em rời bỏ, thậm chí khi em ru con thì những câu ầu ơ cũng làm lòng em se thắt. Em, kẻ đào ngũ, kẻ phản bội nên suốt đời phải đi trong bóng tối và né tránh đồng loại.

Thỉnh thoảng em lại nằm mơ thấy mình còn đi học, để rồi khi tỉnh vậy cứ ngơ ngác và khi nhận ra thực trạng thì phải cắn chặt môi mà ghìm tiếng khóc. Rồi cứ nói một mình:"Di ơi! Mầy đã có chồng rồi, có đến hai đứa con rồi, đi xa quá rồi không còn quay lại được nữa đâu!".

Mỗi lần nhìn hai đứa con Di cảm thấy mình vô cùng có lỗi với chúng. Những lời yêu thương Di dành cho con thường xen lẫn những lời tạ lỗi, bởi hơn một lần Di ước ao được trở về đời sống cũ. Có lần đi ngang qua một ngôi nhà trong con hẻm nhỏ, tiếng nhạc hòa tấu bài " Yesterday once more" như níu giữ đôi chân và cột lòng Di bằng những sợi kẽm gai. Một cái đau vô cùng cụ thể có vị trí rõ ràng ở giữa ngực, rất mạnh, kéo dài rất lâu. Suốt ngày hôm ấy Di như bị rút cạn sinh lực và ủ rũ như kẻ mất hồn.

Ở trong ngôi nhà to lớn, ồn ào nầy Di thấy ngộp thở và cô đơn quá đỗi. Không khí ngày càng một nặng nề hơn. Má chồng lúc đầu có vẻ thương Di nhưng rồi trước những lời đơm đặt của mấy bà chị và mấy cô em chồng, bà dần dần xa Di từng bước. Ba chồng thì từ khi Di về làm dâu đến giờ ông chưa hề nhìn thẳng vào mặt hay nói với Di một tiếng. Cả con chó bẹt giê cũng về hùa với chủ, nó không thèm ăn cái tô cơm mà Di trộn cho, và không hề vẫy đuôi khi Di bước vô nhà. Di đâm ra mất niềm tin nơi bản thân, tự hỏi phải chăng mình đáng bị ghét bỏ và xem thường như vậy!

Những lời nói bóng gió làm Di vô cùng căm phẩn. Di ghét những người dựa vào tiền của, tự cho là mình cao sang rồi rẻ rúng người khác. Má chồng Di vì sợ bị kiểm kê hay đem tư trang giấu mỗi nơi một ít, khi thất lạc mọi người lại nghi ngờ lẫn nhau và người bị nghi ngờ nhiều nhất chính là Di.

Di viết thư tâm sự với chị Ba, bày tỏ mong muốn thiết tha của mình là có một căn nhà riêng. Chị Ba nói với má, số đất hương hỏa bên nội cho ba chị em, chị Ba cho luôn phần chỉ cho Di. Má điều đình với người đang mướn đất, bán hết cho chú ấy. Mặc dù hiện giờ nhà nước giao cho chú quyền canh tác nhưng chú vẫn trả tiền để làm chủ hẳn hoi. Đây là tính cách cao thượng của người nông dân mộc mạc, chơn chất quê Di.

Sài gòn vào thời điểm nầy nhà rẻ như bèo. Một số người bán để đi vượt biên, số khác bán để đi kinh tế mới. Với số tiền má đem lên cho, Di mua đươc căn nhà ở trong hẻm rộng khá khang trang. Từ hôm ấy, cứ giật mình thức giấc nửa đêm, nhìn lên cái trần nhà lạ lẫm, nhớ ra đây là căn nhà cuả mình Di lại nghe một niềm vui tràn ngập khắp người. Lòng tri ân má và chị Ba lại dạt dào làm Di rơi nước mắt!

Hôm dọn nhà lòng Di nhẹ cái túi còn nhẹ hơn. Má chồng đưa cho Di một cái bọc trong đó có một bịt gạo. Một nồi cơm điện National một lít hai, một bàn ủi, cả hai đều đã cũ. Cô em chồng thứ mười chạy theo đòi lại cái bàn ủi. Di chán quá lại viết thư kể cho chị ba, vài tuần sau má gửi lên cho Di cái bàn ủi mà ba chị em dùng lúc trước. Gặp lại nó Di mừng như gặp lại người bạn cũ, biết chắc chắn rằng người bạn nầy sẽ không bao giờ rời bỏ Di như con chó xà mâu và con vịt bụi đời.

Thời kỳ nầy Di phải tự lực cánh sinh, may mà ông chồng chỉ uống được nước đá nên hùn vô một cái tủ lạnh. Đêm nào Di cũng thức canh lấy đá đã đông cứng ra khỏi mấy cái ly nhôm, cho vô bịt ny lông để trữ lại bán cho bà con lối xóm. Nhờ vậy mà có tiền mua cá thịt cho con, còn Di thì ăn trường kỳ mắm và dưa mắm do má tự tay làm và gửi lên cho mà thôi!

Thời bao cấp cũng có cái vui của nó, có đêm đang ngủ ngon bỗng nghe tiếng hô lanh lảnh:

-Bà con ơi! Nộp sổ đen.(Sổ đen là hàng mậu dịch, sổ đỏ là hàng phân phối theo tiêu chuẩn).

Thế là cả xóm trở nên náo nhiệt hẳn lên. Tiếng chân chạy rần rần, tiếng người hỏi nhau inh ỏi:

-Bán món gì? Có lời nhiều hông?

Di chộp lẹ cuốn sổ trong cái chồng sổ để sẵn trên bàn, chạy như bay không kịp chải đầu. Ra đến nơi đã thấy mọi người xếp hàng đông nghịt, rồi thì cũng chen vô mà giành một chỗ. Chẳng cần biết họ bán thứ gì, thường là thực phẩm và hàng gia dụng như cá, khoai, mùng, mền, đồ nhựa...v...v... Cứ có cái gì là mua cái nấy, nếu không xài đem bán lại cũng có lời. Nhờ vậy mà Di cũng có chút tiền dằn túi.

Mỗi một gia đình có ít nhất là năm cuốn sổ: sổ hộ khẩu, sổ gạo(lương thực), sổ chất đốt, sổ khám bịnh, sổ mua sữa, sổ mua hàng hợp tác xã, sổ đen, sổ đỏ...Tội nghiệp mấy bác già không biết chữ cứ gọi tên theo màu bìa sổ nên lẩn lộn lung tung, bị nhân viên bán hàng xài xể. Người đi mua hàng thường bị cự te tua còn lâu mới được làm thượng đế. Nhất là vào những đợt bán gạo, người mua ai cũng ăn nói nhẹ nhàng, du dương và vẻ mặt thì rầu rầu cho người bán thương tình mà không nỡ làm khó. Cuộc sống gắn chặt với mấy cuốn sổ ấy, cho nên để diễn tả một tình huống vô cùng bi đát, người ta hay so sánh nó ngang với việc bị mất sổ gạo. Các nhân viên bán hàng trở nên cao giá, tha hồ mà kén chồng kén vợ.

Cái giới khổ như làm dâu là giới giáo, nghĩa vụ thì nhiều mà quyền lợi quá hẩm hiu, cho nên mới có câu:"giáo chức vứt cháo, thầy giáo tháo giầy". Cô giáo đi dạy phải tranh thủ bán thêm bánh kẹo, sinh tố cho học trò. Thầy cũng phải làm thêm một số nghề tay trái, bức tranh giáo dục cứ liên tục bị bôi xoá, phục chế mà hầu như không bao giờ hoàn thiện.

Di vừa mua nhà được một tháng thì đổi tiền đợt hai, mỗi gia đình chỉ đổi được một số tiền hạn chế như nhau. Má chồng mấy hôm trước viện cớ kẹt tiền không thể giúp cho Di, nay mang qua cả đống nhờ Di tìm người đổi mướn, còn riêng Di thì phải đổi giùm miễn phí. Nhà nước qui định chỉ đổi tiền lớn còn tiền lẻ từ mười đồng trở xuống vẫn xài như cũ, cho nên có những hàng quán chỉ nhận tiền lẻ mà thôi. Dịp nầy họ bán đắt như tôm tươi, hàng hóa lại tăng giá làm người nghèo càng thêm cực. Lâu lâu lại nổi lên những lời đồn như hết muối, hết đường thế là người ta ùn ùn kéo nhau đi mua gom. Cái hầm tránh đạn má chồng Di làm trong nhà từ thời chiến chứa đầy nhóc muối, đường, dầu ăn, xà bông, nước mắm v...v...

Người chồng vẫn không thay đổi cách sống, vẫn đi đến khuya lơ, khuya lắc và có khi cả tuần chẳng ghé về nhà. Lối xóm xầm xì rồi đồn thổi nói Di là vợ bé. Khi mua nhà lòng Di cũng nhen nhúm một chút hi vọng, mong khi ra ở riêng y sẽ có trách nhiệm với gia đình và tình cảm giữa hai người sẽ dần cải thiện. Bây giờ Di không còn mong đợi nữa, lòng trở nên thờ ơ. Mỗi khi bị ép buột phải chung đụng thì một nỗi u buồn, một niềm căm phẩn cứ dấy lên làm cho Di cắn môi đến rướm máu. Một đêm Di nhìn y trong giấc ngủ thật lâu, tự hỏi ở người nầy có cái gì mà làm Di phải đánh đổi hoài bảo của cả đời mình và chịu quá nhiều buồn tủi. Một nỗi căm ghét bản thân cuồn cuộn dâng lên. Di thấy thương hại cho mình và cho cả người đang nằm bên cạnh, tự hỏi người ấy dùng mọi thủ đoạn chiếm cho được Di để làm cái gì? Nếu chỉ chuốc lấy lòng oán giận của Di thì có ích gì đâu? Một lần Di đề nghị chia tay, y ta nhìn Di rồi hỏi:

-Tại sao, anh chưa bao giờ đánh em hết mà?

Câu nói ấy làm Di thất vọng vô cùng, nhận ra hai người ở hai thế giới khác biệt hoàn toàn và hầu như không có cùng ngôn ngữ. Như hai đường thẳng chỉ cắt nhau ở một điểm rồi tách xa, tiến về vô cực với hai hướng ngược chiều trong vũ trụ.

Di khám phá rằng y chẳng hề tôn tọng Di, chưa và sẽ không bao giờ hiểu Di, cũng không đủ cao thượng để trả tự do cho Di và giúp Di nuôi con. Từ đó Di thu mình lại và cố ít trò chuyện với y càng nhiều càng tốt, để tránh cho mình khỏi hụt hẩng hơn. Di cho rằng cuộc hôn nhân nầy là một trò chơi khăm mà số phận dành cho Di, hay nghiệp báo của Di từ kiếp trước. Tại sao Di ưng một người hội đủ những thói tật mà Di tối kỵ? Di như người cố phù phép để biến thành chim tung bay trên bầu trời cao rộng, nhưng rồi vì niệm sai thần chú mà phải làm kiếp côn trùng, suốt đời phải chui sâu vào lòng đất.

Cái tết đầu tiên của Di trong căn nhà mới, là một cái tết đơn sơ nhất mà Di hưởng từ trước đến giờ. Dù má và chị Ba cứ giục Di mang con về quê ăn tết, nhưng ngày thường mua vé xe còn phải chen lấn ì xèo thì vào ngày tết làm sao ba mẹ con có thể len chân. Mua vé chợ đen thì Di đâu kham nổi, vả lại Di cũng muốn tự tay mình lo một cái tết từ A đến Z coi nó ra thế nào!

Trước tết mười ngày Di đem cả mùng mền ra giặt, dịp nầy Di phải trút hầu bao mua một cái thau thật to ở cửa hàng hợp tác xã. Di bắt chước má, nấu nước sôi cho xà bông vào hòa tan rồi mới cho mền mùng và mấy cái áo gối vào. Con gái lớn của Di chưa được ba tuổi đã biết giúp mẹ, nhảy vào thau cùng giặt. Hai mẹ con vừa nắm hai tay nhau, vừa giậm chân sao cho cùng một nhịp, vừa hát một bài rất thịnh hành vào thời đó:

Cùng vui múa chung quanh vòng! Nào vui múa cùng vui.

Cùng vui múa chung quanh vòng! vui cùng vui múa đều

Nắm tay nhau, bắt tay nhau, vui cùng vui múa ca

Nắm tay nhau, bắt tay nhau,vui cùng vui múa đều.

Khoảng ngày 28-29 âm lịch nhà nước bắt đầu phân phối thịt heo. Từ sáng sớm Di đã tay bồng tay dắt hai đứa con đứng sắp hàng chờ mua thịt. Di đứng cạnh một bà đã già yếu lắm, ráng ghìm tiếng cười khi nghe cụ lâm râm cầu khấn:

-Nam mô a di đà phật, vái cho con bắt trúng một cục thịt đùi thiệt là ngon.

Di nghe thương cho cụ và thương cho ông trời hết sức, chắc mấy ngày nầy ổng mệt phờ râu...

Không hiểu ông trời có nhìn lộn chỗ hay không mà Di bắt trúng ngay một miếng thịt ba rọi. Di dắt hai con vô chợ mua thêm một trái dừa để về lấy nước kho thịt còn cơm thì làm mứt, thời nầy đường cát rất hiếm và mắc. Di mua một ký đường Móng trâu để sên. Cái chảo mứt dừa của Di y như cái trách cá trạch kho khô của má ngày xưa. Vậy mà ba mẹ con vẫn ăn ngon lành, chưa đến tết mà nó đã sạch bách.

Trước tết chị Ba đã may gửi lên cho ba mẹ con mỗi người một bộ quần áo mới. Lúc nầy vải Thái Lan được ưa chuộng lắm, nó được đưa qua từ đường biên giới phía tây nam, nên ở quê Di giá chỉ bằng 2/3 ở Sài gòn. Dân buôn vải lậu quấn cả chục mét vào người từ chân đến ngực chỉ chừa có cái đầu. Mấy người phụ nữ thì độn bụng thật to y như có bầu sắp đẻ. Chị Ba phải may rồi mới gửi chớ không dám để nguyên khúc vải sợ bị tịch thu. Chị may trừ hao nên mấy mẹ con mặc rộng rinh, trông ngộ hết biết!

Ngày mùng một tết Di thay đồ mới cho con rồi bắt hai đứa khoanh tay mừng tuổi. Bé Duyên, con gái lớn rất thông minh và dễ bảo, lập lại đúng y những lời mẹ dạy. Di xúc động đến nghẹn ngào ôm hun rồi chúc con mau lớn, xinh đẹp, học giỏi...Bé Phúc bây giờ được gọi là cu Tèo cũng bập bẹ từng từ ngộ nghĩnh, bắt chước chị nó y khuôn, hể chị nói cái gì và làm động tác thế nào thì nó cũng ráng làm theo như vậy. Đây là cái tết ấm áp nhất của Di kể từ khi lấy chồng.

Từ nhà Di sang nhà má chồng không xa lắm nếu đi lối qua sông. Di dắt hai con xuống bến đò. Tết nên chiếc đò thưa vắng ngày thường, chở đầy nhóc khách. Ai cũng ăn mặc đẹp kể cả cô lái đò, nước ròng sát nên đò đậu cách xa cây cầu ván. Di xăn quần cõng con gái lớn xuống trước nhờ cô lái đò trông hộ, rồi lật đật chạy lên cõng đứa sau. Di ôm con thật chặt trong tay ngồi xổm trong lòng đò. Một dì bới tóc cỡ tuổi má Di, hỏi:

-Ba tụi nó đâu mà mấy mẹ con bồng chống một mình vậy?

Nghe cách nói biết ngay là dân miền tây làm Di thấy mến, nên vừa cười vừa trả lời theo kiểu nói đùa:

-Ảnh đi theo vợ bé rồi dì ơi!

Dì ấy tưởng thật nên an ủi Di bằng một giọng rất chân tình:

-Tội nghiệp dữ hông! còn nhỏ thế nầy mà một nách hai con. Thôi ráng cầu xin trời phật phù hộ cho được mạnh khỏe mà nuôi con. Hai đứa nhỏ mặt mày sáng láng quá chắc sau nầy được nhờ, mà đừng có bước thêm bước nào nữa nghe! Cái số mình nó khổ nên gặp ai rồi cũng khổ, như dì đây...

Dì bỏ dở câu nói nửa chừng vì đò cập bến, rồi lật đật móc túi lì xì cho hai đứa con Di mỗi đứa một tờ giấy một đồng mới tinh.