Chương 2 (tt) -
Từ lâu ba mẹ Sơn cứ luôn dặn Sơn phải tập trung cho việc học, đừng nghe lời rủ rê đi biểu tình này nọ, vừa bị tù tội lại thi rớt, bị bắt lính. Một cụm ba trường Văn khoa, Dược và Nông lâm súc, thường được gọi đùa là “Khu tam giác sắt”, chung quanh là dinh thủ tướng, đài truyền hình, tòa đại sứ Mỹ, tòa đại sứ Anh, Tổng cục chiến tranh chính trị…, mấy năm nay hầu như tháng nào cũng có biểu tình không lớn thì nhỏ. Nào là đuổi Mỹ về nước, chống đôn quân bắt lính, chống bầu cử độc diễn, phản đối chế độ Lon Nol ở bên Miên giết hại đồng bào người Việt… Cảnh sát dã chiến đến đàn áp biểu tình, bắn lựu đạn cay, xịt nước vòi rồng, đánh đập, bắt bớ… là chuyện hàng ngày. Nghe lời cha mẹ, Sơn luôn tránh xa những cuộc xuống đường. Thậm chí chuyện bầu cử ban đại diện sinh viên hàng năm, anh cũng không quan tâm, dù không khí các cuộc tranh cử luôn diễn ra rất sôi nổi, giữa các liên danh “tay sai” và liên danh “cộng sản”, theo kiểu tố cáo lẫn nhau giữa hai bên. Đôi khi, trước những cuộc xuống đường lớn và bị cảnh sát đàn áp ác liệt, Sơn còn thấy vui vì được nghỉ học. Cũng có lúc anh được những người biểu tình phát cho chiếc bao nilông và trái chanh cắt đôi dùng để chống lựu đạn cay, với lời mời gọi cùng tham gia xuống đường, nhưng ra tới cổng trường là Sơn ném ngay. Thật lòng thì anh vừa nể phục vừa thấy không hiểu nổi những sinh viên tranh đấu. Nể phục vì những nội dung mà họ phản kháng cũng như các yêu sách của họ đều có phần hợp lý, họ lại dám tay không chống lại những kẻ đàn áp được trang bị tận răng. Không hiểu nổi vì tại sao họ lại không chịu học hành yên ổn cho xong, lại đi lấy trứng chọi đá làm gì? Tay không đấu với dùi cui, khiêng mây, lựu đạn cay… làm sao thắng nổi?
Vào đây rồi Sơn mới thấy sự đàn áp của chính quyền còn dữ dội nhiều lần hơn sức tưởng tượng của mình. Tất cả những người bị bắt đều bị đương nhiên coi là Việt Cộng và phải chịu những cuộc khảo tra tàn bạo. Có vẻ như trận đòn đau nhất đời Sơn vẫn chưa thấm thía gì so với những người tù cùng phòng. Trên thân xác tiều tụy của họ vẫn còn in hằn vết bầm tím của nắm đấm, roi vọt, vết cháy sém của điện, vết máu khô của kềm của đinh của búa…, các nhục hình hàng đêm họ phải gánh chịu. Tại sao họ bị đối xử tàn nhẫn như vậy? Chẳng lẽ họ là Việt Cộng thật? Mà nếu vậy thì Việt Cộng có gì khác người thường? Họ cũng là sinh viên Văn khoa, sinh viên Luật, Vạn Hạnh, thậm chí đang học ở những trường đầy tương lai rất khó thi vô như Y, Dược… Tại sao họ lại chấp nhận cảnh lao tù khổ ải mất hết tương lai như vậy?
Sơn ở đó được hai ngày, hầu như không nói chuyện với ai vì có cảm giác mọi người có vẻ nghi kỵ mình. Có lẽ ở trại giam người ta ít tin tưởng nhau? Sơn chỉ được vài người hỏi tên gì, mấy tuổi, học trường nào, có biết ai tên gì ở trường đó không, vì sao bị bắt vào đây… Nghe Sơn trả lời là không quen những người họ hỏi và bị bắt oan thì không ai hỏi gì nữa. Suốt ngày nằm trên bệ ximăng lạnh giá, Sơn càng thêm nhớ Vân. Vân đang làm gì, có biết Sơn bị bắt vào đây chưa? Có biết Sơn bị một kẻ nào đó vu oan giá họa không mà không hề thấy Vân liên lạc gì cả? Kẻ nào đó đã hại Sơn làm gì? Sơn có bao giờ đụng chạm đến ai đâu? Thế rồi trong Sơn bỗng lóe lên câu nói dằn đi dằn lại của tên Răng vàng: “Tội của chú em là không biết nghe lời người lớn”. Mẹ Vân! Phải chăng chính bà đã dựng nên chuyện này để trừng trị Sơn, như từng răn đe: “Tôi sẽ có cách trị đứa đó đến nơi đến chốn. Tôi có nhiều thế lực lắm, cậu không biết đâu”? Sơn càng nghĩ càng thấy gần như chỉ có thể là bà, chứ không ai khác.
Đến ngày thứ ba thì người tù ở cátsô số bảy mới được đưa ra phòng giam tập thể, nằm trên băngca với một tấm thân bèo nhèo, tả tơi. Mọi người trong phòng đều biết anh ta và tỏ ra kính nể đặc biệt, chăm sóc chu đáo. Anh ta được đặt nằm trên bệ ximăng bên cạnh Sơn và khi khỏe lại đã chủ động hỏi chuyện Sơn, tỏ ra rất quan tâm đến việc vì sao Sơn chỉ bị tra tấn có một lần là đã được đưa ra đây. Sau khi được Sơn kể lại chuyện mình bị bắt, Tư Tiến, tên người tù, tỏ vẻ tin ngay, hỏi Sơn là ngoài đời có bị ai thù oán hay không. Cách nói chuyện thân tình của Tư Tiến đã làm Sơn yên tâm trải hết lòng mình. Anh kể Tư Tiến nghe chuyện mình với Vân, chuyện đã bị mẹ Vân cấm cản như thế nào, rằng bà là một người rất giàu có, thế lực và từng hăm dọa anh… Nghe xong, Tư Tiến nói:
- Đúng là bà ấy rồi! Theo anh thì chắc vài ngày nữa, khi cô Vân đi du học là em sẽ được ra thôi. Yên tâm đi.
Với sự có mặt của Tư Tiến, mọi người đối xử với Sơn khác hẳn, thân mật và dễ chịu hơn. Tư Tiến giải thích do thấy Sơn chỉ bị đòn có một lần là được đưa ra phòng tập thể, trận đòn đối với anh là quá đau nhưng dưới mắt mọi người thì chỉ nhẹ hều, nên anh bị mọi người nghi hoặc là ăngten[19] hoặc chịu đau không nổi đã chịu chiêu hồi, khai báo. Với kinh nghiệm từng mấy lần vào ra trại giam, Tư Tiến biết Sơn không thuộc hai trường hợp đó. Anh tin Sơn và thấy hoàn toàn có thể tuyên truyền đưa Sơn vào tổ chức. Chính mình là nạn nhân của chuyện phân biệt giai cấp giàu nghèo, chắc chắn Sơn sẽ dễ dàng giác ngộ lý tưởng cách mạng. Đội ngũ cứ thêm được một người là thêm sức mạnh.
Vài hôm sau, Sơn được cho nhận thức ăn của gia đình gởi vào thăm nuôi. Trút hết lon Guigoz càri gà vào chiếc tô lớn để mời Tư Tiến và hai người tù nằm cạnh cùng ăn, Sơn chợt thấy từ đáy lon rơi ra một gói nilông nhỏ xíu, mỏng dính. Bên trong là lá thư của Vân, ngập tràn thương nhớ:
… Anh yêu,
Anh có bình yên mạnh khỏe không? Em nhớ anh quá! Hàng đêm ngủ không được, em vẫn cầu nguyện cho anh, mong sao anh sớm được về cùng em. Ba đã đi vận động với một người cậu em bà con của mẹ em làm ở Nha cảnh sát Đô thành và cậu Nâu hứa sẽ không để anh bị hành hạ, bạc đãi. Nếu điều tra xong mà tội anh không đáng gì thì sẽ thả ngay. Em mừng quá! Em không tin anh có thể làm điều phạm pháp.
Mẹ vẫn đang gấp rút lo giấy tờ cho em đi du học. Em không muốn đi chút nào hết Sơn ơi! Nhưng chắc em không thể cãi lời mẹ. Em cầu mong anh sẽ được về sớm trước khi em đi. Còn nếu không, xin anh hãy tin rằng cuộc đời em sẽ chỉ yêu mỗi mình anh, mỗi mình anh thôi. Bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu, em cũng nhớ về anh và sẽ tìm mọi cách gặp lại anh. Lúc ấy chúng ta sẽ mãi mãi là của nhau, mãi mãi…
Em yêu anh,
Vân.
Nghe Sơn kể lại một phần nội dung bức thư, Tư Tiến cười mỉm:
- Thiếu tá Nâu nổi tiếng ác ôn lại là em bà con của mẹ cô Vân à? Vậy thì quá rõ rồi! Có lẽ nhờ ba Vân can thiệp nên ông ta mới tử tế với Sơn như vậy. Nếu lon thức ăn này mà gởi cho tôi thì chắc chắn cái thư đó không thể nào qua lọt! Tin tôi đi, chỉ khi cô Vân lên máy bay rồi thì Sơn mới được trả tự do, không có chuyện được thả sớm đâu.
Dù bữa trưa ấy đầy món ăn ngon, Sơn vẫn không nuốt nổi. Anh nằm hiu hắt nhớ Vân. Lẽ nào anh sẽ không gặp được Vân trước giờ nàng ra đi? Và có thể sẽ không bao giờ gặp nữa? Định mệnh sao tàn nhẫn vậy?
Trưa tháng ba, trời nóng hầm hập. Một người tù nằm trong góc phòng chợt cất giọng ca một bài vọng cổ:
… Đây hỏa ngục nhà lao Nha Tổng
Nóng như thiêu đêm cũng như ngày
Trong âm u không ngọn gió chuyển lay
Mồ hôi đổ ướt đầm manh áo rách…
Nhưng hỏa ngục vẫn vang lên lời ca tiếng hát, như xé không gian lấn át tiếng… gông xiềng. Song sắt, rào gai của bọn ngụy quyền…
Giọng ca càng làm Sơn thêm buồn não ruột.
Với Sơn, Tư Tiến không hề tự giới thiệu mình là Việt Cộng. Những kiểu tuyên truyền tâm lý chiến của chính quyền Sài Gòn cộng với sự khốc liệt của chiến tranh đã làm nhiều người không hiểu và thù ghét cả lực lượng cầm súng chống ngoại xâm giành sự toàn vẹn cho đất nước. Nằm gần Sơn, Tư Tiến lựa những lúc thích hợp nhất để nói Sơn nghe vì sao quân Pháp phải thua chạy, vì sao đất nước chia đôi rồi người Mỹ lại nhảy vào miền Nam, vì sao hiệp định Genève về tổng tuyển cử không được thực thi, vì sao xã hội còn quá nhiều bất công… Tất cả những “vì sao” đó, nhằm lý giải cho Sơn hiểu vì sao Tư Tiến và những người trẻ trong phòng giam này cùng hàng vạn hàng triệu người trên cả nước đã lao vào chiến đấu không tiếc gì mạng sống. Tư Tiến cho Sơn tha hồ hỏi và tha hồ cãi. Những lớp học trong chiến khu đã trang bị cho anh đủ lời lẽ để nói chuyện một cách thuyết phục. Và những lời lẽ ấy, vốn không hề có trong sách vở ở trường, khiến Sơn phải nghĩ ngợi rất nhiều. Anh hiểu thêm được nhiều điều, mà điều rõ nhất là tính lý tưởng của những người trẻ trạc tuổi với mình này. Họ sống vì một mục đích lớn của cuộc đời, thậm chí lớn quá sức họ, nhưng họ vẫn dốc hết tâm lực của mình và sẵn sàng chết cho nó. Trong khi đó, Sơn chỉ biết quẩn quanh với chuyện học hành cùng một cuộc tình đầy trắc trở…
Ngày 10 tháng Ba, quân giải phóng bất ngờ mở một cuộc tấn công chớp nhoáng chiếm thị xã Ban Mê Thuột ở chiến trường Tây nguyên, bắt sống luôn tỉnh trưởng. Cả Sài Gòn choáng váng như bị một cú đấm thôi sơn vào giữa mặt. Sau cơn chấn động, nhiều người vẫn cố tin miền Nam đã từng mất Huế năm 1968, mất Quảng Trị và An Lộc năm 1972, rồi vẫn chiếm lại được. Nhưng những người am hiểu thì đã biết sau Hiệp định Paris 1973, với sự cuốn cờ rút lui của quân đội đồng minh và cắt tối đa viện trợ quân sự của chính quyền Mỹ, sự sụp đổ của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian mà sự kiện mất Ban Mê Thuột chính là phát pháo mở đầu. Nhiều người dự đoán quân đội cộng hòa chỉ có thể cầm cự đến cuối năm là sẽ buông súng.
Hơn cả dự đoán ấy, chiến sự ở Tây nguyên và miền Trung diễn ra với một tốc độ chóng mặt vào những ngày sau đó. Một tuần sau ngày Ban Mê Thuột bị mất, trước áp lực tấn công quá mạnh của quân giải phóng, những người cầm đầu miền Nam trong cơn hoảng loạn đã quyết định rút lui khỏi Kontum và Pleiku, bắt đầu cho một cuộc sụp đổ dây chuyền: một tuần sau nữa là Quảng Ngãi, Huế, rồi đến Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Nha Trang… Mỗi buổi sáng mở báo ra, lại thấy thêm một cuộc “rút lui chiến thuật” - từ hoa mỹ trấn an được dùng mô tả sự thua trận từng ngày của quân cộng hòa. Trên bản đồ miền Nam, một màu đỏ cứ tràn xuống như vết mực loang, cuốn phăng mọi cản trở trên đường đi. Phòng tuyến cố thủ ở Phan Rang bị bứng dễ dàng với tướng Nghi bị bắt tại trận tiền. Trận tử chiến cuối cùng đang xảy ra tại Xuân Lộc, nơi các đơn vị tinh binh quân cộng hòa được gom lại để ngăn chặn đường về thủ đô miền Nam. Như một cái phễu, Sài Gòn hút về chật cứng người dân khắp nơi chạy về tị nạn, chen chúc trong các khu lều trại tạm bợ ở các sân vận động, công viên. Lính rã ngũ từ miền Trung cũng chạy về, ngang nhiên đi ngoài đường vì lực lượng quân cảnh không sức nào bắt nổi. Dân chúng nháo nhào đi rút tiền ngân hàng, mua đồ dự trữ, đào hầm chống pháo kích… Không khí sôi sùng sục như một nồi súp-de chỉ chờ giờ nổ.
Trong cơn bão táp ấy, ý định đưa Vân đi du học của bà Thành không còn kịp nữa. Vả lại, bà còn phải bận rộn chạy tới chạy lui rút tiền ngân hàng, đổi đôla, bán tháo mấy căn nhà đang cho thuê… Yên tâm vì đã chia cách được Sơn, bà Thành gần như bỏ mặc không thèm nói gì tới Vân. Vân vẫn đến trường dù thầy cô và bạn bè không còn lòng dạ nào dạy và học. Nhất là với Vân. Vắng Sơn, cuộc sống của nàng dường như mất hết ý nghĩa. Đêm nào Vân cũng nằm khóc cho cuộc tình đầy trắc trở của mình, rồi cầu Trời khẩn Phật cho Sơn sớm được trở về. Vân không hiểu hết về thời cuộc. Nàng chỉ mang máng biết sắp có một sự thay đổi lớn mà ba mẹ và bao nhiêu người thân nữa đang sốt vó lo đối phó. Giữa bao nhiêu tin đồn kinh khủng về một trại tập trung khổng lồ, một cuộc tắm máu không thương tiếc, một đám cưới tập thể giữa các cô tiểu thư Sài Gòn với các anh thương binh Việt Cộng…, tại sao giờ này Sơn không có mặt bên Vân? Vân nhỏ nhoi và yếu đuối quá, lỡ có chuyện gì thì biết làm sao? Nghe mẹ nói phải chuẩn bị hành lý để sẵn sàng chạy khỏi Sài Gòn, việc đầu tiên Vân làm là gom hết thư từ của Sơn lại, cột chặt trong một bao nilông rồi nhét dưới đáy một chiếc túi xách, xong mới bỏ quần áo lên trên. Vân nguyện với lòng sẽ giữ mãi suốt đời những lá thư ấy, dù cho vật đổi sao dời như thế nào đi nữa.
Quân giải phóng đánh suốt tuần vẫn không qua nổi “cánh cửa thép” Xuân Lộc vì quân cộng hòa biết mất tử điểm này là coi như tiêu Sài Gòn. Họ sử dụng cả loại bom CBU mới nhất của Mỹ tàn sát trong phạm vi rộng, dội ngay giữa chiến trường. Lính tráng hai bên chết như rạ… Đó cũng là thời gian dành cho dân nhà giàu và gia đình quan chức ở Sài Gòn bỏ chạy bằng các con đường xuất ngoại hợp pháp. Cả nhà Ngọc cũng đã chạy lọt nhờ có anh Trí làm cho sở Mỹ. Bà Thành vì còn tiếc của nên cứ nấn ná chờ bán cho xong mấy căn nhà. Thật ra, cũng có phần do trong thâm tâm bà và ông Thành - như trong suy nghĩ của khá nhiều người Sài Gòn lạc quan - vẫn không tin người Mỹ sẽ bỏ mặc miền Nam rơi vào tay cộng sản, sau khi đã đổ quá nhiều tiền và máu vào đây. Học thuyết Domino, cho rằng Việt Nam là con cờ quyết định, nếu sụp đổ sẽ gây sự tan vỡ hàng loạt của các quốc gia khác trong vùng, vẫn còn được người Mỹ tin tưởng, vậy làm sao họ có thể để mất miền Nam? Riêng ông Thành, vốn là trí thức được đào tạo từ Pháp, từ lâu vẫn thường hay chưởi Mỹ, giờ lại đang mong đợi giải pháp người Pháp sẽ vào cuộc và thành lập được một chính phủ liên hiệp…
Nhưng rồi Xuân Lộc cũng phải thất thủ ngày 20-4. Tổng thống Thiệu lập tức bỏ chạy ngay hôm sau, nhường chức cho ông phó tổng thống già xuất thân là một nhà giáo lên thay, tuyên bố tử thủ. Như để trả lời, đại bác tầm xa của quân giải phóng nối nhau nã cấp tập vào sân bay Biên Hòa, ở Sài Gòn còn nghe thấy. Rồi buổi chiều ngày 28-4, sân bay Tân Sơn Nhất bị một phi đội máy bay A37, chiến lợi phẩm tịch thu được của quân miền Nam, do không quân miền Bắc lái từ Phan Rang vào bỏ bom, cả Sài Gòn rung chuyển như bị địa chấn… Cùng với tiếng súng đủ loại từ cầu Rạch Chiếc đùng đoàng dội về, mọi người càng nháo nhào như đã tới ngày tận thế. Coi như việc bỏ chạy bằng con đường hàng không đã bị cắt đứt. Hi vọng chỉ le lói nhóm lên, khi vào cuối giờ chiều, ông tổng thống già sau một tuần lửa đạn đã chịu không thấu, nhường chỗ cho đại tướng Minh lên lập nội các mới. Ông Minh này dù sao cũng am tường chuyện chiến tranh, lại được sự ủng hộ của người Pháp đang cố gắng đứng ra thay người Mỹ dàn xếp cuộc chiến. Bà Thành gọi ông Tư tài xế vào xem kỹ lại chiếc hầm nấp pháo kích trong phòng một lần nữa. Nhà có bà bếp là vợ ông Tư và cô giúp việc thì đều đã xin nghỉ để về quê, chỉ còn mỗi ông Tư là người trung thành nhất còn ở lại với gia đình.
Mười một giờ khuya, cậu Sáu em ruột của mẹ Vân là trung tá hải quân ở Bộ tư lệnh Vùng IV Sông Ngòi đóng ở Cần Thơ bỗng gọi điện thoại lên, giọng đầy gấp gáp. Biết ông bà Thành chưa di tản được, ông hốt hoảng:
- Việt Cộng vô tới nơi rồi sao anh chị còn chưa chạy?
Bà Thành mếu máo:
- Chị không biết đường nào chạy nữa… Vào đâu cũng không lọt… Sân bay bị bỏ bom, máy bay hết cất cánh được rồi. Anh Thành lại không quen bên tòa đại sứ Mỹ…
Trung tá Đỗ Cầm thở dài:
- Tại anh chị chủ quan quá, không chịu chuẩn bị. Người ta đã chạy rần rần từ cả tuần nay rồi…
Ông suy nghĩ một chút rồi nói:
- Thôi thì như vầy, anh chị lập tức thu xếp đồ đạc lên xe hơi chạy liền về đây đi. Kế hoạch cuối cùng chắc là mình sẽ tử thủ ở miền Tây, tụi cố vấn Mỹ hai hôm nay kéo về Cần Thơ đông lắm. Máy bay quân sự ở Biên Hòa và Tân Sơn Nhất cũng bay về đây rất nhiều. Chị về đây em có nhà ngoài chợ cho chị ở, rủi có thua thì lên tàu em chạy. Nhưng không được rủ ai, chỉ một mình nhà chị thôi…
Đúng là trong khi ông phó tổng thống Hương lên thay ông Thiệu hùng hồn tuyên bố sẽ tử thủ bảo vệ miền Nam không cho rơi vào tay cộng sản, những nhà cầm quân đã thấy không có cách gì giữ được Sài Gòn, muốn giữ lại được chút nào thì chỉ còn cách rút hết lực lượng về Quân khu 4 ở đồng bằng sông Cửu Long phòng thủ, hi vọng thế mạnh của các binh đoàn chính quy miền Bắc là xe tăng, xe bọc thép, pháo binh hạng nặng… sẽ không phát huy được trước hệ thống sông rạch chằng chịt, đồng thời việc tiếp tế hậu cần cũng rất khó khăn. Quân miền Nam sẽ trụ được để hi vọng sự can thiệp của quốc tế để cho một giải pháp ngừng bắn.
Bà Thành nói:
- Vậy để sáng mai chị đi sớm chắc còn kịp mà. Bây giờ còn đang giới nghiêm…
- Không được! Chị nghe lời em đi ngay bây giờ đi! Tình hình nguy cấp lắm rồi! Đi xe bảng số công của anh, cần thì xuất trình giấy công vụ. Anh Hai là thứ trưởng mà, sợ gì? - Ông Cầm gắt.
Thật ra viên trung tá hải quân không hề tin quân miền Nam sẽ giữ được vùng 4 chiến thuật. Địa thế sông rạch bưng biền hiểm trở cũng chính là một thế mạnh của đối phương, khiến thế trận ở vùng 4 bao giờ cũng đặt quân cộng hòa vào thế phòng thủ bị động với hệ thống đồn bót dày đặc. Rút hết quân lính quen tác chiến trên cạn ở miền Trung và miền Đông đang hoảng loạn về cái túi nước này, coi như chỉ làm mồi ngon cho địch. Ở cương vị của mình, ông còn linh cảm sẽ nhận được lệnh rút hết tàu bè ra biển trong nội ngày mai, qua kiểu cách nói chuyện của tên cố vấn Mỹ khi hắn và ông ngồi uống rượu với nhau hồi tối này. Tên Mỹ cứ nốc từng ly liên tục cho đến hết chai Black and White, miệng lảm nhảm có lẽ đây là lần cuối hai người ngồi uống với nhau ở Việt Nam. Ông Cầm thử khích bằng cách nói ông không tin, thì hắn chỉ nói “Wait and see!” rồi cười phá lên và bỏ đi về. Tắm rửa tỉnh táo xong, ông Cầm mới nghiệm ra và gọi ngay cho chị. Vì còn là dự đoán nên ông chỉ có thể nói đến mức đó.
Bà Thành vẫn cố nghĩ ra một giải pháp thuận tiện hơn:
- Em gởi anh chị và con Vân cho đứa bạn hải quân nào đóng ở Sài Gòn được không?
Ông Cầm thở dài:
- Tất cả đơn vị đều cắm trại một trăm phần trăm, chị không vào được đâu. Vả lại, có chuyện gì thì người ta phải lo cho gia đình của họ và của anh em binh sĩ, làm sao có chỗ cho chị?
Do sợ đi đêm có thể gặp nhiều nguy hiểm, ông bà Thành quyết định sáng sớm ngày 29-4 sẽ lên đường. Trằn trọc mãi họ mới ngủ được, nhưng mới ba giờ sáng là đã bị đánh thức bởi tiếng nổ ầm ì của hàng loạt đạn pháo nã vào sân bay Tân Sơn Nhất. “Chạy thôi ông!”, bà Thành tái mặt nói với chồng. Ông Tư xin vẫn được cầm lái đưa họ đi vì gia đình ông ở Phụng Hiệp gần Cần Thơ, sau khi họ đến nơi ông sẽ về quê luôn. Trước khi đi, ông Thành tháo xích cho con Kiki, vuốt đầu nó, ngậm ngùi:
- Ta rất tiếc không thể dẫn con theo… Con đẹp thế này chắc ai vào ở đây cũng sẽ thương con… Cứ thân thiện với họ, con nhé…
Bà Thành cười khẩy:
- Việt Cộng mà gặp chó là ăn thịt ngay, ông hơi sức nào mà lo.
Ông Thành gắng gượng nói:
- Chó berger mà ai lại đi ăn thịt?
- Bọn chết đói quanh năm đó chuột bọ cóc nhái còn ăn, nói gì chó berger!
Con chó rên rỉ, le lưỡi liếm tay ông Thành, đôi mắt thông minh nhìn chủ trân trối trông thật tội nghiệp. Nhớ đến con mèo cưng của mình, Vân đưa mắt nhìn quanh, miệng gọi nho nhỏ “Ariel!”. Mấy tiếng meo meo vang lên và con mèo từ đâu đã chạy đến, cong người cọ cọ mình vào chân Vân. Vân cúi xuống ẵm nó vào lòng, muốn rớt nước mắt. Tính Vân rất thích mèo, con tam thể khôn như tinh được Vân đặt tên theo tên con mèo của lão phù thủy Gamel trong truyện tranh Stroumf này càng được nàng yêu vì tài nịnh siêu đẳng bên cạnh những khả năng lạ thường của nó. Không chỉ chuột mà cả gián, thằn lằn, những con vật mà Vân sợ nhất, con mèo này đều giết sạch và luôn mang đến bỏ trước mặt Vân như để kể công. Nó cứ ngồi nhìn hàng giờ như thôi miên, và con thằn lằn từ trên cao tự động rơi cuống ngay trước mặt nó! Người ta nói mèo không biết mừng chủ, nhưng với con Ariel, cứ mỗi lần Vân đi đâu về là nó lại chạy ra, giương đôi mắt tròn xoe nhìn nàng, miệng kêu meo meo. Một con mèo tuyệt vời như thế mà đành phải bỏ lại, Vân đau như cắt ruột. Dường như cũng cảm nhận mình sắp mất chủ, con mèo cứ kêu lên mải miết. Bà Thành bực mình gắt:
- Giờ này mà còn ở đó ôm chó với mèo!
Cầm lấy một cây roi, bà quất mạnh vào lưng con Kiki. Nó kêu lên đau đớn và bỏ chạy. Vân vội vã ném con mèo vào sân, buồn bã theo ba bước lên xe. Bà Thành khóa cổng thật cẩn thận rồi mới lên ngồi, sập cửa lại, ra lệnh cho ông Tư chạy đi. Vân quay đầu lại nhìn ngôi nhà thân yêu lần cuối cùng. Trong bóng tối, dường như nàng vẫn còn nghe tiếng kêu văng vẳng của con Ariel giờ đã mất chủ…
Trước đó một ngày, thiếu tá Nâu cũng đã vào sân bay bỏ chạy. Nhớ đến trách nhiệm với ông Thành, sợ bỏ Sơn ở lại trong trại giam tù chánh trị sẽ bị đám đàn em hung bạo của mình thủ tiêu chung vào giờ cuối, Nâu cố gắng làm một nghĩa cử cuối cùng: đưa Sơn qua khám Chí Hòa gởi một người bạn đưa vào trại giam thường phạm, với lời dặn hãy thả anh ra trước khi chế độ tan rã.
Vừa nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, những người trung thành cuối cùng trong ban quản đốc, giám thị khám Chí Hòa lập tức bỏ chạy thậm chí không kịp khóa cổng ngoài. Những người dân có cảm tình với cách mạng và cả những người dân luôn sẵn sàng đi hôi của, rồi thân nhân của hàng nghìn người tù - chính trị lẫn thường phạm - như chỉ chờ có vậy, tuôn vào. Kẻ đập phá tháo gỡ vác chạy, người giật tung những khung cửa sắt tháo củi sổ lồng cho tất cả tù nhân. Tiếng hò reo hể hả vang lên khắp nơi, hòa lẫn với tiếng trống ếch tùng tùng trên đường phố của những đám trẻ đi hoan hô chào đón cách mạng với tinh thần ham vui là chính.
Sơn chạy theo những người tù ào ra khỏi cổng trại giam. Ánh nắng ban trưa chói lòa làm mù mắt những người tù trong giây lát trước khi họ nhìn thấy bầu trời tự do thoáng đãng bên ngoài. Trời quá xanh và mây quá trắng. Mây trên trời quá trắng còn Bạch Vân của Sơn giờ đang ở đâu? Tim Sơn thắt lại trong nỗi nhớ Vân quay quắt. Vân đâu rồi? Nhà Vân còn ở lại hay đã ra đi? Mấy ngày qua, dù ở trong ngục tối nhưng những người tù thường phạm cũng đã phần nào biết được tin chiến sự, lờ mờ hiểu chế độ miền Nam đang sụp đổ tới nơi. Sơn tin chắc với thế lực của cha mẹ Vân, gia đình Vân dư sức có chuyến ra đi đường hoàng… Sơn hít vào một hơi dài, ngước mặt lên nhìn ánh mặt trời chói chang đủ màu sắc trên cao, linh cảm cùng với sự tự do này sẽ là những ngày cô đơn của mình. Anh sẽ không còn Vân, không có Vân trong rất lâu, thậm chí có thể vĩnh viễn.
Tiếng hát của anh em nhà Gibb như bỗng vang lên trong anh:
Good morning mister sunshine. You brighten up my day. Come sit beside me in your way. Lonely days, lonely nights, where would I be without my woman… [20]
Hai giờ trưa ngày 30-4, Sơn về đến nhà.
Ba mẹ Sơn mừng chảy nước mắt khi gặp lại con, dù hốc hác tả tơi. Tắm gội thật nhanh rồi ăn qua loa chén cơm mẹ ép, Sơn lên xe chạy ngay đến nhà Vân. Đường phố thưa thớt nhưng hỗn loạn với những bộ quần áo lính, giấy tờ, rác rến cùng các món của hôi vô giá trị vứt bỏ tung tóe khắp nơi. Những con chó mất chủ ngơ ngác chạy khắp đường phố. Từng nhóm người hì hục đẩy những xe “chiến lợi phẩm” về nhà, nào là tivi, tủ lạnh, máy lạnh, máy tắm nước nóng, dàn máy nghe nhạc… rồi salon, giường nệm, tủ sắt, tủ gương, tủ thờ, lư đồng, đàn piano…, kể cả quần áo, giày dép, chén đĩa, bàn ghế, cửa sổ, cửa lớn, cửa sắt… cũng không thoát. Một cảnh dọn nhà tập thể chưa từng thấy trên khắp các đường phố Sài Gòn, dưới mắt nhìn lạ lẫm của những người bộ đội đầu tiên tiến vào thành phố.
Sơn đau lòng bước vào nhà Vân. Người ta đã dọn sạch sẽ tất cả, cho đến hai cái điện thoại cũng bị giật mất, chỉ còn trơ mấy cọng dây. Bước vào phòng riêng của Vân, nơi Sơn chưa từng một lần được phép đặt chân, anh cúi xuống nhặt lên giữa đám sách vở bề bộn một khung hình chân dung Vân khổ lớn mà có lẽ vì vội quá nên người ta đã làm rơi bể tấm kính và ném bỏ. Đôi mắt tròn đen láy và đôi môi cong nũng nịu này suốt hơn hai tháng qua không đêm nào không đi vào giấc ngủ chập chờn đau khổ của anh. Vân đâu rồi? Nàng đã đi được đến đâu và liệu có an toàn không? Chắc chắn Vân không bao giờ muốn bỏ Sơn để ra đi, nhưng nàng đã ở vào thế chẳng đặng đừng. Biết bao giờ Sơn mới gặp lại được người trong ảnh mới đây mà giờ đã cách xa nghìn trùng?
Một tiếng mèo kêu thảm thiết chợt vang lên trên bờ tường. Sơn ngước lên nhìn và thấy con mèo tam thể cục cưng của Vân, không biết tại sao giờ này còn ở đây. Chắc chắn vật mà Vân tiếc nhất khi rời căn nhà này chính là con mèo đang run rẩy trên bờ tường kia, nếu được đem theo hẳn nàng đã sẵn sàng vứt bỏ nhiều thứ để chọn nó. Sơn buột miệng kêu “meo meo” và ngạc nhiên nhìn con mèo nghiêng nghiêng đầu ngó anh chỉ trong giây lát rồi phóng xuống đất chạy tới, cong lưng cọ vào chân anh.
Tấm ảnh bỏ trước giỏ xe và một tay ôm con Ariel trong lòng, Sơn chạy xe về nhà khi trời đã xế chiều. Nhiều người lính thua trận vẫn còn lầm lũi trần trụi đi như những bóng ma, bên cạnh đoàn quân hôi của đang mệt lử đẩy về nhà những chuyến hàng cuối cùng…
Chú thích:
[19] Antenne: bộ phận bắt sóng. Ở đây có nghĩa là những người được cài vào hàng ngũ tù nhân để thu lượm thông tin.
[20] Xin chào buổi sáng ông ánh nắng. Ông đã chiếu sáng ngày của tôi. Hãy đến bên tôi trên đường đi. Những ngày cô đơn, những đêm cô đơn. Tôi sẽ ở đâu nếu không có người phụ nữ của tôi …