Chương 4
Trong cơn biến động của thời cuộc, mẹ và cậu Sơn bị lạc mất nhau. Mẹ theo ông bà ngoại chạy về Cần Thơ, một tỉnh ở phía Nam - quê của ba con - còn cậu Sơn sau khi thoát cảnh tù tội - do bàn tay của bà ngoại - đã tiếp tục ở lại Sài Gòn… Mẹ là người không tin những chuyện mê tín, nhưng giờ đây nghĩ lại, mẹ thấy chuyện số phận là có, dường như mọi việc trên đời đều đã được một bàn tay vô hình sắp xếp sẵn…
(Trích thư của bà Bạch Vân để lại cho con)
Những ngày đầu tháng Năm năm 1975 ấy chính là những ngày buồn nhất đời Sơn. Anh cứ chạy qua chạy lại nhà Vân, đau lòng thấy ngay hôm sau đã có một đơn vị bộ đội vào đóng quân, xe tải đậu đầy sân. Họ nhóm bếp nấu cơm ngoài vườn, chẻ hàng rào làm củi, giăng dây phơi phóng quần áo tràn lan… Một lần Sơn dừng xe trước cổng ngẩn ngơ nhìn vào thì một anh bộ đội đi ra, vẻ mặt khó chịu:
- Anh kia, nhìn gì?
Sơn sợ hãi rồ máy xe chạy đi.
Trong lúc các trường học còn tạm ngưng giảng dạy chờ chương trình mới, Sơn cùng các bạn được gọi tham gia lực lượng sinh viên xung kích vào trực đêm bảo vệ trường, đi làm vệ sinh đường phố, đi thu gom văn hóa phẩm đồi trụy phản động… và bắt đầu làm quen với những bữa cơm tập thể. Khả năng chơi guitar của anh được bạn bè trưng dụng ngay vào những giờ sinh hoạt văn nghệ. Các hành khúc rộn ràng sôi nổi của chế độ mới dễ dàng đi vào tuổi trẻ. Từ việc được phân công đệm đàn miễn cưỡng ban đầu, Sơn nhanh chóng yêu thích chúng lúc nào không hay.
Khóa chính trị được giảng bởi những nhà hùng biện giúp Sơn hiểu thêm nhiều điều, mà niềm an ủi lớn nhất chính là từ nay tổ quốc không còn bị chia cắt. Còn sắp tới, sau bao nhiêu năm chiến tranh, việc xây dựng lại đất nước sẽ vô cùng khó khăn, cần sự hợp lực của toàn dân. Gia đình không dính líu gì với chế độ cũ, Sơn hòa nhập vào cuộc sống mới rất nhẹ nhàng. Sự tích cực công tác của Sơn giúp anh được chọn đi học khóa đầu tiên sau giải phóng của trường đoàn Lý Tự Trọng vào cuối tháng Sáu.
Rất bất ngờ, Sơn gặp lại Tư Tiến trong vai trò của ban giám hiệu. Chính anh chủ động đến bắt tay Sơn:
- Mình gặp lại nhau nhanh quá nhỉ đồng chí Năm Sơn?
Sơn cười, nể phục trí nhớ của Tư Tiến. Chỉ cần một lần nghe Sơn kể chuyện lúc anh bị bắt bọn công an gọi bừa anh là Năm Sơn mà Tư Tiến nhớ luôn đến giờ. Tư Tiến kéo Sơn đi uống nước, hỏi thăm chuyện nhà Sơn, chuyện Vân. Khi biết cả nhà Vân đã di tản, Tư Tiến đặt nhẹ tay lên tay Sơn, nói khẽ:
- Chắc cô ấy không muốn đi đâu…
Sơn chỉ im lặng. Cứ nhắc đến Vân là anh lại thấy nhớ, một nỗi nhớ cồn cào tê tái. Hình ảnh Vân lúc nào cũng lẩn khuất đâu đó trong tâm tưởng Sơn. Chỉ cần Sơn đi trở lại một con đường quen thuộc, bắt gặp một vóc dáng - ánh mắt - giọng cười tương tự, nghe một bản nhạc cả hai đã cùng nghe, ăn một món ăn đã cùng ăn… là đủ cho Vân lại hiện lên choáng ngộp trong anh. Thậm chí chỉ một lần bắt gặp một chiếc lá me nằm trên tóc một cô bạn học là Sơn đủ thấy nhớ Vân cùng những chiều hai người chạy xe trên con đường Gia Long[23] có một vòm me đan kín trên cao, nghịch ngợm rắc những chiếc lá vàng lên đầy tóc Vân. Có những đêm trong giấc ngủ Sơn lại thấy Vân mặc áo lụa trắng ôm con mèo tam thể đứng bên anh, rõ ràng đến mức anh còn nghe được cả mùi tóc thơm ngát của nàng. Sơn ngồi bật dậy ôm lấy Vân và ngỡ ngàng nhận ra mình lại đang mơ, chỉ còn mỗi con Ariel là đang nằm trên chiếc ghế gần đó.
Tư Tiến cũng im lặng một lúc lâu, rồi thở dài, nói một cách khó khăn:
- Bạn gái anh bị đày ra Côn Đảo trước đây một năm. Hai đứa đã hẹn sẽ gặp lại nhau trong ngày chiến thắng. Thế nhưng trong những người tù vừa từ ngoài ấy về, không có mặt cô ấy… Cô ấy không bao giờ về nữa…
Sơn nhìn Tư Tiến và hiểu không phải bỗng dưng anh lại mở lòng tâm sự chuyện riêng với mình. Tư Tiến đang muốn chia sẻ cùng anh cảm giác mất mát để anh thấy nhẹ nhàng hơn. Những chịu đựng của Sơn quả chẳng đáng gì so với Tư Tiến. Dẫu sao Vân cũng đang sống đâu đó trên cõi đời này và họ vẫn còn chút cơ hội gặp lại, dù cái ngày đó còn quá mịt mù… Sơn tin Vân đã ở nước ngoài, bởi nếu còn trong nước thì nàng không thể không viết thư cho anh.
Tư Tiến giữ Sơn lại làm việc ở trường Đoàn, đến giữa tháng Bảy thì Thành đoàn triển khai việc thành lập các đại đội Thanh niên xung phong đầu tiên chuẩn bị đáp ứng chủ trương đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới của Thành ủy. Cùng lúc, là chủ trương vận động người dân hồi hương lập nghiệp để giãn bớt khối lượng dân chúng sau bao nhiêu năm chiến tranh đổ hết về thành thị bỏ trống đất đai nông thôn không người canh tác. Ba Sơn dạy môn Công dân giáo dục coi như không còn đất sống. Lớn tuổi và mệt mỏi, ông muốn lui về quê nhà ở Cái Bè để chăm sóc phần mộ ông bà và dưỡng già. Tiền trợ giúp hồi hương của chính quyền và căn nhà nhỏ bán cho một người bà con bên vợ chạy từ Huế vào sẽ giúp ông có chút vốn về sửa sang vườn tược.
Được ba cho quyền chọn lựa hướng đi của đời mình, Sơn quyết định thoát ly đi Thanh niên xung phong. Đưa ba mẹ và em gái lên xe về quê xong, anh bán luôn chiếc Honda cũ lấy vài chục đồng bỏ túi. Balô trên lưng và cây đàn trên vai, thêm con mèo tam thể trong chiếc giỏ đệm, anh đi thẳng đến trình diện đơn vị mới, nằm ở một góc Câu lạc bộ thanh niên, phía ngã tư Hai Bà Trưng và Hồng Thập Tự. Ba Đông, một đồng đội của Tư Tiến, vui vẻ đón nhận Sơn, hỏi anh dám đi xa không. Sơn gật đầu xin đi chỗ nào xa nhất và ngay hôm sau anh đã có mặt trên một chiếc GMC cùng các đồng đội mới tiến thẳng lên Xuyên Lâm, vùng rừng già của tỉnh Đồng Nai giáp cửa biển sông May. Công việc đầu tiên của anh là làm trung đội trưởng của đại đội Dũng Chí, một đại đội từ trên xuống dưới toàn là con trai, lãnh nhiệm vụ cùng đại đội Hùng Tâm khai hoang mấy hécta rừng để xây dựng một ngôi trường dành cải tạo các thanh niên xìke ma túy và tệ nạn xã hội, giúp họ làm lại cuộc đời trong cuộc sống mới.
Đó là ngày 20 tháng 7 năm 1975.
Thay đổi hẳn một cuộc sống hóa ra là chuyện không quá khó. Sơn lên rừng, ngủ võng, tắm suối, ăn uống tập thể, không điện không nước máy, năm giờ sáng thức dậy tập thể dục, ăn sáng rồi vào rừng cưa cây, chặt lồ ô vác về xây dựng doanh trại, cắt cỏ tranh lợp nhà, đào giếng lấy nước uống, lên liếp trồng rau… quần quật cho đến chiều tối, vậy mà không hiểu sức đâu vẫn còn để chơi bóng chuyền, bóng đá, cầu lông… Những bữa cơm chỉ có gạo hẩm, cá kho, canh bí đỏ, vậy mà ai nấy “đá” đến bốn, năm chén. Năm giờ chiều ăn cơm, buổi tối sinh hoạt đơn vị kiểm điểm công việc đã làm và giao chỉ tiêu ngày mai xong là lại thấy đoi đói, ai chưa muốn ngủ thì gom từng nhóm nhỏ tự nấu món gì đó rồi ngồi lại lai rai, nói dóc. Chỉ đến lúc ấy Sơn mới được thảnh thơi nằm lên võng cầm lấy cây đàn chơi vài bài trong nỗi nhớ Vân. Anh đặt lời Việt cho bài Nathalie của George Moustaki và hát:
Em, đã xa, xa lắc, mất tăm…
Tóc em xõa ra ru hồn anh…
Dỗ anh ngủ trong đêm thương nhớ em vô vàn…
Trái tim nát tan rồi…
Rừng Xuyên Lâm ban đêm lạnh cắt da làm nỗi nhớ càng đặc quánh trong ngực Sơn. Trời lạnh thở ra khói. Đồng đội đốt một đống lửa lớn giữa sam, giăng võng nằm quanh nghe Sơn đàn hát cho đỡ buồn và dễ ngủ hơn. Con Ariel từ đâu chạy đến nhảy phóc lên võng. Không còn là một con mèo quý tộc nữa, nó tự thích ứng sự kham khổ cũng khá nhanh. Chỉ có điều ở rừng lạnh quá, nó cứ nằm loanh quanh trong nhà bếp cho ấm, đã mấy lần bị anh nuôi đòi làm thịt nấu cháo. Suốt ngày không gặp nhưng cứ ban đêm hễ Sơn vừa nằm lên võng là nó lập tức “meo meo” xuất hiện, nhảy lên với anh. Càng nhìn nó Sơn càng nhớ Vân. Anh ôm nó đặt lên ngực rồi trùm mền cho cả hai, mặc đám bạn cười đùa ầm ĩ nói Sơn có vợ mèo, mai mốt đẻ ra một đám mèo quái thai mặt mũi giống anh lại biết hát tiếng người thì tha hồ đem về Sài Gòn biểu diễn hốt bạc.
Cũng trong cái lạnh của rừng Xuyên Lâm, Sơn uống ly rượu đầu tiên trong đời, bắt đầu cuộc kết bạn thâm tình cùng thần men. Đêm đêm, những chàng trai trẻ xa nhà buồn tình khó ngủ, chỉ biết giải khuây bằng bữa nhậu đơn giản với cóc ổi, cá khô, mì tôm, sang lắm thì có nồi cháo thịt rừng, uống say rồi lăn ra ngủ. Năm thiếu đói đó ở miền Đông, rượu mua ở chợ Bà Rô được nấu bằng bắp, bằng khoai mì, nặng tới mức mới ngửi đã muốn say, ai tửu lượng yếu chỉ vài tua là bí tỉ. Không hiểu sao Sơn uống rượu rất lì, càng uống mặt càng tái, chỉ thấy trong người như có một lò lửa đang bùng cháy, bốc ra đôi mắt đỏ rực. Khi đồng đội say mèm nằm lăn lóc quanh đống lửa, Sơn luôn là người cuối cùng đi đắp chăn cho từng thằng. Đại đội trưởng Sáu Tuấn từ chiến khu ra nổi tiếng nhậu cứng vậy mà phải sợ nết uống của Sơn: lầm lầm lì lì, cứ rượu đến là đưa lên miệng nốc. Ít nói ít ăn, nhưng Sơn lại thích cái không khí huyên náo của đám nhậu, tiếng cười ré sau những câu chuyện tiếu lâm mặn của Quân Ròm, tiếng hát hò tám người mười bè trong dàn nhạc gõ nồi nhôm chén sắt…, làm ai nấy quên hết sự cô quạnh giữa rừng. Có rượu, Sơn thấy ấm áp và nằm ngầy ngật nhớ Vân, đôi khi thấy rõ ràng cô đến đứng bên võng, gần đến nỗi anh nghe được cả mùi thơm của ngực cô, đôi môi cong và đôi mắt đen láy cùng mỉm cười. Sơn quàng tay ôm lấy Vân rồi giật mình tỉnh dậy khi thấy vòng tay mình trống không, chung quanh là bóng đêm lạnh ngắt…
Chủ nhật là ngày Sơn thích nhất. Ăn sáng xong, anh và vài đồng đội thường theo Sáu Tuấn xách súng đi sâu vào rừng, tìm săn vài con thú để cải thiện bữa ăn và có mồi nhậu khuya. Rừng già mát rượi, kỳ bí và hoang dã. Mùi ngai ngái của lá mục, mùi thơm nhẹ của hoa của cỏ, mùi hăng hắc của vỏ cây… hòa lẫn vào nhau tạo thành một hương vị hết sức dễ chịu. Nhiều thân cây cổ thụ mấy người ôm không xuể, chót vót trên cao là các nhánh lan rừng đủ màu và mấy tổ chim dòng dọc phất phơ. Két bay từng bầy xanh lét. Lần đầu tiên trong đời Sơn được thấy nhiều loại thú rừng sống giữa thiên nhiên như vậy. Trăn rắn, khỉ vượn, nai mễnh, tê tê, chồn sóc… Có cả con cù lần, gặp người là mắc cỡ lấy hai tay che mặt. Con cheo nhát cáy, đạn bắn chưa trúng đã nằm lăn ra run đợi người đến bắt. Đám gà rừng dạn dĩ đợi bước chân người đi đến sát sạt mới quang quác bay lên. Nhiều con thú như chưa hề biết đến con người, gặp tận mặt vẫn đứng nhìn lạ lẫm, như chính Sơn cũng đang ngạc nhiên nhìn chúng…
Chỉ có hai thứ làm bọn Sơn ngán nhất, là mắc cỡ tây và ve, vắt. Mắc cỡ tây mọc chằng chịt theo cỏ tranh, cao lút đầu người, gai bén ngót. Đi cắt tranh, che chắn cỡ nào vẫn không tránh khỏi bị chúng cào xướt mặt, đâm thủng cả bao tay, sưng tấy, dễ dàng mưng mủ. Vắt còn đáng sợ hơn. Bọn Sơn lên rừng đúng mùa mưa, vắt nhiều vô kể. Chúng như một loại đỉa nhỏ, mềm nhũn, bám đầy trên cây cỏ và luôn sẵn sàng chui vào tay áo ống quần nhẹ nhàng thưởng thức con mồi, chỉ đến khi nạn nhân ngứa ngáy cào mạnh một cái mới sửng sốt thấy máu tuôn ra ướt đẫm. Còn ve rừng mà chui được vào người, đi về cởi quần áo ra tắm thấy chúng bám trên da như những hạt đậu phộng màu tím mọng máu. Khủng khiếp nhất nếu bị nó chui vào tai: nạn nhân bưng đầu rên la, lấy cây móc khều vỡ bụng nó thì máu từ trong tai tuôn ra ròng ròng!
Nhóm đi săn thích đi dọc về thượng nguồn con suối dẫn ra sông May, thỉnh thoảng bắt gặp những dấu chân mễnh, chân cọp tối qua ra uống nước còn in vết lại rõ mồn một. Về hướng Tây, sau một ngọn đồi, là cả một thung lũng cỏ tranh. Mặt trời lên nhuộm ánh vàng loang dần xuống trảng cỏ, đẹp như trong mơ. Nơi đó cây hà thủ ô mọc rất nhiều, sáng sớm đã thấy mấy anh em đội viên siêng năng tranh thủ ngày nghỉ ra cắt lá về nấu nước uống và đào lấy củ để dành đem về thành phố làm quà. Các nhóm khác rủ nhau đi chặt mây, hái lan, tìm tổ ong… Rừng hào phóng tặng họ tất cả.
Trong một chuyến thăm rừng như thế, Sơn được chứng kiến một câu chuyện nhớ đời. Đang đi, Sáu Tuấn chợt dừng bước, suỵt khẽ một tiếng. Cả nhóm đứng khựng lại, trố mắt nhìn. Trên mấy ngọn cây trước mặt, một bầy voọc[24] đen đang chí chóe đùa giỡn. Thịt dộc đỏ lòm lại có mùi hơi nặng, nhưng dẫu sao nướng lên chấm muối ớt vẫn ngon hơn những con cá phèn, cá mối kho nước mắm rẻ tiền tanh rình. Sáu Tuấn là một tay súng có hạng. Cây Carbine theo anh từ những ngày ở chiến khu, từng hạ gục không biết bao nhiêu thú rừng làm thực phẩm tươi cho đơn vị. Anh nín thở nâng súng lên ngắm và “đoành” một phát, một con dộc lớn lập tức ré lên một tiếng rồi rơi phịch từ trên cây xuống. Bầy dộc biến mất trong chớp nhoáng, chỉ trừ duy nhất một con còn đứng lại nhìn theo con dộc bị bắn và kêu lên những tiếng xé ruột. Nó nghiêng nghiêng ngó ngó nhìn quanh rồi theo thân cây chuyền lần xuống. Sáu Tuấn thở dài, nâng súng lên bắn phát thứ hai. Con dộc trúng đạn nhưng vẫn còn cố lết tới ôm lấy con kia rồi mới gục xuống chết, hai mắt mở trừng trừng, miệng ứa máu.
Trên đường về, thấy tất cả cùng im lặng, Sáu Tuấn giải thích như một lời trần tình:
- Dộc là giống rất chung tình. Đây chắc chắn là hai vợ chồng, con vợ thấy chồng bị bắn nhưng vẫn không chịu bỏ đi. Nó muốn cứu chồng. Nếu con chồng chết chắc nó cũng không sống được bao lâu nữa…
Buổi trưa hôm đó Sơn không thể đụng tới một miếng thịt dộc.
Đóng quân ở bìa trảng tranh là đại đội Hùng Tâm, cách doanh trại đại đội Dũng Chí khoảng mười phút đường rừng. Đại đội này lại có một trung đội nữ, hầu hết cũng xuất thân từ sinh viên học sinh các trường, vừa xinh xắn - ở giữa rừng toàn khỉ với dộc thì cô gái nào lại không xinh? - lại vừa có trình độ giao tiếp nên các đội viên C[25] Dũng Chí của Sơn cứ hay kiếm cớ lân la giao lưu, nào là thi cầu lông, thi văn nghệ, rồi đem đậu đem đường qua nhờ các cô nấu chè cùng ăn… Cũng may là anh em bên Hùng Tâm không hề mắc bệnh “trai làng giữ của”, luôn sẵn lòng đón tiếp.
Sơn bị anh em gọi là “thầy tu” khi không tham gia bất cứ cuộc giao lưu nào với các cô gái ở B3[26] của Hùng Tâm, cũng chẳng hề quan tâm cô nào được anh em hàng đêm nằm tranh cãi xếp hạng hoa khôi. Ngoài giờ lao động và vào rừng chơi, Sơn chỉ thích ôm đàn hoặc đọc sách, thú vui từ nhỏ của anh. Lần đầu tiên tiếp xúc với văn học Xô viết, văn học cách mạng, Sơn mê mẩn với Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân, Một người chân chính, Mẫn và tôi, Chiếc lược ngà, Dấu chân người lính… Anh đọc không sót cuốn sách nào của thư viện đại đội và cứ có ai về thành phố công tác là anh lại nhờ mua sách mới đem lên. Những cuốn sách… Đó chính là những người thầy, người bạn, vừa thinh lặng an ủi ta trong lúc buồn phiền lại vừa giúp ta bao hiểu biết về cuộc sống, cảm thông với bao thân phận con người. Sơn đọc và đọc, chìm đắm suy tư về từng số phận nhân vật. Với mỗi mối tình trong sách, Sơn lại nghĩ về chuyện mình với Vân. Trong sách, rất hiếm có tình yêu nào được suôn sẻ bình thường, dường như các tác giả luôn cố công xây dựng sự éo le trắc trở để lôi cuốn người đọc và muốn họ tin rằng một tình yêu càng gặp nhiều thử thách sẽ càng đẹp. Còn tình yêu giữa Sơn và Vân? Liệu đã đứt ngang khi giờ đây mỗi người đang ở một hướng ngược chiều nhau, hi vọng gặp lại hết sức mong manh? Sơn được kết nạp Đoàn thanh niên lao động vào đúng ngày Quốc khánh, cũng có nghĩa nay anh đã là một người cộng sản trẻ. Còn Vân? Giờ này hẳn nàng đã sang tới Mỹ và bắt đầu một cuộc sống mới khác hẳn cuộc sống của Sơn nơi đây. Sơn đau nhói lòng khi nghĩ chắc mình sẽ không bao giờ được gặp lại Vân hoặc có gặp cũng phải lâu lắm và đường ai nấy đi. Mối tình đầu tươi đẹp của anh coi như đã chấm dứt!
Chú thích:
[23] Nay là đường Lý Tự Trọng.
[24] Voọc: một loại vượn.