Chương 3 (tt) -
Ba Nhỏ, trưởng ban công an xã Hiệp Hưng, nheo mắt nhìn ông Thành:
- Tại sao gia đình ông chạy về đây?
Ông Thành vờ khúm núm:
- Dạ thưa cán bộ, hôm Quân đoàn 2 bỏ Pleiku, thấy mọi người chạy gia đình tôi cũng chạy. Vào Sài Gòn người ta cho ở trại tị nạn chật chội nóng bức quá mà coi bộ không xong, tôi đưa gia đình về đây cho yên…
- Ở Pleiku ông làm thầy giáo à?
- Dạ phải.
- Ông dạy cái gì?
- Dạ dạy sinh ngữ.
- Sinh ngữ là… cái gì?
- Dạ… là ngoại ngữ, tiếng Anh…
- Bây giờ giải phóng rồi, sao ông không về Pleiku đi dạy tiếp mà đòi ở đây?
- Dạ thưa bây giờ ngành giáo dục thay đổi hết rồi, tôi có về chắc cũng không được cho dạy nữa, má tôi nói thôi thì tôi ở lại đây làm ruộng để gần gũi bà…
- Ai nói ông không được cho dạy nữa? Chế độ mới sẽ đem lại sự phồn vinh cho đất nước gấp trăm lần thời Mỹ ngụy, trường học sẽ mọc lên khắp nơi, ông lo gì không được dạy?
Ông Thành chỉ còn biết “Dạ… Dạ…” theo lời dạy bảo của Ba Nhỏ. Anh chăm chú nhìn ông:
- Ông chạy nạn kiểu gì đến nỗi cả nhà mất hết giấy tờ, chỉ còn mỗi tờ giấy khai sinh của ông, nói tôi nghe coi?
Ông Thành cố giữ giọng bình tĩnh, trả lời đúng theo kịch bản đã bàn bạc với ông Tư:
- Thưa cán bộ, gia đình tôi bị một bọn lính biệt động quân cướp hết tài sản trên đường 19 gần đèo An Khê, ví tay, giỏ xách bị lấy sạch, còn sống được là may… Tờ giấy khai sinh còn là nhờ má tôi ở đây còn giữ.
Ba Nhỏ đẩy tới trước mặt ông Thành một tờ giấy:
- Anh Tám Khuyên dặn cứ cho ông đăng ký tạm trú, từ từ tính sau. Nhưng trách nhiệm vụ của tôi thì tôi phải làm tròn. Nói thiệt, bộ tướng của ông coi bộ không giống thầy giáo chút nào. Trước đây ông ở đâu, làm gì, tôi sẽ tìm hiểu ra thôi. Ông ghi vô đây địa chỉ nhà của ông ở Pleiku đi. Ông mà nói láo tôi thì mười anh Tám Khuyên cũng không cứu được ông đâu!
Ông Thành cố bình tĩnh ghi cho xong tờ giấy theo nội dung đã bàn tính trước với ông Tư, địa chỉ ghi đúng luôn số nhà mà ông Thảnh từng cho ông Tư, tự tin chắc còn lâu anh công an xã này mới mò lên tới phố núi để kiểm tra ra sự thật. Ba Nhỏ cất kỹ tờ giấy vào sắc cốt rồi nói:
- Rồi, bây giờ ông ra mời con gái ông vào đây.
Thật ra Vân mới chính là người Ba Nhỏ quan tâm. Dù nàng đã lựa những bộ quần áo giản dị nhất để mặc, thậm chí bà Tư còn sửa lại mấy cái áo bà ba của chính mình cho cô chủ nhỏ, nhưng ở cái xứ quê mùa này thì cô gái Sài Gòn có nước da trắng muốt vẫn nổi bật trong mắt mọi người ở đây. Đặc biệt là trong mắt Ba Nhỏ, hôm anh đến nhà Tám Khuyên hội ý và tình cờ gặp nàng cùng cả gia đình đến chào ông bác họ. Nói cứng vậy thôi chứ khi đã biết Lê Văn Thảnh là em bà con chú bác của bí thư xã ủy Tám Khuyên, Ba Nhỏ khó thể không đồng ý cho gia đình ông hồi hương. Chỉ có điều anh ta tự thấy mình có quyền làm khó dễ đôi chút, chỉ để lấy uy với cô gái đẹp như tiên nga giáng trần đã hớp hết hồn anh ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên.
Vân co rúm người khi ánh mắt sắc như dao của Ba Nhỏ chầm chậm lướt qua. Chiếc áo rộng rinh vẫn không che được tấm thân tròn lẳn bên trong, và màu áo đen chỉ càng làm trắng hơn làn da ngà ngọc của Vân. Chưa bao giờ Ba Nhỏ được ngồi gần Vân như vậy, chỉ một cái vươn tay là có thể chạm được. Một mùi thơm kỳ lạ từ người Vân nhè nhẹ tỏa ra làm Ba Nhỏ thấy ngây ngất. Anh nhìn Vân và cười ngớ ngẩn:
- Cô là Lê Bạch Vân, con của ông bà Lê Văn Thảnh?
- Vâng, thưa ông.
- Gọi anh là anh Ba Nhỏ được rồi. Cô Vân năm nay mười tám tuổi?
- Dạ đúng ạ.
- Đang học lớp 12?
- Dạ.
- Tại sao cô không học ở Pleiku mà lại vào Sài Gòn đi học?
Lời khai này đã nằm trong bàn tính của ông bà Thành và ông Tư. Bộ điệu dân thành thị của Vân thật khó giấu, vả lại thật sự con gái thầy giáo Thảnh cũng đã vào Sài Gòn đi học đi làm và từ đó mới lấy được ông chồng cố vấn Mỹ. Đã chuẩn bị trước nên Vân trả lời trơn tru:
- Học ở tỉnh khó vào đại học lắm thưa anh.
Ba Nhỏ nghe muốn nuốt lấy hai tiếng “thưa anh” êm như nhung, nhưng vẫn làm tàng:
- Học lớp 12 nói chung là… học cái gì? Cô nói tôi nghe coi!
Bản thân Ba Nhỏ lúc đi theo du kích còn mù chữ, vào chiến khu chỉ được dạy cho đủ biết đọc biết viết và làm được bốn phép tính, nên không thể hình dung lớp 12 được học những gì. Anh chỉ suy nghĩ lớp 1, lớp 2 đã khó như vậy thì học được tới lớp 12 chắc không phải người phàm. Vậy mà cô gái đẹp này đã học đến cỡ đó. Không biết cô ta có nói dóc với anh không.
Vân nhìn chàng trai đầy uy quyền trước mặt, thật tình không hiểu anh ta muốn hỏi gì. Nàng ấp úng:
- Dạ là học… lớp 12, năm cuối bậc trung học.
- Cụ thể là học cái gì?
Vẫn chưa hiểu lắm những từ mấy ông cách mạng thường nói như “nói chung”, “cụ thể”, “liên hệ”…, Vân chỉ nghĩ hay là ông công an này muốn kiểm tra xem có đúng mình học lớp 12 hay không. Nàng trả lời một mạch:
- Dạ, là học hình học không gian, học lý hóa, lượng giác, vạn vật, sinh ngữ 1 Anh, sinh ngữ 2 Pháp, học văn, học triết…
Ba Nhỏ nghe lùng bùng lỗ tai nhưng cũng cố mỉm cười:
- Cô còn nhỏ mà học nhiều há! Vậy cô về đây định làm gì? Tướng cô chắc làm ruộng không nổi rồi! Con nít ở đây mù chữ nhiều, mai mốt cô làm cô giáo được không?
Vân nghĩ chẳng lẽ ông công an này muốn thử mình:
- Dạ thưa tôi mới học lớp 12, làm sao dạy được?
Ba Nhỏ khoát tay, giọng chắc nịch:
- Được tuốt! Lớp 12 mà không dạy được lớp 1, bộ nói chuyện chơi hả?
Vân sợ quá, ngồi im thin thít. Ba Nhỏ thấy mình ra uy như vậy cũng tạm đủ, liền hạ giọng:
- Cô muốn ở đây thì phải có đóng góp cho địa phương. Cho cô biết tôi còn kiêm nhiệm bí thư chi đoàn của xã, có chân trong thường vụ huyện đoàn. Tuổi thanh niên như cô nằm trong phạm vi quản lý của tôi. Sắp tới cô phải vào sinh hoạt thanh niên… - Ba Nhỏ dừng lại một chút để nhớ lại bài vở - Đất nước mới được giải phóng, cần được xây dựng lại đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Việc đó là việc thanh niên như tôi và cô phải làm. Đâu cần thanh niên khó, việc gì khó có thanh niên! Cô cứ về suy nghĩ đi, rồi mai mốt tôi tới nhà nói chuyện thêm.
Buổi chiều hôm đó, ông Tư làm thịt một con chó, mời Tám Khuyên, Ba Nhỏ và một số cán bộ xã ấp đến dự, gọi là ra mắt gia đình thằng Năm mới về hồi hương. Khách đến gần đủ, ông Tư kéo ông Thành ra sau nhà, hỏi nhỏ:
- Ông uống rượu đế được không?
Ông Thành lắc đầu:
- Tôi chưa bao giờ uống. Chắc không được.
Tửu lượng ông Thành thuộc loại yếu, trong những buổi tiệc ông thường chỉ uống được chừng một ly bia hoặc rượu chát, còn rượu cognac như Martel, Courvoisier, ông chỉ nhấp được một ly nhỏ trong suốt bữa.
Ông Tư nghiêm mặt:
- Dù uống không được, xin ông cố “dô” hết mình giùm tôi. Thà ông uống vài ly rồi gục tại chỗ, ói mửa ngay trên bàn nhậu hoặc lên mình lên mẩy người ngồi kế bên cũng được, chớ ông mà không dô chăm phần chăm thì sẽ không được cảm tình của những người này đâu, và như vậy sẽ không có lợi.
Nghe lời ông Tư, ông Thành nhắm mắt uống cạn chất nước trắng khen khét cay nồng mỗi khi chiếc ly nhỏ đưa tới. Chỉ sau vài tua, mặt ông đã đỏ như mặt gà chọi, mắt đổ lửa, tim đập thình thình trong ngực. Mọi người trong bàn nhìn ông tán thưởng, họ gắp mồi cho ông, ép ông ăn, đâu hay cả đời ông chưa bao giờ đụng tới miếng thịt chó. Cái mùi nồng nồng của nó làm ông thấy ghê miệng, gần như nuốt trộng theo rượu chứ không dám nhai, và sau ly thứ ba thì cứ mỗi lần miếng thịt trôi được xuống cổ họng ông là lại bị hơi cồn đang phừng phừng bên dưới đẩy trồi lên. Ly thứ năm, ly thứ sáu… Ông Thành đếm từng ly, lòng tự nhủ hãy cố gắng, chút nữa thôi, cái bình nhựa hai lít sắp cạn rồi. Chó và rượu trong người ông cứ nhộn nhạo trào lên, ông cứ lén đưa tay vuốt ngực đè xuống, rồi thở phào tự nhủ mình còn may mắn khi thấy Ba Nhỏ dốc ngược bình chắt cho hết những giọt rượu cuối cùng vào cái ly của người ngồi trước tua ông. Anh ta cầm cái bình không thò xuống dưới bàn, khi đưa lên lại là một bình đầy, cười ha hả:
- Nãy giờ là ăn, còn bây giờ mới bắt đầu uống đây!
Tuyệt vọng thấy mọi cố gắng của mình hoàn toàn vô ích, ngay khi vừa cầm ly rượu đầu tiên của chiếc bình mới đưa lên miệng, ông Thành bỗng khựng người lại và chỉ kịp quay phắt ra sau để mặc cho tất cả những gì vừa nuốt vào nãy giờ thả sức phun ra trong tiếng hò reo của mọi người trên bàn. Ở trong nhà, Vân và bà Thành kinh hãi nhìn tiệc rượu ngoài sân. Họ chưa bao giờ thấy người ta uống rượu theo kiểu tàn sát nhau như vậy.
Sau bữa tiệc rượu ra mắt nhớ đời phải nằm mê man từ trưa hôm trước tới sáng hôm sau, ông Thành coi như đã được chấp nhận cho hồi hương lập nghiệp. Như đã báo trước, chỉ hai ngày sau là Ba Nhỏ quay lại tìm Vân. Nàng được kết nạp vào Hội liên hiệp thanh niên xã đợt đầu tiên và tham dự ngay lớp học “Tình hình và nhiệm vụ” do Tám Khuyên, Ba Nhỏ và một số cán bộ khác trong xã và trên huyện xuống đứng lớp trong suốt một tuần. Những bài giảng theo kiểu đọc lại nguyên văn tài liệu giáo trình cùng kiến thức rập khuôn của các giảng viên không thể làm Vân hiểu được thế nào là chuyên chính vô sản, là dân chủ tập trung, là sự ưu việt của chủ nghĩa xã hội, sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản cùng vai trò lãnh đạo thần kỳ và duy nhất của Đảng lao động Việt Nam… Trong những giờ ngồi học Vân cứ thả mặc hồn bay bổng ra khỏi khung cửa sổ, về vùng trời Sài Gòn nơi có người nàng yêu dấu không biết đang làm gì, ở đâu, sống như thế nào. Vân cứ nhớ Sơn, nhớ Sơn quay quắt, nỗi nhớ như một tảng đá đè nặng lên ngực nàng từng ngày từng giờ, gần như không lúc nào hình bóng của Sơn thoát ra khỏi tâm trí của Vân.
Từ trên bàn báo cáo viên hoặc đứng khoanh tay ngoài cửa quan sát lớp học, Ba Nhỏ thấy rõ sự miễn cưỡng, lơ là của Vân. Rõ ràng cô gái đẹp này không hề quan tâm tiếp thu các bài giảng mà đang mải lo ra một chuyện gì đó. Ba Nhỏ thấy bực bội khi từng nghe nói, với các cô gái, không gì làm họ bận tâm bằng chuyện tình yêu. Những đồng đội nam của Ba Nhỏ nếu phấn đấu kém có thể vì nhiều lý do: kèn cựa địa vị, tự ái cá nhân, bị đối xử không công bằng, quan hệ nam nữ không trong sáng… Còn các cô gái thì chịu đựng gian khổ hơn hẳn, không bao giờ mở miệng than van hay trốn đi chiêu hồi, cũng không quan tâm nhiều đến chuyện địa vị, nhưng nếu thất tình thì họ lập tức biến thành một con người khác. Đôi mắt mơ màng thế kia rõ ràng đang nói lên điều đó. Có thể Vân đang nhớ người yêu của cô ở Sài Gòn… Chuyện đó cũng là bình thường, nhưng không hiểu sao trái tim của chàng trai mới mười bốn tuổi đã đi theo du kích và nay hai mươi lăm vẫn chưa xao động trước ai, giờ bỗng đập liên hồi trước cô gái mười tám tuổi này và cảm thấy nhức nhối khi tin là cô ta đang nghĩ tới một thằng con trai nào khác.
Ba Nhỏ mê man Vân có lẽ vì nàng quá đẹp, đẹp từ sợi tóc cho đến ngón chân, không một ai trong xóm kể cả đàn bà con gái gặp nàng mà không ngoái nhìn. Một lần Ba Nhỏ tình cờ đi ngang bờ sông nơi Vân đang ngồi tập giặt quần áo vừa xong. Cô gái xắn quần lên cao quá gối khoe đôi chân trắng ngần mà Ba Nhỏ cả đời chưa từng được thấy có chân ai đẹp như vậy. Vì vành nón lá che ngang không thấy Ba Nhỏ đang đứng phía sau, Vân cứ vô tình cầm chiếc bàn chải đánh răng cũ chăm chút chà từng ngón chân hồng hồng mủm mỉm của mình làm chàng trai càng thấy ngộp thở. Nỗi nhớ Sơn và nỗi buồn đau vì sao mình lại bị mất tất cả để phải ngồi đây giữa nắng nhúng tay nhúng chân vào dòng nước đục làm nước mắt Vân tự dưng tuôn ra. Bờ vai cô gái run rẩy theo từng cơn sóng cuộn trong lòng, mỗi lúc một trào dâng bần bật. Ba Nhỏ hết hồn bước tới:
- Kìa, cô Vân bị sao vậy?
Vân hốt hoảng ngước lên nhìn Ba Nhỏ bằng đôi mắt đẫm lệ, rồi vội vã đứng dậy ôm thau quần áo chạy mất. Đôi mắt ướt rượt ấy đã theo vào nóc mùng Ba Nhỏ tối hôm đó - và rất nhiều buổi tối sau này - làm anh cứ trằn trọc không sao ngủ được.
Với sự kềm cặp tận tình của Ba Nhỏ, Vân cùng vài thanh niên khác theo anh đến từng căn nhà trong ấp để làm những bảng điều tra về dân số, thành phần, lý lịch, trình độ… Hầu như tất cả đều là nông dân nghèo, học vấn kém, thanh niên trai tráng nếu không đi du kích thì cũng theo lính cộng hòa, giải phóng xong họ chạy về làng, dù sao cũng bà con dòng họ với nhau thôi thì đi học tập vài ngày coi như xí xóa. Trẻ em và người già còn mù chữ rất nhiều. Gạo thóc trong nhà từng hộ dân không còn bao nhiêu. Có vẻ như “tình hình và nhiệm vụ” sắp tới của chính quyền cách mạng sẽ hết sức khó khăn và Ba Nhỏ cứ luôn miệng đổ trách nhiệm cho bọn Mỹ ngụy làm bần cùng hóa nhân dân.
Phát hiện khả năng viết chữ đẹp của Vân, Ba Nhỏ lập tức giao nàng việc kẻ hàng loạt câu khẩu hiệu lên các bức tường công sở và băng-rôn treo đầy trong xã. Anh hài lòng khi thấy Vân làm việc rất siêng năng, tỉ mỉ, mà không hiểu tính nàng từ lâu đã vậy, không làm việc gì thì thôi, đã làm là phải hết lòng. Trưởng ban công an xã lại phụ trách công tác thanh niên hết sức bận rộn, họp hành liên miên, nhưng cứ rảnh ra giờ nào là Ba Nhỏ lại đi tìm Vân, lăng xăng pha sơn chùi cọ cho nàng.
Cái sự mê man ấy không qua được mắt Tám Khuyên. Ông đập mạnh vào lưng Ba Nhỏ khi thấy anh công an xã nhìn theo Vân muốn sái cổ trong một lần nàng có việc đi ngang văn phòng:
- Làm gì mầy nhìn cháu gái tao dữ vậy Ba Nhỏ? Chịu đèn rồi phải không, nói thiệt đi, tao làm mai cho.
Ba Nhỏ ngượng nghịu:
- Ông Tám nói giỡn chơi, người ta ai thèm ưng tui!
Tám Khuyên cười ha hả:
- Mầy bây giờ thua ai ở cái xứ này mà phải mặc cảm? Được rồi, để từ từ tao tính cho.
Ba Nhỏ mắc cỡ quay lưng bỏ đi nhưng đôi mắt lại rực sáng.
Phải rồi, giờ đây anh có thua ai? Trưởng ban công an xã là người đầy quyền uy, trong mắt người dân còn hơn cả chủ tịch, bí thư. Từ khi đi theo du kích tới giờ, Ba Nhỏ không dám làm bất cứ chuyện gì bậy bạ trái với đạo đức cách mạng, có thể nói anh là một người cực kỳ trung thành với những nguyên tắc giáo điều đã được dạy dỗ. Nhờ vậy Ba Nhỏ rất được các thủ trưởng tin cậy giao việc. Những năm tháng chiến tranh, Ba Nhỏ hầu như chẳng để ý đến ai, tập trung tất cả tinh thần và sức lực cho công tác, chiến đấu. Đầu tiên là làm giao liên, rồi nhờ tính gan dạ, trung thành, cần mẫn, anh được giao nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ thủ trưởng… Cứ thế cho đến ngày giải phóng, trở về tiếp thu vùng đất quê hương, chức trưởng ban công an xã hầu như không ai có thể giành với anh. Hai mươi lăm tuổi, hòa bình rồi, giờ đây Ba Nhỏ đã có thể nghĩ đến việc lập gia đình. Hơn một tháng qua, đã có không ít người trong xã mai mối đám này đám khác, nhưng Ba Nhỏ chỉ cười cười lảng tránh. Các thủ trưởng gặp anh trên huyện, trên tỉnh, đều vỗ vai hỏi chừng nào cho họ uống rượu, Ba Nhỏ chỉ nói mình còn nhỏ quá, xin các anh cho em phấn đấu vài năm nữa. Thật ra, ngay từ lần đầu gặp Vân, Ba Nhỏ đã bị rơi vào một tình trạng rất khó chịu vì chưa từng nếm trải. Anh cứ nghĩ tới Vân bất cứ lúc nào, và không ngày nào không tìm cớ này cớ nọ để gặp Vân cho bằng được. Ba Nhỏ cố chống cự lại điều đó, nhưng rốt cuộc vẫn không thể. Thậm chí, đang sức trai cường tráng, nhiều đêm Ba Nhỏ cứ nằm mơ thấy được ôm Vân trong tay, được cởi quần áo nàng ra và hôn mê man lên tấm thân trắng ngần ấy, để rồi hốt hoảng tỉnh giấc khi chiếc quần đùi bị ướt đẫm. Ba Nhỏ hiểu mình đã thương Vân lắm rồi và rất lo vì hiểu với cương vị của anh, anh sẽ không được phép lấy một người có lý lịch không rõ ràng. Nếu đúng ông Năm Thảnh chỉ là một giáo viên không dính dáng gì với địch thì Ba Nhỏ còn hi vọng, nhưng…
Bệnh nghề nghiệp thường có của những người làm công an là nhìn ai cũng thấy địch. Ba Nhỏ không thoát được tật này và lại có trực giác rất nhạy. Ngay trong lần tiếp xúc đầu tiên, dù được biết Năm Thảnh, em chú bác của Tám Khuyên, chỉ là một thầy giáo ở Pleiku, Ba Nhỏ vẫn thấy chưa thể tin ngay được. Một thủ trưởng cũ của Ba Nhỏ đã dạy anh cách tìm kiếm những điều ẩn chứa trong mắt người đối diện. Đôi mắt của cả ba người trong gia đình Năm Thảnh cùng cho Ba Nhỏ chung một cảm nhận là họ còn đang giấu một điều gì đó. Bộ tướng sang cả của bà Năm Thảnh cùng vẻ kính nể của ông bà Tư dành cho bà làm Ba Nhỏ không thể tin bà chỉ là vợ một ông thầy giáo ở tỉnh xa và là một cô em dâu chạy về tá túc nhà anh chị mình. Sự thật gia đình Năm Thảnh là ai, đã làm gì và đang muốn gì, Ba Nhỏ tin rồi mình sẽ tìm ra. Chính quyền trong tay, Ba Nhỏ có đủ sức mạnh để làm được điều đó. Và anh bắt buộc phải làm, nếu muốn tiến tới với Vân.
Một hôm, sau giờ học, Ba Nhỏ tới cười cười nhìn thẳng mặt Vân:
- Cô Vân nhớ ai mà ngồi học cứ nhìn ra cửa sổ thả hồn theo gió theo mây vậy?
Vân hết hồn, chối:
- Dạ Vân đâu có nhớ ai…
Ba Nhỏ sốt sắng:
- Bạn bè nhớ nhau thì cũng tốt thôi, có sao đâu. Bạn của Vân biết Vân về đây ở chưa? Có muốn viết thư cho bạn thì đưa tôi đem lên bưu điện huyện gởi cho, tôi lên đó họp hoài chứ gì.
Các cô gái đẹp thường cảm nhận rất nhanh khi được người khác phái để ý. Vân nhìn vẻ mặt xởi lởi của Ba Nhỏ, nhớ tới sự lượn lờ của anh quanh mình suốt những ngày qua, lập tức hiểu ngay vì sao anh lại tử tế với mình. Luôn cảnh giác trước anh công an có đôi mắt rất sắc này, Vân từ chối, nói mình chẳng có ai là bạn thân và chắc giờ đây bạn bè cũng tứ tán cả rồi. Nhưng lời đề nghị đầy thiện ý của Ba Nhỏ đã gợi cho Vân một việc cần làm, dù chỉ cầu may. Tối hôm đó, khi mọi người trong nhà đã ngủ say, Vân xuống bếp đốt đèn dầu ngồi viết thư cho Sơn, hỏi thăm anh và gia đình còn ở Sài Gòn không rồi cho biết chỗ ở hiện tại của mình, hướng dẫn đường đi thật tỉ mỉ. Tất nhiên bao niềm thương nhớ đã được Vân trút hết vào những dòng cuối và những giọt nước mắt của nàng lại được dịp tuôn rơi lã chã.
Điều mà Vân không thể ngờ là ở góc vườn, sau một bụi chuối, Ba Nhỏ đang đứng lặng lẽ nhìn cô. Trong cuộc tuần tra đêm, bước chân anh lại đưa anh tới nhà Tư Đảnh một cách vô thức. Hình ảnh Vân ngồi thút thít khóc một mình giữa đêm vắng càng làm trái tim Ba Nhỏ như bị ai bóp chặt. Anh thở dài khi thấy Vân gạt nước mắt, xếp trang giấy cho vào phong bì dán lại rồi đứng dậy cầm đèn đi vào nhà trong. Ai? Ai mà lại được Vân vừa khóc vừa viết thư trong đêm hôm khuya khoắc thế này? Trong lá thư ấy hẳn có đủ bao điều bí ẩn về Vân và gia đình nàng. Ba Nhỏ sẵn sàng đánh đổi tất cả để có được nó trong tay.
Sáng hôm sau, hỏi thăm bà Tư, Vân mới biết chuyện gởi thư về Sài Gòn không hề đơn giản, phải chèo ghe hoặc đi bộ vài cây số ra Phụng Hiệp. Thì ra Ba Nhỏ kêu Vân đưa anh đi gởi thư giùm cũng do lòng tốt muốn giúp đỡ nàng. Nhưng làm sao Vân dám đưa?
Nhà “bà nội” không có cả ghe lẫn xe đạp - mà có ghe thì Vân cũng chịu thua - nàng đành hỏi đường rồi mím môi cất bước. Một lần nữa Vân hoàn toàn không thể ngờ từ trong văn phòng, Ba Nhỏ đã nhìn thấy nàng đội nón lá đi ngang qua, hướng về phía lộ. Anh vội vã lên chiếc Honda chạy vòng đường tắt ra huyện…
Gởi liền hai lá thư cho Sơn nhưng không hề thấy hồi âm, Vân lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Hoặc Sơn bị một tai nạn trầm trọng, còn không thì chắc anh đã đi khỏi Sài Gòn. Bởi lúc Vân đi Sơn còn nằm trong trại giam tù Việt cộng, nàng càng lo sợ có thể anh đã bị thủ tiêu trong lúc Sài Gòn sụp đổ. Nhưng ba mẹ Sơn đâu rồi mà không trả lời được cho Vân một dòng nào? Không lẽ ông bà đã ra đi? Sơn ở đâu rồi? Có bị gì không? Làm sao Vân gặp lại anh? Buộc lòng Vân gởi thêm một lá thư cho Hữu, bạn thân của Sơn, nhưng nó cũng bay đi mất tăm.
Lúc ấy hầu như ai phải ở yên đó, muốn đi đâu ra khỏi địa phương xin phép rất khó khăn. Lấy hết can đảm, Vân xin Ba Nhỏ cho về Sài Gòn thăm một người bà con và mua sắm ít đồ dùng cần thiết. Nàng ngạc nhiên thấy sắc mặt anh sạm hẳn lại, dứt khoát từ chối:
- Chưa được!
Vân ấm ức:
- Dì Sáu ở xóm trong vừa được anh cho đi ba ngày mà?
Ba Nhỏ lạnh lùng:
- Đúng rồi, nhưng gia đình Vân thì chưa được phép.
Ba Nhỏ không nói thẳng ra, nhưng Vân tự hiểu chuyện gia đình mình chạy về đây với một lý lịch giả chưa hẳn đã có thể yên tâm. Sau khi các sĩ quan và cán bộ của chế độ cũ đã bị đưa đi học tập cải tạo không biết bao giờ mới về, cuộc kiểm tra thanh lọc từng hộ dân vẫn tiếp tục diễn ra. Xã liên tục phát loa kêu gọi những ai từng làm việc cho chính quyền cũ hãy tiếp tục ra trình diện sẽ được khoan hồng, bằng không nếu bị phát hiện sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Ông Thành lo đến bạc tóc, định ra thú thật tất cả nhưng bà Thành nhất định không cho. Hàng vạn sĩ quan và cán bộ được kêu gọi tập trung đi học tập trong mười ngày nhưng sau đó không ai trở về càng làm bà Thành tin họ sẽ bị thủ tiêu dần mòn. Thứ trưởng trong chế độ Mỹ ngụy, dám chạy về đây lừa gạt chính quyền địa phương, ra thú tội thì khoan hồng cỡ nào chắc cũng phải ở tù miệt mài. Bà Thành quyết định chỉ có một con đường là phải bằng mọi cách chạy ra nước ngoài, càng sớm càng tốt. Thông tin từ các đài nước ngoài mà bà và ông Thành lén nghe hàng đêm cho thấy nhiều người dân miền Nam vẫn đang tiếp tục dùng tàu đánh cá đào thoát bằng đường biển, được tàu chiến Mỹ và tàu buôn các nước cứu vớt. Bà Thành xuất vàng cho ông Tư đi mua một chiếc tam bản “để chở lúa và làm phương tiện di chuyển cho gia đình”, rồi giao ông nhiệm vụ ra Phụng Hiệp và Cần Thơ lân la tìm hiểu chuyện vượt biên, hứa sẽ cho cả hai vợ chồng ông cùng đi…
Đầu năm 1976, lúc gần Tết, quá lo lắng cho số phận của Sơn, Vân quyết định sẽ trốn về Sài Gòn đi tìm anh. Nàng lẳng lặng ra chợ Phụng Hiệp bán sợi dây chuyền để chuẩn bị tiền đi đường, dự định một buổi sáng sớm tinh mơ sẽ quá giang xuồng chở hàng chợ về Cần Thơ, rồi ra bến xe về Sài Gòn, chỉ hai trăm cây số nhưng qua được hai cái phà chắc chiều tối mới tới. Vân sẽ tìm tới nhà Sơn ngay, nếu Sơn đã dọn đi đâu thì nàng phải hỏi cho ra được địa chỉ nhà mới của anh. Trong trường hợp Sơn đã đi nước ngoài thì ít nhất nàng cũng biết được như vậy. Nếu có xe chạy khuya thì Vân về liền trong đêm, còn nếu không thì nàng sẽ nghỉ tạm ở một nhà trọ gần bến xe. Tình yêu đã khiến Vân đủ can đảm để quyết định liều lĩnh như vậy.
Nhưng thật bất ngờ, vào đêm gần sát ngày Vân chuẩn bị đi thì ba mẹ gọi nàng lại kêu chuẩn bị hành lý gọn nhẹ để sáng sớm lên đường ra biển. Túi xách của Vân bị bà Thành bắt mở ra cho bà coi và cương quyết buộc Vân phải bỏ lại bọc đựng thư từ, kỷ vật của Sơn, không cho đem theo. Thay vào đó là những gói mì ăn liền làm lương thực dự phòng cho chuyến đi đầy nguy hiểm này. Vân chảy nước mắt gởi chiếc bọc lại cho bà Năm Rảnh, mẹ ông Tư Đảnh. Vậy là những lá thư, hình ảnh, kỷ vật… quí báu ấy rồi cũng rời xa nàng mãi mãi? Để giờ đây Sơn chỉ còn là một hình bóng tồn tại trong ký ức Vân mà thôi.
Hôm ấy bầu trời trong veo, xanh ngắt. Giấu những túi hành lý dưới lườn ghe và dàn cảnh đi ăn đám cưới bà con ở một xã gần đó, ông Tư chèo tam bản chở ông bà Thành, Vân và vợ ông ra Phụng Hiệp vào giữa trưa. Ở đó, ông Tư giao lại chiếc tam bản cho một người trong nhóm tổ chức rồi tất cả lên một chiếc ghe máy theo kinh xáng Cái Côn đến Đại Ngãi để ra sông Hậu. Trên ghe có khoảng mười mấy người, đều giả dạng như đi ăn cưới. Chuyến đi diễn ra y như dự tính. Người tổ chức cuộc vượt biển nằm ở Cần Thơ, cho đi lẻ nhiều chiếc ghe máy nhỏ từ các điểm khác nhau để lần lượt đến điểm tập kết Đại Ngãi vào chập tối. Đây là nơi sông Hậu đang cuồn cuộn chảy thì gặp cù lao Dung chắn ngang, tẻ ra làm hai nhánh để ra cửa Định An phía Trà Vinh và cửa Trần Đề phía Sóc Trăng. Sông nước mênh mông nhìn không thấy bờ, gió chiều lồng lộng thổi, chiếc ghe máy cứ rì rì chạy tưởng chừng không bao giờ tới bến. Vân bị say sóng, nằm bẹp dí trong khoang, đầu óc cứ lơ mơ nghĩ về Sơn. Dù người tổ chức chuyến đi - ông Kim Sang, chủ một tiệm vàng lớn trước đây ở Cần Thơ - luôn miệng bảo đảm với ông bà Thành về sự an toàn của nó: tàu đánh cá máy Yanmar ba lốc đầu bạc còn rất mới, hoa tiêu là sĩ quan hải quân trốn học tập cải tạo, bãi đi rất an toàn, bí mật, và chính bản thân cả gia đình ông đủ sáu người cùng đi, thế nhưng cả nhà Vân đều hiểu đây là một chuyến đi đầy may rủi, chỉ có điều họ đã ở vào thế không thể không liều. Vân miên man nghĩ về Sơn, về những kỷ niệm êm đềm của hai người, về sự nguy hiểm mà mình đang trải qua… Cuối cùng nàng chỉ còn biết cầu xin Trời Phật cho Sơn và mình được tai qua nạn khỏi để còn có ngày được gặp lại nhau…
Trời tối mịt. Chiếc ghe tắt máy, chèo tay một lúc thì cặp vào lườn một chiếc tàu đánh cá. Một giọng nói từ trên vọng xuống:
- Đứa nào đó?
- Dạ, Sáu Be đây anh Sang. - Người chạy ghe máy đáp.
Một chiếc thang tre thả xuống cho mọi người leo lên. Vân mò mẫm làm theo mọi người. Lên đến boong tàu, cô thấy có nhiều bóng người lố nhố chung quanh. Có tiếng chân va chạm vào một chiếc xô, tiếng người suỵt khẽ rồi một giọng nói vang lên nho nhỏ:
- Đủ chưa?
Một giọng khác đáp lại:
- Còn một chiếc nữa.
Người hỏi chưởi thề rồi nói:
- Chờ nó mười lăm phút nữa thôi, ra tới cửa biển mà trời sáng bét là coi như tiêu. Bà con ai nấy ngồi im giùm, không được hút thuốc và làm ơn đừng ho, nhảy mũi…
Một sự im lặng nghẹt thở. Vân ngồi kế ba và trong bóng tối, ông đưa tay qua cầm lấy tay nàng, bóp khẽ như để trấn an con gái.
Có tiếng mái chèo khua nước tiến đến gần, rồi tiếng thì thầm trên tàu:
- Nó tới rồi!
Chiếc ghe cặp vào. Ông Sang đứng trên hỏi khẽ xuống:
- Tư hả Tư?
Ghe bên dưới đáp lại bằng sự im lặng.
- Phải thằng Tư không? - Ông Sang sốt ruột hỏi lại.
Bất thình lình từ phía dưới vang lên mấy loạt đạn AK chát chúa, tóe lửa. Nhiều ánh đèn pin lóe lên sáng rực, chiếu thẳng lên tàu cùng lúc với tiếng quát mạnh mẽ qua một chiếc loa cầm tay:
- Công an biên phòng đây! Tất cả ngồi im tại chỗ, ai chống cự sẽ bị bắn bỏ!
Mọi người trên tàu nhìn nhau rụng rời…
Suốt đời Vân sẽ không bao giờ quên được cái đêm hôm ấy. Sáu mươi mấy người bị thu giữ hết hành lý đưa về trại giam huyện Long Phú lúc gần nửa đêm, nam một bên nữ một bên ngồi chồm hổm giữa sân chờ làm thủ tục kê khai tên tuổi, lý lịch, trong ánh sáng của một cây đèn nê-ông treo lơ lửng trên một cây sào tre. Một viên công an có vẻ chỉ huy đứng nhìn mọi người bằng ánh mắt nghiêm khắc:
- Ai là chủ tàu đâu? Đứng lên!
Tất cả vẫn im lặng. Viên công an cao giọng:
- Tôi hỏi ai là chủ tàu? Không đứng lên tôi sẽ lôi ra bắn bỏ! Mấy người chưa kịp chạy là chúng tôi đã biết rồi, vậy làm sao giấu được hả? Một lần chót: Ai là chủ tàu?
Ông Kim Sang đau khổ đứng lên:
- Dạ tôi.
- Hừ! Tưởng ông dám lì chứ? Đứng im đó! Còn trong đây có ai là sĩ quan ngụy trốn học tập cải tạo không? Đứng lên luôn đi!
Mọi người lại im lặng. Viên công an quắc mắt nhìn quanh, hăm dọa:
- Mấy người không giấu được chúng tôi đâu, và khi chúng tôi đã biết thì đừng trách!
Sau khi ông Kim Sang được đưa vào một phòng riêng để hỏi cung, những người còn lại được lệnh lần lượt tiến lên tự nhận lấy túi xách của mình và đem tới bàn kê khai hồ sơ cá nhân, kiểm tra hành lý. Tất cả tiền, vàng, đồ trang sức trên người đều bị tịch thu, chỉ được giữ lại quần áo và vài món đồ dùng cá nhân thiết yếu. Bà Thành đau khổ nhìn những miếng vàng y, sợi dây chuyền, nhẫn vàng, nhẫn kim cương… của mình bỗng hóa thành những “miếng, dây, nhẫn kim loại màu vàng, nhẫn hột đá trắng”… ghi trong biên bản, cố nằn nì:
- Thưa cô, xin cô ghi rõ mấy miếng này là vàng y, hiệu Kim Thành, tổng cộng năm chục lượng…
Cô công an gầy gò có đôi gò má nhọn hoắt phụ trách lấy lời khai bên phía nữ nạt ngang:
- Im mồm! Bao giờ tôi hỏi mới được nói! Làm sao tôi biết đây là cái gì, thật hay giả? Và tôi bảo cho biết này, theo luật thì tất cả những thứ này đều nộp tất cho nhà nước, đưa vào công quỹ, phục vụ nhân dân, không trả lại cho bọn phản quốc mấy người đâu!
Theo bàn tính từ trước, bà Thành và Vân cùng khai đúng y như cái lý lịch giả của hơn nửa năm qua. Cô công an cười khẩy nhìn bà Thành:
- Bà là vợ giáo viên sao có tài sản nhiều thế? Khai thật đi!
Bà Thành cúi mặt, lí nhí:
- Dạ thưa đó là gia tài của ông bà cha mẹ tôi từ bao đời để lại…
Cô công an nhếch mép:
- Thế à? Có gia tài nhiều thế mà không chịu ở đây hưởng, trốn ra nước ngoài làm gì? Vậy thì từ nay bà sẽ được sống bằng chính sức lao động của mình!
Mười một phụ nữ và cô gái bị đưa vào một căn phòng kín. Ba cô công an súng ống roi mây đầy đủ đi theo, chốt cửa lại. Vẫn là cô gầy gò trưởng nhóm lạnh lùng ra lệnh:
- Tất cả cởi hết quần áo ra cho chúng tôi khám xét.
Ai nấy bàng hoàng nhìn nhau, chần chừ.
- Tôi nói mọi người không hiểu à? Ở đây chỉ có phụ nữ với nhau thôi! Cởi quần áo ra nhanh lên! - Cô chỉ huy toán công an nữ quát.
Vân đứng gần cô ta nhất và bị cô ta thẳng tay quất cho một roi:
- Đùa với các người à? Cởi ra!
Vân ứa nước mắt tự cởi hết quần áo ngoài của mình, trên người chỉ còn lại bộ đồ lót. Nàng còn chần chừ liếc ra mấy cánh cửa sổ xộc xệch đầy khe nứt rộng hoác thì lập tức bị một roi thứ hai vụt thẳng vào mông đau điếng:
- Cởi hết ra! Mấy bà kia nữa! Nhanh lên!
Chiếc quần lót của Vân tuột xuống, rơi ra những tờ đôla Mỹ và hai lượng vàng mà khi nãy bà Thành vừa nhét vội vào. Một cô công an lập tức đi tới nhặt lên. Vài người nữa cũng bị tương tự. Trong ánh đèn nê-ông sáng rực, mười một người nữ trần truồng đứng cúi gằm mặt không dám nhìn hai cô công an chậm rãi đi khám xét từng món quần áo và đồ lót, lôi ra mấy sợi dây chuyền và những miếng vàng lá giấu trong những cạp quần, nẹp áo…
Sau hai ngày lấy hết lời khai về nhân thân từng người ở trại giam huyện, tất cả được đưa về trại cải tạo lao động Cồn Đất. Chưa bao giờ trong cuộc đời, cả gia đình nhà Vân lại phải sống cực khổ và vất vả như vậy. Sáu giờ sáng đã phải thức dậy đi làm thủy lợi, đào kinh và đắp đê bao cho một vùng đất mới gần biển. Mồ hôi và nước mắt Vân đổ xuống nơi đó không biết bao nhiêu mà kể. Nước da nàng đen sạm đi. Tóc cháy nắng. Tay chai sần. Cơm hẩm đầy thóc sạn phải vừa ăn vừa nhặt, canh chỉ có một loại duy nhất bí đỏ ăn với khô mặn. Buổi tối mệt mỏi rã rời, tắm táp qua loa xong lại phải nghe giảng chính trị và sinh hoạt văn nghệ, để chín giờ đêm được cho về phòng giam là chỉ còn biết lăn ra ngủ.
Cũng tại nơi đó Vân đã quen Tâm. Là con trai duy nhất của ông bà Kim Sang ngoài hai chị gái và một cô em út, từ nhỏ Tâm đã được cưng như trứng mỏng. Học lực trung bình, đậu tú tài xong, Tâm được cho lên Sài Gòn ghi danh học luật. Trong những ngày tháng ba ác liệt của đoạn kết cuộc chiến tranh, Tâm đang học năm thứ ba ban công pháp thì được cha mẹ gọi về và kẹt luôn dưới Cần Thơ… Quen hưởng thụ sung sướng không chịu đựng được những thiếu thốn của thời hậu chiến, lại bị ảnh hưởng bởi các giáo trình ngành học phân tích tình hình chính trị quốc tế với sự lên án gay gắt chủ nghĩa cộng sản, chính Tâm là người thúc giục cha mẹ ra đi mạnh mẽ nhất, dù mẹ anh có một người anh ruột đi theo cách mạng đã về làm cán bộ tỉnh.
Còn nhiều bà con khá giả ở Cần Thơ, vả lại lúc đi ông Kim Sang đã cẩn thận gởi lại phân nửa gia sản nhờ một người chị ruột đang đi tu giữ giúp, nên gia đình ông được thăm nuôi, tiếp tế đầy đủ nhất trại. Hoa khôi trại cải tạo lao động tất nhiên là Vân, và cũng tất nhiên khi hình bóng nàng lọt ngay vào mắt anh con trai út của ông bà chủ tiệm vàng. Chưa bao giờ Tâm được quen cô gái nào đẹp như Vân. Trong một buổi cơm chiều, Tâm tới làm quen gia đình ông bà Thành, tay cầm theo một lon gô đựng đầy thịt kho khô nói là của ba mẹ kêu đưa qua biếu. Trong hoàn cảnh đó, không ai có thể từ chối một món quà như vậy. Và cứ thế, Tâm thường xuyên san sẻ các món ăn được thân nhân tiếp tế cho gia đình ông bà Thành, giúp họ nuốt trôi những bữa cơm tệ hại. Dĩ nhiên anh đã chiếm được cảm tình của ông bà Thành, được thường xuyên trò chuyện thân tình như anh em với Vân và được ngồi kế bên nàng khi bị bắt buộc xem các chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn của trại viên. Cũng như cha mẹ mình, Tâm không tin ông Thành là giáo viên. Tài sản bà Thành đem theo lớn không thua gì của cha mẹ Tâm, cùng bộ tướng đài các của bà và Vân cho thấy nguồn gốc không thể tầm thường của họ. Người ta nói thời gian cải tạo lao động tối thiểu phải hai năm, nhưng Tâm tin với sự tác động của ông cậu, gia đình anh sẽ được trả tự do sớm và anh sẽ nói ba chạy cho gia đình ông Thành được ra trại. Đến lúc đó, chẳng lẽ anh còn chưa chiếm được trái tim của Vân?
Bởi vì Tâm cảm nhận rất rõ sự lạnh lùng của Vân dành cho mình, dù nàng vẫn đối xử tử tế với anh. Gương mặt xinh đẹp của nàng hầu như chưa hề nở một nụ cười với bất kỳ ai, kể cả Tâm. Vân lao động như một cái máy, thậm chí có hôm bị ngất xỉu giữa hiện trường, được giật tóc mai và vã nước cho tỉnh dậy, lại đứng lên làm tiếp. Giữa nắng gay gắt, Vân cứ mím môi dấn từng bước chân trần trên cánh đồng sình lầy, kì cạch bê từng ky đất. Đôi mắt nàng ngày càng ráo hoảnh, sáng quắc.
Kỳ lạ, Vân càng lạnh lùng, Tâm càng mê mẩn. Chưa bao giờ phải mất nhiều công chinh phục ai, sự thờ ơ của Vân chỉ càng kích thích Tâm hơn. Trại viên đang cải tạo làm sao có điều kiện tán tỉnh nhau? Tâm đành chịu đựng sự thất thế, hi vọng khi cả hai cùng được ra trại sẽ có nhiều dịp chứng tỏ với Vân. Còn bây giờ, anh chỉ biết dùng những thực phẩm được tiếp tế để thay lời muốn nói. Rất không muốn chịu ơn Tâm nhưng Vân lại khó lòng từ chối, bởi sức khỏe của ba mẹ mình - do vừa bị suy sụp tinh thần lại vừa ăn uống quá kham khổ - đang ngày càng suy yếu. Nhất là bà Thành. Sụt cân nhanh, đau ốm liên miên, chẳng buồn ăn uống, bà cứ nằm một chỗ, giương đôi mắt vô hồn nhìn lên trời…
Một ngày giữa tháng Ba, trời nắng gay gắt, đang gánh nước tưới rau, Vân được giám thị gọi lại:
- Vào rửa tay rửa mặt lên văn phòng ngay.
Hồi hộp không biết chuyện gì sắp xảy đến cho mình, Vân theo người giám thị bước vào văn phòng ban quản đốc. Nàng đứng sựng lại khi thấy chính là Ba Nhỏ đang ngồi trên ghế, nhìn mình trân trối…