← Quay lại trang sách

Chương tám

Đưa Di về đến nhà chồng xong chị Ba vội vã quay về trường. Nỗi buồn như những giọt acid rơi trên da, thấm sâu và nóng rát. Đứa em gái mà chị thương yêu và đặt thật nhiều niềm tin sẽ thay mình trả hiếu nay trở về nhà phờ phạc, vội vàng như một tên trốn nợ. Đâu rồi Di ngày xưa với nụ cười dâng ngập mắt, với sự tự tin và giấc mơ cao vút. Chị nghe từ đáy lòng dâng lên một lời xót xa gần như trách móc:

-" Sao em chỉ đi lấy chồng thôi mà cả em và gia đình như thể đang rơi vào một hố sâu, mất dần ánh sáng và không khí hả Di?"

Trong đầu chị Ba những kỷ niệm êm đềm của hai chị em trổi dậy, nó làm chị đau như thể xé lòng chị mà chui ra. Hãy bắt đầu từ khi chị biết nhớ: Đó là những buổi tối ba chị em chồng gối lên thật cao để chị Hai ngồi làm hoàng hậu còn chị và Di đóng vai tì nữ. Mượn cái khăn voan của má làm đôi cánh rồi múa những điệu múa trong phim Ấn Độ. Chị Hai cầm trên tay một thứ gì đó có thể là tờ giấy màu dùng trong bài làm thủ công, hay viên phấn để làm phần thưởng cho người giỏi nhất. Hầu như bao giờ Di cũng là người được nhận. Di cười rất tươi và chị cũng cười tươi với Di.

Rồi khi chuyển về quê, hai chị em cùng đi học chung bằng xe đạp, đường quê gập ghềnh nên té lên té xuống. Mỗi lần té là Di cứ khóc và chị dỗ mãi. Có khi Di đau thật có khi giả vờ để yêu sách một điều gì đó, chị biết nhưng vẫn chìu.

Chị nhớ một lần Di lượm được tiền của má rồi rủ chị đi ăn hàng, khi về bị má phát hiện Di sợ run, biết lần nầy sẽ bị một trận đòn thich đáng. Chị lấy tấm bảng giấy lót vào mông cho Di đỡ đau. Má quất roi vào nghe một tiếng" bộp", bèn kéo cái lưng quần lôi ra tấm bảng. Má cố nén mà không nhịn được, cười phá lên rồi tha luôn cho cả hai chị em.

Cái cô bé Di của ngày xưa ấy, hiếu động, mê chơi hay phạm nhiều tội và không ít lần làm cho chị bị vạ lây. Thế nhưng chị cứ cảm ơn trời đã cho mình một người em, tuy nông nổi nhưng mang rất nhiều nụ cười đến với chị.

Khi Di trở thành thiếu nữ, đôi mắt lém lĩnh ngày xưa với tia nhìn chọc xoáy nay trở nên nhẹ nhàng, mơ màng như đang ấp ủ một giấc mơ cao xa lắm. Di đã biết giữ riêng cho mình những điều sâu kín, không khoe tất cả các bài thơ cho chị như ngày xưa. Di cũng biết làm điệu, soi gương và chọn mua những cây kẹp màu mè chớ không còn để tóc rối rồi cột bằng dây thun như lúc trước. Tất cả những món đồ dùng do Di tự chọn đều mang màu tím nhạt, có một lần chị hỏi Di:

- Sao em thích màu tím quá vậy?

Di không trả lời mà hỏi lại chị:

- Vậy tại sao chị không thích màu tím?

-Bởi vì mấy cô gái hay thích nó, như thể nó là cái màu đặc trưng thể hiện sự dịu dàng, âu yếm và chung thủy nữa. Nó như một tín hiệu bật lên để đáp ứng những điều kiện dành cho giống đực vậy?

Di vừa cười vừa trêu chị:

- Như vậy có nghĩa là chị không muốn chớ không phải là không thich nó. Còn em hả, đơn giản lắm! Cái màu ấy nó cho em một cảm giác rất bình yên, rất êm đềm, rất chia sẻ. Như thể em đang gối đầu trong lòng chị và được chị mân mê mái tóc vậy!

Kể từ đó chị dần chịu ảnh hưởng nơi Di và cũng yêu dần màu tím.

Thời kỳ đẹp nhất của hai chị em, với chị, có lẻ là khoảng thời gian ở Châu đốc. Ngôi nhà sàn với cái nền đất phía dưới được quét thật sạch dùng làm nơi để chơi cất nhà chòi, chuyền chuyền, bún dây thun...Những trò chơi mà hầu hết đứa bé gái nào cũng biết.

Di và chị hay đeo những cái vòng nhỏ xíu bằng cao su màu xanh, vàng, đỏ đầy kín lên cổ tay như thể bây giờ người ta đeo bộ semain bằng vàng vậy! Mấy sợi dây thun ấy thích chặt và để lại vết hằn nhạt màu nên bị má cho là nó biết hút máu. Má cấm nhưng hai chị em cứ quên cho nên ngày nào cũng bị rầy. Thỉnh thoảng lại lén má, lấy một sợi ngâm vào bụng của cây đèn ống khói lớn dùng để đốt học bài mỗi đêm, thích thú khi thấy nó ngày một nở to ra như trong thần thoại vậy

Trò chơi cùng được ưa thích là cất nhà chòi và giả làm người lớn. Chị lấy gạo cho vào cái nồi nhôm đồ chơi nhỏ xíu, đặt lên ba cục gạch rồi đốt giấy và lá khô để nấu. Cho ra một thứ cơm hổn hợp ba lớp, từ trên xuống là: sống, nhảo, khét. Vậy mà hai chị em giành nhau ăn và cho là ngon còn hơn cơm má nấu!

Chiều tối học bài xong cả hai xin má đi Bồ Đề Đạo Tràng lạy phật, gì chứ xin đi chùa là má không bao giờ từ chối. Ngôi chùa nầy nằm ngay trước mặt nhà lồng chợ, có cây Bồ Đề được đem từ Ấn Độ về, nghe đâu là cháu nội của cái cây mà đức phật Thích Ca tọa thiền và nhập niết bàn. Gốc cây to như ông khổng lồ trong chuyện cổ tích, dưới gốc có vô số trái chín tím đen nằm lang thang trên mặt đất. Hai chi em hay lượm mấy trái nằm gọn trong lòng những chiếc lá vàng, cho vào miệng nhai một cách ngon lành. Nó có vị ngòn ngọt, nhàn nhạt, một mùi rất đặc trưng của những loài hoa cỏ dại, một mùi của kỷ niệm...Một đôi khi bắt gặp những chiếc lá có hình dáng đẹp, hai chị em vô cùng mừng rỡ, mang về vùi vào cái đường mương bên hông nhà cho tới khi phiến lá rả mục chỉ còn giữ lại lớp gân mỏng như lưới nhện mới được lấy lên. Chúng được nhuộm đủ các màu từ những bình mực tím, đen, xanh, đỏ...

Hai chị em vừa lạy phật vừa ngắm một cách sùng kính gương mặt hiền từ, trang nghiêm với đôi mắt khép hờ như hạ tia nhìn xuống để soi tận đáy lòng nhân thế. Ngài như cố lắng nghe, thấu hiểu và sẵn sàng đáp ứng những lời van vái. Một cách vô cùng thành tâm cả hai chấp tay lên trán khấn cầu, xin phật phò hộ cho sau nầy đều được làm cô giáo. Có một lần Di nói với chị bằng một giọng đầy lo âu:

-Chị ơi! Em lỡ hứa với phật là chừng nào làm cô giáo sẽ cúng phật một dĩa trái cây, rủi tới chừng đó em quên chắc bị ông phủ cắt lưỡi quá!

Thế là từ hôm đó hể má cho bất cứ một thứ trái cây gì như: xoài, cóc ổi kể cả trái bồ quân nhỏ xíu, chị và Di cũng đều giữ lại cho tới tối để đem đến chùa, nhón chân len lén đặt lên bàn thờ dâng cúng xong rồi mới lấy xuống ăn.

Trước khi về nhà, hai chị em thường ghé qua Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ ở gần bên. Nơi đó gồm một khối hình thang thật cao và to được đúc bằng bê tông dùng làm bia, cả bốn mặt đều có ghi chữ "TỔ QUỐC GHI ƠN" màu đỏ. Những cái cột bằng sắt cao ngang cổ Di có đường kính gần một tấc được đặt cách nhau chừng hai mét. Những cái cột nầy được sơn từng đoạn màu trắng, đỏ xen kẻ, bao quanh làm hàng rào. Những sợi dây lòi tói to cỡ cườm tay của chị lúc đó, được móc vào mấy cây cột sắt trông giống một nhóm trẻ đang đứng thành vòng tròn và nắm tay nhau trong một trò chơi. Chúng chùng gần sát đất nên được những đứa trạc bằng chị và Di dùng làm võng. Di và chị mỗi người nằm lên một sợi dây quen thuộc rồi đu đưa. Hai tay dang rộng, mắt đăm đăm nhìn lên trời để tìm cho mình một vì sao sáng nhất. Cái thú vui đó tạo nên cảm giác lâng lâng không có gì so sánh được và bây giờ nhớ lại chị bỗng thấy lòng bùi ngùi quá đổi!

Khi chuyển về quê, kỷ niệm mang hình ảnh của những con đường đất nhỏ và màu sắc của muôn loài hoa cỏ dại. Những buổi trưa chị cùng Di trốn ngủ, vác cù móc đi ra sau hè đến hàng me nước trồng trên mô đất đấp cao được gọi là "ấp chiến lược", chọc mấy chùm quả xoắn cong như ruột gà có những mắc nhỏ nằm tiếp nối nhau. Vị của nó rất chát nếu còn xanh, ngọt nếu chín đỏ. Cái hột đen tuyền của nó được giữ lại dùng trong trò chơi "bún lỗ" mà mấy bé gái ở quê ưa thích. Tụi con nít lấy cái vỏ ốc bu khoét xuống đất một lỗ, to và sâu khoảng một nắm tay rồi khum bàn tay trái che trên miệng, dùng ngón cái của bàn tay phải bún từng cái hột ấy vào lỗ. Trò chơi nầy thường dùng hột Ô môi nhiều hơn. Ôi! những hột Ô môi bằng móng tay, hình trái tim, màu hồng hồng. Chúng được trang trí bằng những cái vân màu đỏ rất nét như sợi tóc đã mê hoặc chị biết bao. Chị ngồi hàng giờ để so sánh chúng và tìm những hạt giống nhau y hệt, chỉ hoài công thôi! Chúng cũng như người, mang những hình dạng, màu sắc và hình như cả một tâm hồn khác biệt.

Những năm nước ngập mênh mông, hai chị em thích nhất là được đi cầu khỉ và lội dưới sàn nhà ngoại, tay cầm rổ xúc mấy con cá mình dẹp lép, màu trắng bạc có những sọc ngang màu vàng có tên Mang Rổ. Con cá nầy hay lội tà tà trên mặt nước. Nó mang tính cách của một thi nhân, bơi một cách vô cùng lơ đảng, như thể vừa đi vừa làm thơ vậy! Ấy thế mà khi chị nhúng cái rổ từ phía sau, đẩy rất nhẹ và khi cái rổ đã nằm ngay dưới bụng nó, chưa kịp nhấc lên nó đã quẩy đuôi thoát ra một cách thật lẹ làng. Rồi lại bơi tà tà nhởn nhơ, còn chớp mắt chọc quê chị nữa chứ!

Mùa nầy Di bị đòn nhiều nhất vì cứ suốt ngày lội nước, câu cá, đi cầu khỉ và hái bông Điên điển. Một lần Di lén lấy xuồng một mình ra đồng dù trước giờ chưa từng học và biết bơi. Đến giờ ăn cơm má gọi hoài không thấy, mọi người tá hỏa tưởng Di chết chìm. Chừng phát hiện mất chiếc xuồng thế là cả xóm bơi xuồng ra đồng tìm. Di đang ôm mấy bụi cây bông Điên điển để gió không thổi bạt xuồng, vừa khóc vừa kêu má vô cùng thảm thiết. Lần đó Di bị má đánh nhiều lắm! Di thường nói đùa là cho tới bây giờ, mỗi lần thấy bông điên điển là cái mông Di nhói đau và Di lại khóc!

Chị lại nhớ cái lần đầu có kinh, má bắt phải giặt thật khuya khi mọi người đi ngủ để không ai còn sử dụng nước nữa. Chị sợ ma nên thường rủ Di đi theo. Di bị đánh thức rồi ngoan ngỏan cầm cái đèn trứng vịt đi cùng chị xuống bến sông. Để trả công cho Di, chị vừa giặt đồ vừa kể cho Di một câu chuyện mà chị cho là rất hay, đúng đề tài mà Di ưa thích.

Những buổi sáng đi học bao giờ Di cũng hay dậy trễ, chị dậy sớm bới cơm vào hai cái gà mên, dắt xe ra cổng xong xuôi rồi vào đánh thức Di. Gọi năm hồi mười chập mà Di cứ nằm nướng mãi, chị phải gải vào lòng bàn chân, cho tới khi nhột chịu không nỗi cô bé mới chịu ngồi dậy.

Ngày chủ nhật nghỉ học Di ngủ còn trễ hơn. Hồi đó má nuôi heo, má đốn mấy cây chuối đã bị cắt buồng đem về xắt lát thật mỏng bằng cây dao bảng to, cán dài gọi là "dao dâu". Những lát chuối nầy có cái nhân như miếng bánh phồng tôm chưa chiên nằm ngay ở giữa.Di và chị hay moi lấy làm tiền, hay giả làm bánh bò, bánh khọt. Nhiệm vụ của hai chị em vào những buổi sáng nghỉ học là quết chuối cho thật nhuyễn để má trộn với cám mà cho heo ăn. Chị lớn hơn đã đủ sức cầm cái chày to, nặng nên giữ việc" quyết". Di thì xòe hai tay vun chuối lấp đầy cái lỗ trống gọi là" vùa". Hai chị em phải làm thật ăn khớp để chày không đập trúng tay Di. Có lẽ đây là công việc mà Di ghét nhất, nên chị gọi rất lâu, bị gải nhột chân mà cũng không thèm dậy. Chị thường vỗ vào mông Di rồi hát một khúc nhạc tự chế như thế nầy:

Đít diu, đít diu thức dậy

Để mà làm việc với chị Ba

Chị quyết chuối, em vùa chuối

Chị mỏi tay, ta đổi ngay

Em quyết chuối chị vùa chuối...

Di hay đòi quyết chuối dù cầm chày chưa nổi. Có một lần được chị chìu, Di lật đật cầm chày rồi làm rớt liền trúng ngay vào tay chị. Chị đau lắm mà không khóc. Di thì vừa sợ vừa thương chị nên khóc hu hu làm chị phải dỗ mãi.

Thuở đó má có chiếc ghe bầu rất lớn, buổi tối ba chị em cùng mấy đứa con cậu Sáu xin má cho ngủ giữ ghe, trên mui ghe có cái chòi nhỏ gọi là " nhà đùm". Cả bọn hay nằm trong ấy vừa ngắm sao, vừa thách nhau đọc sao cho không vấp các bài đồng dao:

Một ông sao sáng

Hai ông sáng sao

Ba ông sao sáng...

Hoặc:

Một cây xụ đọt

Hai cây đọt xụ

Ba cây xụ đọt...

hay là:

Một cái nút thắt

Hai cái thắt nút

Ba cái nút thắt...

Bài đầu đứa nào cũng đọc trôi chảy, còn hai bài sau thì có chút áp lực bởi đọc trật nghe rất tục. Tụi chị còn rất nhỏ hiểu lờ mờ thôi, chỉ biết khi đọc lộn là người lớn cười rần rần nên cũng bắt chước cười theo!

Nói là ngủ giữ ghe cho oai, thật ra mục đích chính là nối tiếp những trò chơi mà ban ngày còn chưa thỏa. Cả bọn hay nằm ép chặt nhau để nghe chị Hai kể chuyên ma thật rùng rợn như: "Ma vú dài", " ma cây Gáo", "ma Lai rút ruột"...Đặt biệt là chuyện " ma Lai rút ruột" được chị Hai diễn tả một cách quá cường điệu, quá sống động, nên nghe xong là ôm nhau chặt cứng không đứa nào dám nhúc nhích. Cho nên có những buổi sáng ngủ dậy quần đứa nào cũng ướt, thế là hai đứa nhỏ nhất bọn là Di và Tíu bị qui cho tội đái dầm. Hai đứa cứ đổ thừa cho nhau, không thể kết luận ai là thủ phạm vì quần đứa nào cũng ướt nhẹp như nhau.

Nhưng cái hấp dẫn chị và Di nhất là những đêm trăng...Đẹp làm sao ánh trăng của những ngày gần giữa tháng. Vào những ngày ấy cả bọn không nằm trong nhà đùm mà nằm ngoài mui để tầm mắt không bị cản trở. Ai cũng xí những ngôi sao sáng nhất cho mình. Những câu chuyện xoay quanh mặt trăng lại được chị Hai kể cho nghe và đứa nào cũng khoái một lần làm chú cuội.

Chị hơi nhắm mắt, cảm nhận lại hình ảnh xa xưa của những đêm trăng trên sông ấy: Từ mặt sông hơi nước bốc lên rất nhẹ, kéo theo cái lạnh se se nên trăng cũng vội chui vào mây cho ấm. Nó như bị ngột nên thỉnh thoảng lại chui ra, hít một hơi rất sâu, nhìn chòng chọc bọn chị đến thỏa thuê, rồi lại lạnh và chui vào mây tiếp. Những đêm ấy chị cùng Di đều thức thật lâu. Trăng như một người bạn rất thân, hẹn hò từ muôn kiếp trước, tình cảm đã dành cho nhau vô cùng sâu đậm, nên hể trăng còn thức thì ai nở đi ngủ mà bỏ trăng lại một mình!

Cái ánh trăng của những đêm trên sông ấy đã in sâu tong tiềm thức chị, nên bây giờ mỗi khi nhìn trăng chị có cảm giác như thấy cả hai mặt trăng: một trong mắt với cái vòng tròn vành vạnh trên trời và một cái bóng phản chiếu của nó, chập chờn, lung linh ở trong lòng.

Một trong những bài thơ đầu tiên của chị là bài thơ nói về trăng. Chị đọc lại bài thơ còn " thơm mùi sữa" ngày ấy với một chút nao nao:

Trăng tròn như một chữ O

Như hai con mắt thật to thật tròn

Bị mây ăn bớt nên mòn

Biến thành miệng méo không còn cái răng...

Có một bài ca cũng có trăng mà chị và Di cùng thích:

...Otròn như ô đi mưa, O tròn như ô đi mưa, dầm mưa giải nắng che ô O tròn.

O tròn như hai viên bi, O tròn như hai viên bi, và đôi con mắt trông nhau O tròn.

O tròn như ông trăng thu, O tròn như ông trăng thu, mẹ ơi mua bánh trung thu O tròn...

Nhắc đến đây chị lại nhớ đến những chiếc đèn trung thu mà hai chị em tự chế hồi đó. Nó được làm bằng những tờ giấy màu gấp lại thành từng nếp nhún rất nhỏ. Chị và Di còn moi ruột hai trái dưa hấu con con, khoét hình ngôi sao và mặt trăng lưỡi liềm ở bên hông, xỏ dây ngang miệng rồi xách đi y như cầm lồng đèn vậy.

Ngày đó chị lớn hơn Di và cũng khéo tay hơn nên bất cứ món nào khi làm xong Di cũng năn nỉ đổi, chị đều đổi mà không hề cự nự. Lòng chị bỗng xót xa liên tưởng đến cuộc sống hiện tại của Di. Một nỗi buồn như sóng cuồn cuộn trong lòng, dâng lên tận môi rồi nhảy bật ra ngoài:

-''Di ơi! ước gì bây giờ chị có thể đổi cho em cả cuộc đời của mình".

Rồi Di lớn dần để trở thành thiếu nữ, mái tóc le hoe xác xơ vì nắng trước giờ ít được chăm sóc đã dài, đen và dầy hơn. Cơ thể đang trên đường khẳng định giới tính. Những cái áo cũ chị cho Di không còn mặc vừa được nữa. Những trò vui cũng mang màu sắc mới. Di không còn tha thiết với mấy món cò cò, tạt lon, năm mười...Không còn hài lòng với những câu chuyện bắt đầu bằng hai từ "ngày xưa" của chị nữa.

Những trận đòn cũng thưa dần và xuất xứ của nó cũng từ từ thay đổi. Không do những cái tội như:"ham chơi", "ăn vụng","nói dóc"... Mà lớn lao hơn, hầu hết đều bắt đầu bằng những câu mắng mỏ như " tâm hơ tâm hất", " vô duyên", "không nên nết". Má và ngoại đã bắt đầu rèn giũa, đẽo gọt sao cho tính cách của chị em Di phù hợp với khuôn mẫu để lại từ xưa. Chuẩn bị sao cho các cô gái có thể trở thành mẹ hiền, vợ ngoan, dâu thảo.

Những lời dạy bảo không còn thô sơ mà được bôi trơn, phết màu để dể tiếp thu hơn. Các câu ca dao được mang ra minh họa cho từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như có lần chị quét nhà mà không khom lưng xuống để moi từng ngóc ngách, thế là bị ngoại xán cho một câu:"Quét nhà long mốt, long hai. Cặp mắt trợn trợn ngó trai ngoài đường". Còn cái câu:"Vô duyên chưa nói mà cười. Chưa đi mà chạy là người vô duyên", thì nghe thường xuyên, có khi một ngày đến hai, ba lần.

Mấy đứa bạn cũng không còn cãi chí chóe, gọi om sòm để rủ nhau chạy rong khắp xóm mà đứng lấp ló bên cửa sổ, thì thầm những câu chuyện không đầu không đuôi. Người lớn đến gần là nín bặt ngay y như đang bàn quốc sự, cũng chưa biết đổi đề tài để không bị nghi ngờ.

Những dấu chân chị để lại được Di giẫm lên từng bước, cho nên má hay nói là Di bắt chước chị rặp khuôn. Điều đó trở thành một trong những động cơ giúp chị học giỏi hơn, cố hoàn thiện hơn để làm gương tốt cho em.

Thời kỳ nầy chị và Di mê đọc sách lắm. Má cấm vì theo quan niệm từ xưa cho rằng, con gái mà đọc nhiều tiểu thuyết, có ngày sẽ bỏ nhà theo trai mất. Hai chị em thường lén má bưng đèn chui vô mùng đọc, có lần xém bị cháy mùng. Lúc đó tâm hồn hai đứa như nền cát xốp, rất dễ thấm và đôi khi chảy tràn ra ngoài nên thỉnh thoảng vừa xem vừa cười sằng sặc, hoặc khóc thúc thít. Có một lần cười lớn quá, má nghe nên lật đật chạy vào, thấy hai chị em đang đọc sách má vừa thở ra một hơi dài, vừa nói:

- Trời phật ơi! Má tưởng tụi bây bị ma nhập.

Hai chị em ghiền sách đến độ, mỗi lần xin má đi cầu cá ngoài hè, mỗi đứa độn một cuốn trong bụng rồi làm một công hai việc. Chúi đầu vô sách cho đến khi nghe tiếng rầy:

-Làm cái gì mà lâu quá vậy mấy cô nương. Tui đứng chờ nảy giờ, ém gần chết, sắp phọt ra ngoài "gồi" nè!

Những quyển sách nào mà chị ưa là được Di thích liền, sở thích của hai chị em rập khuôn nhau không chỉ riêng về lãnh vực văn chương mà còn những thứ khác nữa. Cùng thích ngắm hoàng hôn nên hay lén trốn ra đồng khi ăn cơm chiều và rửa chén xong. Lúc nầy cô bác làm đồng đã lủ lượt từng đàn trên con đường đất, trên tay là những xâu ếch, nhái hay rau củ tìm được. Gương mặt họ trông thật nhẹ nhỏm, vừa nói vừa cười rôm rả. Thiên nhiên hào phóng lắm, liên tục tiếp thêm năng lượng cho họ bằng không khí trong lành và màu xanh của bạt ngàn cây lá. Tất cả đều là họ hàng và cô bác trong xóm nên thấy hai chị em đi ngược chiều là nạt liền:

-Hai cái con khùng! Giờ nầy mà ra đồng làm chi? Vô nhà liền đi coi chừng bị quở đó!

Mọi người đều cho rằng buổi tối thuộc về thời điểm của những người khuất mặt và chạng vạng là lúc mà họ bắt đầu chui ra từ lòng đất, lòng sông. Hai đối tượng mà họ thích bắt nạt là đàn bà và con nít, cho nên buổi tối hai nhóm nầy không được ra đồng, hoặc tắm sông vì rất ư nguy hiểm! Trong xóm Di có một chị hay ngồi quay mặt vô vách mà nói lầm bầm một mình, người ta đồn rằng chị bị " mắc đàng dưới" do một tối tắm sông nên bị một người con trai cỏi âm thương và đeo bám.

Hồi đó chị và Di đều tin sái cổ. Sau nầy đã biết suy luận, chị cho rằng ông cha ta ngày xưa dệt nên chuyện đó để hạn chế việc con gái lén ra khỏi nhà vào buổi tối để hen hò. Nghe má kể vào thời của má con gái còn không được đi học vì sợ biết chữ rồi viết thư cho trai

Xem ra cho đến ngày nay, phụ nữ thường là nạn nhân của nam giới.

Khi bắt đầu học trung học đệ nhất cấp chị phải xa Di. Thỉnh thoảng hai chị em gặp nhau vào những dịp nghĩ hè, giỗ ba và tết. Mỗi lần về thăm nhà, chị lại ngạc nhiên khi thấy Di thay đổi nhanh quá.

Hình ảnh đẹp nhất của Di mà chị còn giữ mãi trong lòng, là cái gương mặt vừa nghiêm trang vừa bẻn lẻn của em, khi lần đầu tiên mặc áo dài màu đứng khoanh tay chúc tết cho má. Năm ấy má chọn cho ba chị em mỗi đứa một xấp lụa tơ tầm. Má của chị rất tinh tế, cho dù chưa một lần hỏi má vẫn biết sở thích của từng đứa một. Má lựa cho chị Hai màu mỡ gà, chị màu vàng hoa cúc, còn của Di là màu tím hoa cà.

Mùng năm tết chị rủ Di đi chùa. Di lại mặc áo dài màu và mang đôi hài tím có kết những bông hoa nhỏ xíu bằng cườm, cả má và chị đều nhìn em âu yếm. Di đã là một thiếu nữ rồi, con vịt xấu xí ngày nào đã bỏ dần bộ lông cánh cũ.

Đó cũng là lần đầu Di kể cho chị bí mật của mình. Hèn gì mấy lúc sau nầy chị thấy Di thay đổi nhiều lắm! Trên gương mặt em hay có những cái cau mày, giống như mặt sông phẳng lì, trong vắt, đã xuất hiện những vòng xoáy do hình thành những vực sâu dưới đáy.

Có những đêm chị ôm Di, cảm nhận sự căng cứng của từng thớ thịt trên người em. Như thể Di đang cố kìm nén một điều gì đang hoành hành trong lòng, chắc chắn là một điều không vui nên Di chẳng kể vì không muốn chị buồn.

Có những đêm nửa khuya chị giật mình choàng tỉnh bởi tiếng học bài rất nhanh rất lớn của Di. Điều nầy khác hẳn cái kiểu học của Di từ trước, như thể Di đang cởi một con ngựa và cố thúc nó chạy bạt mạng để vượt qua một chướng ngại vô cùng lớn lao và nguy hiểm.

Khi Di kể với chị về An, chị đã ứa nước mắt khi nghe xong và kêu thầm trong lòng:

- Trời ơi sao đến cái chuyện tình cảm chị với em cũng đều giống nhau nữa vậy!

Chị không dám nói cho Di nghe về cuộc tình không may của chị. Chị cũng bị một người nhỏ tuổi hơn theo đuổi. Một nhân cách và nhân dáng lỏng lẽo vô cùng khi mang đặt vào cái khuôn mà chị đã đúc sẵn cho mình. Chính sự thiếu sót ấy làm chị chạnh lòng hết sức. Nó dần ám ảnh và gắn dính vào chị như hai đầu khác nhau của một thanh nam châm vậy.

Qua mối tình của mình chị đã hiểu rằng. Không có gì nguy hiểm cho một cô gái bằng việc, lọt vào tầm ngắm của một chàng trai mới lớn, ngốc nghếch, si mê và liều mạng. Đó là cơn bão dữ, như thể bầu trời đã thai nghén nó từ trăm ngàn năm trước. Phải tích tũy và dồn hết năng lượng để phóng thích một con thú đang đói cồn cào, cố chui ra từ bụng của mình, và cái gì càng mãnh liệt thì càng nhanh chóng lụi tàn...

Chị sợ Di sẽ yếu lòng, sẽ bị bản năng làm mẹ chi phối để rồi xãy ra cái điều mà một nhạc sĩ đã kể lại:

-"Dù một lần em lỡ,

Mềm lòng như chiếc lá

Là một lần, xóa dấu thương đau..."

Bây giờ chị lại nghĩ phải chăng chị đã sai lầm, đã đắp bờ ngăn một dòng nước xiết để nó vỡ ra và tàn phá mùa màng. Nỗi ray rức trổi dậy, biến thành tiếng rên đột ngột thoát ra từ miêng chị:

-Chị xin lỗi em, Di ơi!

Chị nhớ lại cái lần An đến trường tìm chị. Trước đó chị đã nghe chuyện An tự tử không thành nên trông thấy An chị vô cùng thương cảm. An như một trái cây chín háp, mới ở độ tuổi hai mươi mà gương mặt đã có nét mỏi mệt, cộng thêm cái lưng cong cong như chịu một gánh nặng trên vai. Chị ngạc nhiên hỏi:

-Sao An biết chị học ở đây?

-Hôm qua em tình cờ thấy chị trên đường, em đi theo nên biết.

-Em làm gì ở đây?

-Em đi học.

Chị rất muốn hỏi An học ngành gì nhưng ngại, những người bạn đi ngang qua nheo mắt ghẹo. An thấy chị không thoải mái nên nói:

-Em mời chị đi uống cà phê nhe! Em có vài điều muốn nói với chị.

Chị muốn từ chối mà không hiểu sao lại buột miệng:

-Em cho chị biết chỗ đi, lát nữa học xong chị tự đến.

Cái quán ấy nằm cạnh bờ sông, buổi trưa nên vắng khách. Chị vừa ngồi xuống vừa nói:

-Chị chỉ rảnh khoảng hai tiếng thôi, chiều nay em không có giờ học hả?

-Em nghỉ một buổi cũng không sao.

An gọi nước cho chị rồi đột ngột nói:

-Chị cho em xin địa chỉ của chị Di nhe!

Chị không trả lời mà nói môt câu lạc đề:

-Nó vừa sanh đứa con trai thứ nhì, sanh mổ, thằng bé có hai ký sáu hà!

An nói tiếp những điều đang nghĩ trong lòng:

-Em phải gặp chỉ một lần mới được.

-Bên chồng nó khó lắm, rủi xãy ra chuyện không hay nó càng khổ thêm.

-Em sẽ không để điều đó xãy ra đâu! Em đã biết che đậy cảm xúc của mình giỏi lắm.

-Nó bây giờ xấu xí và tiều tụy lắm An ơi! Em gặp mà làm gì? Hãy giữ lại hình ảnh cuối cùng của nó trong đầu em, có lẻ đó là điều nó muốn. Gặp lại em trong tình cảnh hiện giờ chắc nó xấu hổ và buồn tủi lắm.

-Em muốn gặp chỉ một lần, em hứa với chị sẽ không ảnh hưởng gì đến danh dự của chỉ và cũng không làm chỉ buồn.

-Tại em không biết đó thôi! Những người ấy, họ không có lòng trắc ẩn.

-Chị nói vậy em càng muốn gặp chỉ hơn.

An bắt đầu kể cho chị nghe cái quá trình đi tìm Di như thế nào. Chị nghe mà lòng ngập tràn đau xót, cố nén mà sao mắt cứ rưng rưng. Chị ráng khuyên An một lần nữa:

-Em chịu khổ như vậy còn chưa đủ hay sao mà còn đòi chuốc thêm nữa! Thôi bỏ đi em, củng cố lại tinh thần mà học cho tốt để má em vui. Tin chị đi, chuyện nầy vài năm nữa sẽ không còn quan trọng đối với em. Có khi nghĩ lại em còn không tin có lúc mình lại dại khờ và nông nổi như vậy. Mối tình của em nó không đẹp, thi vị như em tưởng đâu. Nó là một vũng lầy kéo em chìm sâu tới đáy, em đã đặt được một chân lên bờ rồi, hãy rút cái chân còn lại lên luôn rồi bỏ chạy càng xa càng tốt.

-Chừng nào chưa gặp chỉ em còn chưa yên tâm mà dốc sức cho việc học, em muốn nhổ bật cái gai nầy ra khỏi người mình.

Những thớ thịt trên gương mặt của An căng ra, gương mặt thể hiện cái quết tâm rất cao ấy thoáng nét dữ dằn. Chị biết An sẽ không để chị yên chừng nào chị còn chưa đáp ứng yêu cầu. Chị suy nghĩ một lát rồi nói:

-Thôi được rồi, để chị viết cho nó cái thư, em mang đến cho có vẻ tự nhiên. Em nói là bà con đến đưa thư giùm. Chị xin em ráng kềm chế, đừng nói gì nhiều, cũng đừng có nhìn chăm chăm...

An ngắt ngang:

-Em lớn rồi mà, bộ chị không thấy em đã trưởng thành sao?

Hôm sau An đón chị ở cổng trường, chị đưa cái thư cho An có ghi địa chỉ, chị nói:

-Chị có dán tem sẵn trên đó, nếu em đổi ý thì bỏ vào thùng thơ giùm chị.

-Em cám ơn chị, em sẽ không đổi ý đâu.

Chị nhận thư trả lời của Di khoảng hai tuần sau, bình thường như những cái thư trước. Như mặt biển đã qua cơn bão, hay khi bão chưa kéo qua vậy! Chị viết liền cho Di một lá thư hỏi một cách như không chủ ý: "sao không nhờ người đưa thư mang về luôn cho chị mà phải gửi bưu điện cho mắc công". Di viết trả lời rằng cái người đó đưa thư cho cô em chồng rồi đi luôn. Chắc vội lắm nên không vào gặp Di được, rồi hỏi thêm chị đó là ai. Chị không trả lời và Di cũng quên không nhắc lại, điều nầy cho chị có cảm giác đang mang nợ An. Một cái nợ sẽ không bao giờ trả nổi!

Những ngày sống cùng nhau giữa hai chị em lại hình thành một khỏang cách. Di không còn dốc cạn lòng mình với chị. Chị cũng đang bị cuốn vào một mối tình nghiệt ngã nên không có nhiều thì giờ cho Di như ngày xưa nữa. Dù vậy trong lòng chị vẫn có cái linh tính là Di đang chống chọi với một nỗi đau nào đó. Chị cố không gặng hỏi kiên nhẫn chờ Di tự bộc lộ. Di vẫn im ru nên chị nghĩ chắc chẳng có gì trầm trọng đâu, chắc em chưa thích ứng được cách sống ở đây, chắc em chỉ nhớ nhà, nhớ má...

Mỗi buổi chiều chị chở Di đi vòng vòng giúp em khuây khỏa cái nỗi buồn ấy. Có một lần chị hỏi Di:

-Chị thấy em không còn cười nhiều như trước nữa, có chuyện gì vậy?

Di trả lời rất nhanh như đưa tay lấp cát đầy lỗ trống:

-Không có gì đâu chị tại em nhớ...

Rồi Di nín thinh luôn, chị cứ căng tai chờ hoài không được đành phải hỏi:

-Em có bỏ lại ai ở quê mình hông?

-Em có bỏ lại một cây Phượng rất to trước cửa lớp, em nhớ nó lắm có đêm còn nằm mơ thấy nó nữa!

-Vậy để chị hát bài "Phượng yêu" cho em nghe để đỡ nhớ nha!

Chị đạp xe vào con đường hơi vắng mang tên một nàng công chúa, vừa đạp xe thật chậm vừa hát:

"Yêu người như lá đổ chiều đông, như con tàu say sóng, như con giun ngước lên trời, yêu trăng sao vời vợi, làm sao nói được tình tôi..."

Di úp mặt vào lưng áo chị hồi lâu mới lấy ra, bỏ lại vài giọt nước mắt trên đó, Di hỏi chị:

-Chị Ba ơi! chị thương ai nhất vậy?

-Em, má. Còn em?

-Chị, má!

Buổi chiều ấy vẫn để lại dư vị ngọt ngào trong lòng chị cho đến tận bây giờ!

Rồi bà mẹ VIỆT NAM oằn mình trong cơn đau trở dạ. Những ngày ấy xãy ra vào cuối tháng, cộng với các nỗi lo sợ lớn lao là nỗi lo bị đói. Người Sài gòn đổ xô đi mua lương thực về trữ. Ba chị em vét hết tiền đi mua gạo. Không còn chỗ nào bán gạo nữa, thế là chị hai mua một ký đậu xanh và mấy tán đường thẻ về nấu chè ăn trừ cơm, coi như ăn mừng hết nghe tiếng súng.

Sài gòn vào những ngày ấy vô cùng hổn loạn. Trong xóm của chị ở người ta kéo nhau đi phá mấy kho lương thực ở Khánh Hội, mấy đứa nhỏ còn biết đi gom dép về xài nữa. Những nhà giàu có bỏ lại toàn bộ gia sản mà đi, một đám cháy không có khói lan rộng...

Trường học đã đóng cửa, ba chị em không muốn ra đường cứ ở miết trong nhà với nhau. Di chạy qua nhà cô giáo kế bên mượn mấy quyển tạp chí về phụ nữ như: Phụ nữ ngày mai, Phụ nữ mới, Phụ nữ thời báo...về xem.

Khi món chè đậu xanh đã hết thì cái ông thầy dạy nhảy xuất hiện, chở đến cho chị em Di một bao hai chục ký gạo cùng mấy thứ khác. Chị Hai dẹp lòng tự trọng, cầm lấy tiền anh ta đưa cho rồi ra chợ mua về một bó rau muống và mấy cái trứng vịt. Bữa cơm hôm ấy với rau muống, trứng vịt luộc cùng tô nước rau thiếu chanh và bột ngọt đã đi vào ký ức của chị và ngủ luôn trong ấy!

Và có lẽ từ hôm đó Di đã dần có cảm tình với anh ta. Chị tiếc là mình không kịp thời ngăn cản. Lúc ấy chị như một người cố bám vào bờ rìa của con tàu đang chao đảo dữ dội. Bao nhiêu tai biến cùng một lúc xãy đến, như sóng gió bao vây và rồi một con sóng úp chụp cuốn bật chị ra khỏi con tàu ấy.

Khi chị tỉnh dậy trong bệnh viện, một cảnh tượng làm chị bàng hoàng đến không thở nổi: Cái ông thầy dạy nhảy ấy đang nâng bàn tay của Di lên miệng rồi mút cái ngón tay đau của Di. Di như người bị điểm huyệt đứng chết trân một chỗ. Chị vội nhắm kín mắt lại như cố xua đi một điềm dữ. Nỗi lo sợ bao trùm lấy chị, chị rùng mình như thể vừa nghe Di bị tuyên án khổ sai chung thân.